Trong thế kỷ 20, nói đến công nghiệp sản xuất vũ khí ở nước Mỹ là phải nhắc tới các tập đoàn Lockheed Martin, Northrop Grumman và General Dynamics. Bây giờ, một “công ty quốc phòng” khác ở Mỹ mới thành lập năm 2003 ở Denver, Colorado, có lúc trị giá trên thị trường chứng khoán cao hơn cả ba công ty trên cộng lại!
Năm 2014, các cổ phần của Palantir Technologies trị giá tổng
cộng $9 tỷ mỹ kim, có lúc đã lên tới $250 tỷ trước khi tụt xuống. Ngày 24 tháng
2 còn đáng giá $206 tỷ. Palantir Technologies không chế tạo bom, đạn, hỏa tiễn
hay tầu ngầm mà chỉ sản xuất những “phần mềm,” cung ứng cho quân đội Mỹ.
Palantir Technologies hiện đặt bản doanh ở Palo Alto, California, một trung tâm
công nghiệp tin học. Chủ tịch công ty, Peter Thiel ủng hộ Tổng thống Donald
Trump từ khi ông tranh cử lần đầu; còn CEO là Alex Karp thì chống ông Trump kịch
liệt. Nhưng dù đảng nào chiếm Tòa Bạch Ốc thì quân đội Mỹ cũng vẫn là khách
hàng lớn nhất của Palantir.
Chiến trường Ukraine là nơi thí nghiệm các sản phẩm của những
công ty “quốc phòng mới” như Palantir. Họ góp phần kỹ thuật giúp Ukraine sản xuất
các máy bay nhỏ không người lái (drones), bay xa hơn và nhờ làm tại chỗ nên chi
phí thấp hơn. Ngoài ra còn trí khôn nhân tạo (AI) giúp xác định các mục tiêu tấn
công, hướng dẫn các drones tới địa điểm nằm sau trận tuyến, vào sâu trong đất địch.
Chiến tranh Ukraine là một “phòng thí nghiệm” cho các chiến cụ mới. Các công ty
Mỹ gửi người qua đó thường xuyên để thẩm định hiệu quả tác chiến rồi điều chỉnh
việc sản xuất, có thể thay đổi kiểu mới trong vài tháng hay vài tuần lễ.
Các “vũ khí mới” này đã thay đổi chiến trường, nhưng chính
quân đội Mỹ thì vẫn chưa kịp thay đổi. Tướng Mark Alexander Milley, 67 tuổi, từng
làm tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ từ 2019 đến 2023, nói thẳng với báo Economist rằng
cả guồng máy chiến đấu hiện tại “không thích hợp” (unfit) với hình thái chiến
tranh trong tương lai. Công nghiệp quốc phòng sản xuất những vũ khí mới nhưng
quân đội chưa biết đem ra sử dụng.
Quân đội Mỹ chưa mua đủ các “vũ khí mới” từ drones cho đến
trí khôn nhân tạo; và binh sĩ chưa được huấn luyện để biết cách dùng. Một lý do
là hệ thống tiếp liệu chậm chạp chưa thích ứng kịp. Thông thường, quân đội Mỹ đặt
mua các vũ khí theo yêu cầu của các vị chỉ huy. Lầu Năm Góc, tức bộ Quốc phòng,
giúp các công ty nghiên cứu, vẽ kiểu, thí nghiệm và sản xuất, hầu như từ đầu đến
cuối. Những công việc này kéo dài, thường tính bằng số năm. Trong khi đó, các
vũ khí mới, từ drones cho đến trí khôn nhân tạo, AI, thay đổi từng tháng. Trên
chiến trường Ukraine trung bình sáu tuần lễ đã có thay đổi.
Tướng Rory Crooks, thuộc bộ Quốc phòng, mới nói với Business
Insider rằng hai chìa khóa để thành công trong chiến tranh tương lai
là “di động nhanh” và “phân tản rộng.” Cả binh sĩ và vũ khí cần di động nhanh
chóng; vì những máy bay không người lái lúc nào cũng quanh quẩn trên đầu ngó xuống.
