(Xem phần Một)
(tiếp theo và hết)
Những ngày kế tiếp, vẫn sinh hoạt như thường lệ, sáng điểm
danh, tập thể dục, đọc nội quy, cơm hai bữa, đói triền miên rồi cũng quen dần.
Tù binh từ hạ sĩ quan trở xuống được vệ binh dẫn ra ngoài trại, dọn dẹp chặt
cây kiếm củi cho nhà bếp. Đám sĩ quan chỉ được quanh quẩn trong vòng rào, quét
lá, vệ sinh lán trại, họ không cho ra ngoài lao động, có lẽ sợ chúng tôi bỏ trốn.
Buổi chiều, cán bộ chính trị tổ chức các lớp tuyền truyền nói về cái cái lý tưởng
Cộng Sản, chủ nghĩa Mác-Lê làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, xóa bỏ tư hữu,
giai cấp mọi người đều bình đẳng, vân vân… Ôi, họ nói như vẹt, thao thao bất
tuyệt như đã được học thuộc lòng, chắc họ cũng biết Nga Tầu cũng “tư hữu”, quyền
lợi riêng mà đánh nhau chí chóe thì bao giờ tiến tới thế giới đại đồng? Sau đây
lầ những mẫu đối thoại điển hình giữa tù nhân và chính trị viên trong những buổi
thuyết giảng đầu tiên:
- Các
anh cứ mạnh dạn đặt câu hỏi bất cứ về vấn đề gì, chúng tôi hứa sẽ trả lời đầy đủ
cho đến khi các anh thông suốt, nếu câu hỏi ngoài sự hiểu biết của chúng tôi,
chúng tôi sẽ chuyển lên cấp trên để trả lời các anh, và nhắc lại chúng tôi
không hề để ý, trù dập vì câu hỏi của các anh.
- Cho
chúng tôi hỏi, xin anh cho biết Miền Bắc đã đạt được Xã Hội Cộng Sản chưa? Nếu
chưa thì bao giờ tiến tới được?
- Để
tiến tới xã hội cộng sản, phải xây dựng xã hội chủ nghĩa. cách mạng nước ta đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ: Đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lươc, giải phóng miền
Nam và xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc. Dưới mái nhà Xã Hội Chủ Nghĩa,
nhân dân được hưởng giáo dục, y tế miễn phí, không có người ăn xin, không có tệ
nạn xã hội như trộm cắp, đĩ điếm, thuốc phiện và chất gây nghiện vân vân. Mọi
người hăng hái lao động thể hiện nếp sống văn minh, vân vân...
Họ dùng những từ ngữ nghe lạ tai, hoa mỹ chính trị và mơ hồ,
khoe khoang cái xã hội miền bắc trái ngược với hình ảnh chúng tôi thấy và biết
được qua báo chí, truyền hình do các phóng viên thu được lúc Bắc Việt trao trả
tù binh Mỹ. Họ nói chúng tôi được tự do hỏi, nhưng câu nào họ bí là chụp mũ phản
động, tay sai đế quốc Mỹ, vân vân…
Vì thấy họ treo cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam, chúng tôi hỏi, họ trả lời rất trắng trợn như sau:
- Các
anh là bộ độ miền bắc?
-
Không, chúng tôi là bộ đội giải phóng miền nam.
- Các
anh nói giọng Bắc rõ ràng mà.
- À…,
chúng tôi gốc miền bắc, nhưng vào nam lâu rồi….
Họ trả lời rất ngượng ngạo về câu hỏi này, vì sự thật phơi bầy
rành rành. - Vì sao vậy? Vì họ công bố với quốc tế rằng không có quân đội miền
bắc ở miền nam, chỉ có người miền nam nổi dậy, nên trong hiệp định Paris không
có mục nào đòi quân miền bắc rút về.
Chiều cùng ngày, tất cả tù nhân được tập họp (họ gọi là tập
trung) ngồi ở sân trước lán, cán bộ trại với cái loa chạy bằng pin. Họ nói:
"Các anh may mắn được cách mạng bắt là sống, nếu còn trong hàng ngũ tay
sai mỹ ngụy, chỉ là bia đỡ đạn cho chúng rồi cũng bị tiêu diệt". Cứ mỗi lần
nói xong một đề tài, họ lại đề nghị vỗ tay, hành động này thật mới lạ, vì vỗ
tay là do ý của khán thính giả, nếu diễn giả nói hay, thì tự ý người nghe vỗ
tay khen thưởng chứ.
Và họ thông báo về việc khai báo lý lịch:
- Với
chính sách khoan hồng của chính phủ và nhân dân đối với Ngụy quân, Ngụy quyền
làm tay sai cho đế quốc Mỹ, các anh đươc đối sử tử tế, vì thế, các anh phải tự
soi vào bản thân mình, đã làm gì chống lại nhân dân và cách mạng, ăn năn hối cải
bằng cách thật thà khai báo. Nhắc lại, dưới chính sách khoan hồng, chủ trương
đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, dù các anh có tội tầy trời như thế
nào cũng được khoan hồng.
Họ còn răn đe:
- Anh
nào còn cố tình che dấu, lấp liếm sẽ bị thẳng tay trừng trị. Tối nay các anh tự
suy nghĩ soi lại bản thân, chuẩn bị tư tưởng để ngày mai khai báo những việc
làm của các anh từ tuổi biết nhận thức cho đến nay.
Tối về, chúng tôi thì thầm bàn tán với nhau nên khai như thế
nào? Khai hết sự thật Liệu họ có khoan hồng như họ nói không? Tôi bàn với mấy
anh em nằm gần, đừng nghe họ nói, cái gì có thể dấu dược nên dấu, riêng mấy anh
em đơn vị đồn trú tại Ban Mê Thuột, tôi đã dò hỏi, không có đơn vị nào kịp đốt
hồ sơ khi rút chạy, nên khai thật lí lịch của mình còn công trạng thành tích dấu
được cái nào hay cái ấy. Riêng tôi, vì cơ quan của tôi có liên hệ với tất cả với
đơn vị đồn trú trong thị xã, và cả với dân chúng nên khó mà dấu diếm lý lịch của
mình, vả lại tôi bị tụi nằm vùng bắt giải giao cho bộ đội, chứng tỏ họ đã biết
tôi là ai rồi.
Ngày hôm sau, chúng tôi được phát mỗi người hai tờ giấy đôi dính liền bốn trang
khổ lớn có gạch để viết cho thẳng hàng, và một cây viết bi (viết bi này có lẽ họ
lấy ở Ban Mê Thuột nên mới đủ phát cho cả ngàn người) mỗi lán đều có cán bộ
trông coi, dẫn giải cách khai và giải đáp những gì chúng tôi còn lấn cấn, thắc
mắc. Câu hỏi nhiều nhất là thành phần giai cấp xã hội. Ở miền nam chỉ có người
giầu kẻ nghèo nên không biết mình thuộc giai cấp gì. Họ giải thích, xã hội các
anh theo tư bản nên có nhiều giai cấp như: Tư sản mại bản, tiểu tư sản, tiểu
thương, công nhân, địa chủ, phú nông, trung nông, bần nông, vân vân…, các anh tự
xét mình rơi vào thành phần nào. Thật là rối rắm quá sức, chúng tôi là lính,
thành phần xã hội là lính sao phải khai cái này? Họ giải thích, không phải bản
thân các anh, mà bản thân gia đình ba đời các anh thuộc thành phần nào.
Đây là những mẫu đối thoại, cán bộ giải thích để xếp loại
thành phần của anh em tù binh chúng tôi:
- Thưa
anh, thành phần xã hội trong nam khác với ngoài bắc, nên chúng tôi rất bối rối,
không biết xếp vào loại thành phần nào?
- Thế
các anh đi lính, Mỹ Ngụy trả lương các anh một tháng bao nhiêu?
- Khoảng
vài chục ngàn một tháng. (tôi nhớ lương độc thân của tôi, Trung Úy ở đơn vị
không tác chiến lãnh 25 ngàn đồng một tháng)
- Thế
quy ra gạo được bao nhiêu cân?