Drones vừa theo sát quân địch vừa có thể mang bom thả xuống để sát hại. Các đơn
vị pháo binh là mục tiêu chính cho drones tấn công. Một chiếc drone có thể phá
hủy cả cỗ đại pháo hoặc cả toán quân điều khiển khẩu súng. Công tác tiếp liệu đạn
dược cần thay đổi, vận chuyển nhanh chóng, khi cần đến là có ngay, mỗi lần một
số lượng nhỏ để tránh thiệt hại nhiều quá, Tướng Crooks giải thích.
Các chuyên gia thuộc Cơ quan nghiên cứu chiến lược Royal
United Services Institute tại London, Anh quốc, ghi nhận rằng quân đội Nga và
Ukraine đã thay đổi cách điều động pháo binh của họ. Họ bố trí các đại pháo hoặc
hỏa tiễn cách xa nhau hàng trăm mét, được bảo vệ bốn mặt và cả bên trên. Các xe
tiếp liệu và đạn dược khi tới nơi đều đặt xa các khẩu pháo đang nhả đạn. Thời
gian mỗi khẩu đại bác hoạt động thường không kéo dài, vì số đạn mang tới bị giới
hạn với số lượng nhỏ. Lại còn phải đưa súng qua địa điểm khác ngay sau khi nhả
hết một số đạn, trước khi các drones bên địch bay tới nhả bom. Tướng Crooks nhận
xét các máy bay nhỏ không người lái đang thay thế vai trò của pháo binh trên
chiến trường Ukraine. Nhưng dù sao quân đội vẫn cần đến pháo binh trong các trận
địa chiến.
Nói chung, chiến cụ thay đổi khiến quân đội nước nào cũng phải
thay đổi trong ba lãnh vực. Thứ nhất là chiến đấu với thứ vũ khí nào. Thứ nhì
là công nghiệp quốc phòng thay đổi với những phát minh mới. Thứ ba, khó đổi nhất,
là cách cho đấu thầu cung cấp vũ khí cho quân đội như thế nào.
Có người nghĩ rằng không cần thay đổi nhiều vì những mục
tiêu của quân đội vẫn như cũ: quân số phải đông, vũ khí đầy đủ và chiến thuật
thích ứng nhanh. Vẫn cần tăng số xe thiết giáp, chiến hạm, máy bay chiến đấu và
hỏa tiễn. Ngược lại, có người, như ông Elon Musk, người đã chỉ trích bộ quốc
phòng tiêu phí hàng trăm tỷ đô la, cho rằng phải thay đổi tất cả. Mấy chiếc
drones rẻ tiền, giá từ $1,000 đến $10,000 đô la có thể phá hủy cả một phi cơ
F-35 hay một chiến hạm tốn hàng triệu hay hàng chục, hàng trăm triệu. Chi tiêu
hàng tỷ mỹ kim chế tạo những thứ dễ bị phá hủy như thế để làm gì?
Tất nhiên, có cách suy nghĩ trung dung hơn. Phát triển các
khí cụ mới nhưng không bỏ những thứ cũ. Những máy bay drones không thể nhanh
chóng phá hủy cả hệ thống phòng không của quân địch, vì không thể mang những thứ
bom rất nặng. Chúng cũng không thể tự bay ra tới giữa đại dương nếu không được
các “mẫu hạm” đưa tới gần. Chúng rất dễ bị “kẹt” và “loạn động” nếu bên địch
phá các tín hiệu điều khiển. Nghĩa là chúng vẫn cần những thứ như pháo đài bay
và chiến hạm, tàu ngầm mở đường và dọn đường. Những chiến hạm, chiến đấu cơ,
pháo đài bay, vân vân, vẫn đắc dụng. Những chiến cụ này dọn đường cho các
drones và AI, trí khôn nhân tạo, thi thố tài năng.