- Được
khoảng hơn tạ gạo.
- Rõ
ràng, với số gạo như thế, các anh ăn làm sao hết, các anh liệt vào giai cấp tư
sản bóc lột.
- Với
số lương như thế, chúng tôi sống còn chặt vật, là thành phần nghèo trong xã hội
thì sao gọi là bóc lột được.
Cuối cùng, cán bộ cũng trả lời một cách mơ hồ:
-
Thôi, các anh cứ tự soi bản thân mình, gia đình mình, xem rơi vào thành phần
nào rồi thành thật khai báo, chúng tôi sẽ xem sét cụ thể từng người.
Buổi chiều cùng ngày, cán bộ ra lệnh là từng người chúng tôi
phải đọc to bản khai báo của mình cho mọi người cùng nghe, nếu ai phát hiện người
nào khai man trá, phải mạnh dạn tố cáo, đấu tranh để người sai phạm nhận thức
được cái sai của mình, giúp họ trở thành người tiến bộ. Cách đọc to lý lịch thật
thâm cay, làm chúng tôi hoang mang sợ bị anh em, nhất là bọn ton hót kiếm điểm
tố cáo mà không giám dấu diếm, khai man.
Liên tiếp những ngày sau, chúng tôi một số người bị gọi lên
thẩm vấn trong đó có tôi. Họ hỏi tôi:
- Đơn
vị anh, Quân Trấn là làm gì?
- Việc
chính của chúng tôi là kiểm soát việc phòng thủ của tất cả các đơn vị đóng
trong địa bàn thị xã.
- Còn
những việc gì khác?
- Kiểm
soát an ninh trật tự trong thị xã, bắt giữ xử phạt quân nhân vi phạm kỷ luật.
- Còn
chức vụ sĩ quan điều hành và bài trừ tệ nạn xã hội là anh làm gì?
- Tôi
giải quyết và ngăn chặn lính tráng vướng vào tệ nạn xã hội thôi.
- Anh
phải nói cụ thể công việc của anh, không nói chung chung.
- Về
trật tự, chúng tôi bắt giữ quân nhân say sưa, phá phách, ăn mặc lôi thôi và vi
phạm kỷ luật ngoài đường phố. Còn tệ nạn chúng tôi giải quyết, triệt phá ổ mãi
dâm, hút sách, cờ bạc theo kế hoạch của tỉnh trưởng.
- Anh
là sĩ quan an ninh, có quyền bắt giữ, hối lộ, vơ vét, có nhiều nợ máu với nhân
dân.
- Tôi
chỉ là sĩ quan lo về an ninh trật tự, tệ nạn xã hội không dính dáng gì với
ngành an ninh cả và chỉ đối với quân đội mà thôi, không dính gì đến nhân dân mà
hối lộ vơ vét mang nợ máu với nhân dân. Ở thị xã nhỏ bé này nhiều người biết
tôi, tôi ở nhà thuê, sống nghèo rõ ràng là tôi bị các anh nằm vùng bắt giao cho
ban quân quản rồi họ giao cho các anh, họ biết tôi, nếu tôi ác ôn, hối lộ, vơ
vét ở dịa phương thì họ không giao tôi cho các anh đâu.
- Anh
làm việc tốt cho Mỹ Ngụy, là tội chống lại nhân dân một cách tích cực.
Cuối cùng, tôi hơi bực và nghiêm giọng trả lời họ:
- Xã hội
nào cũng phải có cơ quan lo về an ninh trật tự và lo bài trừ các tệ nạn xã hội,
giữ bình yên cho dân chúng, không thể nợ máu với nhân dân được!
- Thôi
được, anh trở về trại, chúng tôi còn phải điều tra thêm về anh.
Vài ngày sau, một sự bất ngờ là tôi được gọi lên ban chỉ huy
trại, họ dẫn tôi vào một cái nhà tranh nhỏ trống trải gọi là nhà khách, có đặt
một cái bàn dài và hai băng ghế đặt chạy dọc theo hai bên bàn, tất cả đều làm bằng
tre. Tôi hơi giật mình lẫn chút ngạc nhiên, nhìn thấy một người phụ nữ ngồi cạnh
góc bàn mặc bộ đồ xanh mầu cứt ngựa bộ đội, trông cô này rất quen. Người bộ đội
dẫn tôi vào giới thiệu, “Đây là chị Ba Thủy, trực thuộc ban quân quản muốn nói
chuyện với anh.” Rồi bỏ ra ngoài.
Đây là người con gái lần đầu tôi gặp tại một đám cưới, được
nhà trai cố tình sắp xếp tôi ngồi cùng bàn để giới thiệu, và sự trùng hợp ngẫu
nhiên là cô giáo dạy trường tiểu học nơi đứa cháu ở với tôi học lớp hai, vì nó
rất ngỗ nghịch hay la cà trên đường đi học nên tôi có nhờ cô ta, có xe gắn máy,
đến nhà tôi chở nó đi học hằng ngày, dần dà trở nên thân thiết.
Thấy tôi bước vào, cô ta đứng dậy giơ tay mời tôi ngồi vào
băng ghế bên cái bàn tre đối diện, điệu bộ này giống như cán bộ hỏi cung tôi mấy
hôm trước, tôi nghĩ nhanh, thôi rồi, con nhỏ này hỏi cung thì mình không dấu diếm
gì được.
- Anh,
chắc anh ngạc nhiên lằm phải không? Được biết anh ở đây, nhân dịp có chuyến
công tác ngang qua, em xin phép tổ chức, ghé thăm anh một chút, anh cứ tự
nhiên, xem em như ngày nào.
Tôi trả lời nhanh trong dè chừng, giữ khoảng cách.
- Đúng
rồi, làm sao không ngạc nhiên được, cô không phải là cô Vân như trước đây, nay
là cán bộ Ba Thủy đã khác xưa, trước đây nếu biết thế này thì sự thể đã… khác….
(Tôi định nói đã bắt cô rồi, nhưng không dám). Tôi bây giờ là tù binh của bên
cô, như cá trong rọ, cô muốn khai thác gì, tôi sẵn sàng.
-
Không, em đến thăm anh vì tình cảm, cám ơn anh đẽ giúp đỡ em trong thời gian hoạt
động trong lòng địch, em có nói với ban lãnh đạo trại, anh là người có công với
cách mạng…
Tôi vội ngắt lời, phủ nhận.
- Tôi
chả có công gì với cách mạng cả, nếu tôi biết thế này tôi đâu có giúp cô, cứ
nói họ đối sử với tôi như những tù bình khác.
- Thôi
thì tùy anh, em phải đi, nhân tiện em có ít quà mang cho anh đây, vì vội vã nên
chỉ có cái bánh tét, nải chuối và hai gói thuốc, em đã xin phép ban lãnh đạo trại
rồi, mong anh nhận cho như một lời cám ơn của em.
Cô ta mở to miệng giỏ cói đựng quà, cố ý để tôi nhìn thấy những
vặt bên trong rồi trao cho tôi. Mặc dù rất thèm nhưng tự ái vì mình đã bị lừa
và lợi dụng nên nhất quyết xua tay.
- Tôi
đâu có làm ơn gì cho cô đâu mà nhận ơn, cô cứ cầm về đi.
- Thôi
mà, em vẫn xem anh là một người anh như xưa, mong anh nhận cho.
Lúc ấy có tên bộ đội vào để nhắc cô ta đến giờ phải đi, cũng
chen vào nói.
- Anh
nhận đi, công chị ấy lặn lội mang tới đây.
Tôi nể lời nhận lấy cái giỏ. Cô ta nhìn nhanh tôi chào từ biệt.