Quân đội sẽ phải lựa chọn, bỏ những chiến cụ nào và giữ cái
nào. Báo Economist nghe Tướng Mark A. Milley tỏ ý rằng Mỹ nên
tăng gấp đôi số tàu ngầm. Những “tiềm thủy đĩnh” này rất phức tạp và tốn kém,
nhưng chúng có thể tránh thoát không bị bên địch dùng drones và AI mà nhòm thấy,
tiên đoán các hành động. Ngược lại, trong tương lai Hải quân Mỹ sẽ không cần đến
những hàng không mẫu hạm bây giờ đang chạy. Các chiến đấu cơ tối tân như F-35
chắc cũng sẽ không cần nữa, ông Milley nghĩ.
Vì nhu cầu của quân đội thay đổi, hệ thống cung cấp cũng
thay đổi. Trong ba chục năm qua, các xí nghiệp sản xuất chiến cụ đã được tập
trung, từ con số 51 xuống chỉ còn 5, gồm các công ty lớn. Các công ty này có thể
là những guồng máy nhân sự nặng nề, không kích thích các sáng kiến, phát minh.
Bây giờ, các xí nghiệp quốc phòng mới xuất hiện đang chiếm chỗ. Trước đây ngoài
vũ khí, các xí nghiệp còn làm đủ thứ khác. Như công ty xe hơi Ford cũng chế vệ
tinh quốc phòng; công ty thực phẩm General Mills bán các thứ làm bằng bột mì
cũng chế bộ phận hướng dẫn cho hỏa tiễn liên lục địa. Ngày nay, số xí nghiệp đặc
biệt chỉ chuyên về quốc phòng đã tăng lên. Trước năm 1989 các xí nghiệp chuyên
biệt chỉ thầu được 6% số tiền mua vũ khí của bộ quốc phòng Mỹ, bây giờ họ chiếm
86% ngân sách.
Nhu cầu thay đổi, nhưng cung cách quyết định của bộ máy quốc
phòng, từ Chính phủ qua đến Quốc hội, rất khó đổi. Các đại biểu Quốc hội nắm
“quyền chi tiền” và bảo vệ quyền hành này rất mạnh, đặc biệt khi có thể đem các
món chi tiêu về tiểu bang hoặc đơn vị của mình. Sau khi Quốc hội biểu quyết
ngân sách, năm nay là $800 tỷ mỹ kim, bộ Quốc phòng không được thay đổi quá $50
tỷ. Mỗi lần thay đổi $15 triệu là phải giải chích với các ủy ban. Muốn di chuyển
một số tiền qua một món chi tiêu khác, thí du mua drones hay trí khôn nhân tạo,
AI, phải thông qua Quốc hội, và có thể phải mất 2 năm mới xong. Muốn chi $500
triệu mua drones đã phải tới thuyết trình 50 lần với các đại biểu. Chậm chạp
sinh ra tốn kém. Ông Michael Brown, người từng đứng đầu cơ quan về cải tiến
(DIU) của nhận xét khi ông còn làm việc, trước năm 2023, đặt mua mỗi chiếc
drone phải chịu giá $17,000 mỹ kim. Bây giờ giá tụt xuống thấp hơn một phần mười
giá đó. Nếu quyết định nhanh chóng thì sẽ đỡ tốn hơn nhiều!
Cả guồng máy quyết định và mua chiến cụ chậm chạp sinh ra tốn
kém, nhưng còn khiến quân đội Mỹ thiếu những thứ “vũ khí” đang xuất hiện trong
thị trường. Ông Yili Bjraktari, cựu nhân viên bộ quốc phòng giờ làm việc nghiên
cứu, nói với báo Economist, “Nước Mỹ đứng đầu thế giới về phát
minh, sáng chế - và quân đội Mỹ chưa sử dụng.”
Ngô Nhân Dụng