Cũng đôi mắt ấy, nhưng cái nhìn hôm nay, hình như có long lanh một ít xúc động
nào đó nên cô ta vội vã ngoảnh mặt bước đi. Có thể cô ta xúc động khi nhìn thấy
hình hài tiều tụy của tôi chăng? Họ là người Cộng Sản được cho là sắt đá, nhưng
vẫn là con người, cũng có đầy đủ thất tình, lục dục, tôi nghĩ thế. Bây giờ tôi
đã hiểu, chúng tôi quen nhau không phải tình cờ, có sự sắp xếp trước. Người ta
gần gũi tôi để thu nhặt tin tức và để xin giúp đỡ khi gặp rắc rối, còn tôi nhờ
cô ấy đưa đứa cháu ngỗ nghịch đi học hàng ngày. Chỉ vậy thôi. Chúng tôi vẫn giữ
khoảng cách với nhau. Chắc cô ấy không muốn qúa thân thiết hơn mức bình thường
vì sợ bị tôi khám phá ra những hoạt động bí mật của nàng. Còn tôi vì quá lu bu
với trách nhiệm và gia đình nên chẳng để ý đến tình cảm riêng tư. Đôi khi nhìn
theo giáng người nhỏ nhắn, nước da trắng hồng với nụ cười bí hiểm, tay giắt thằng
cháu tôi đi dung dẻ, như hai mẹ con. Một thoáng hình ảnh về một mái ấm gia đình
lóe lên trong đầu, làm tôi bâng khuâng nhưng rồi lại quên đi. Những giây phút
chợt ẩn chợt hiện như vậy chẳng bao giờ thật rõ ràng. Tôi vẫn sống độc thân với
bao lo lắng vì chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt.
Nhớ lại, trước đây có nhiều dấu hiệu, việc làm của cô ta dễ
dàng nhận biết là kẻ nằm vùng, nhưng tại sao tôi không để ý đến? Có lần cô ta bị
cảnh sát bắt về tội chủ ghi số đề, được tin, tôi chạy ngay lên ty cảnh sát gặp
Đại Úy Tuấn, trường phòng tư pháp ty cảnh sát, xin cho cô ta. Anh Tuấn là
người rất quen biết với tôi, vì hồ sơ của những người dân sự phạm pháp, bị Quân
Trấn bắt giữ, chuyển giao qua phòng tư pháp cảnh sát là do tôi ký. Anh ấy hỏi
ngay khi tôi bước vào phòng nêu vấn đề với anh:
-
Chị này quen với anh à?
- Cô
này chỉ là cô giáo dạy đứa cháu của tôi, anh biết đấy, lương giáo chức tiểu học
không bao nhiêu lại phải lo cho mẹ già và em gái, nên túng làm liều, ghi số đề
kiếm thêm thôi. Xin anh thông cảm cho tôi lãnh ra, tôi sẽ nhắc nhở cô ta việc
làm này là phạm pháp, không được tái phạm.
Anh Tuấn nghiêm sắc mặt, không thấy thân thiện như mỗi lần gặp
tôi lúc trước, nói với tôi:
- Chị
này đâu phải ghi đề ăn hoa hồng mà là chủ đề, tôi có bằng chứng, tịch thu nhiều
cùi ghi đề trong nhà chị ta, chắc anh không biết thôi.
Tôi tức vì thái độ không thân thiện của Tuấn, hắn nhiều lần
nhờ vả tôi về hồ sơ điều tra tư pháp mà hắn thụ lý. Sao lúc đó hắn nhờ tôi thì
sởi lởi vui vui vẻ thế, đúng là tư pháp cảnh sát vào tròng họ là biết! Tôi nén
giận, xuống giọng năn nỉ:
- Đại
Úy ơi, cô này lương giáo viên ba cọc ba đồng, ở cái nhà lợp tôn, nghèo như thế
làm chủ sao được, ai tin mà mua số, lỡ trúng lấy tiền đâu chung.
Hắn thấy tôi xuống giọng lại gọi hắn bằng cấp bậc, thay bằng
anh thân thiện nên biết ý, sau này khó mà nhờ vả tôi. Hắn vui vẻ nói với tôi:
- Anh
Sỹ à, tôi tin anh, chuyện này chỉ là chuyện nhỏ thôi, anh ngồi chờ đây một lát,
tôi bảo nhân viên làm giấy thả, anh ký nhận cô ta về.
(Bây giờ tôi mới biết, cô ta đích thực là cán bộ kinh tài
cho việt cộng).
Một lần,
đứa em gái cô ta nửa đêm gõ cửa nhà tôi, bảo là chị Vân nhờ tôi lại nhà, nói có
mấy ông lính ăn nhậu ở nhà cô ta đến giờ không chịu về, vì chị ngày mai phải đi
làm không thể thức khuya tiếp đãi mấy ông ấy được. Tôi hơi bực, vội vàng mặc quần
áo, lên xe cô ta chở tôi đến nhà. Vừa đến nhà đã nghe tiếng ồn ào, bàn nhậu năm
sáu ông sĩ quan biệt động quân tôi đều quen biết, đang cụng ly nói chuyện rân
ran, tôi lên tiếng:
- Con
lạy các bố, người ta là phụ nữ còn độc thân, mai phải đi làm, mấy bố còn ăn nhậu
đến giờ này chưa chịu về à?
Một thằng mang lon trung úy, quen với tôi, đứng dậy giọng lè
nhè vung tay nói:
- Tưởng
ai, lại là mày. Ê, ngồi đây nhậu với tụi tao, hay mày định đến bắt tụi này?
À, thằng này dùng “này” thay cho “tao” ý là muốn gây đây,
tôi vẫn giữ giọng cũ:
- Con
đến đây để lạy các bố, xin các bố về cho, khuya rồi, ngày mai người ta còn phải
đi làm.
- Ê,
cô Vân này mời tụi tao nhé, chứ đâu phải tự ý quấy rầy cổ đâu.
(Thế mới biết, tại sao cô ta quen nhiều sĩ quan Biệt Động
Quân, Sư Đoàn 23 thuộc đơn vị tác chiến, đích thực để moi tin tức).
Và có lần, tôi thấy trong nhà cô ta có nhiều bao cói muối và
thuốc tây, tôi hỏi, được cô ta trả lởi là mỗi lần về Nha Trang thăm mẹ, lúc lên
Ban Mê Thuột mua mấy bao muối, bán lấy tiền lời chênh lệch bù vào tiền vé, còn
thuốc thì giải thích là mẹ cô ta là Y tá, mua được thuốc với giá rẻ, gởi về cho
mẹ bán kiếm lời. Lúc đó, tôi nghe giải thích hợp lý, nên không có chút nghi ngờ
gì về cái rất dễ nghi ngờ, đây là đồ tiếp tế cho Việt Cộng trong rừng. Đúng ra,
trước đây là lính tác chiến, tôi không có nghiệp vụ chuyên môn về ngành an
ninh, tình báo gì nên không để ý.
Trở lại thực tế, tôi được dẫn về lán trại tù, mấy thằng bạn tù trố mắt ngạc
nhiên, thấy tôi tay sách cái giỏ cói có bánh trái. ”Mày có người thăm nuôi hả?”
một thằng nhanh nhẩu hỏi. Tôi nói đùa gần với thật, “Tao bị hỏi cung về thân thế
sự nghiệp, nó nhận ra tao là thành phần tiến bộ có công với cách mạng nên thưởng
gói quà này đây.” Tụi nó đều hiểu câu nói “xạo” của tôi. Thằng Dzũng trung úy
“giặc lái” trực thăng tản thương, phán lời vừa ngạc nhiên vừa thán phục, “Mẹ,
cái thằng Bắc Kỳ này hay thật, tụi tao bái phục mày, tôn làm sư phụ.” Tôi về chỗ
nằm, treo cái giỏ lên vách đầu giường, vài thằng bạn bu quanh, xin xỏ. Tôi trấn
an, “Yên chí đi, tao sẽ chia không cất ăn một mình đâu.” Tôi biết, cái giỏ này
nằm trong tầm ngắm ngày đêm của tụi bạn tù, mình không thể đi đâu cũng ôm khư
khư nó được, trước sau cũng bị lấy cắp, rồi lại sinh tội ra. Một trong những nội
quy của trại là cấm trộm cắp, cán bộ trại tù giải thích, kẻ trộm cắp có tội đã
đành, người bị mất cắp cũng có tội là không bảo quản tốt đồ đạc của mình, là
khuyến khích người khác phạm tội. Nghĩ thế, tôi quyết định ngay, để tỏ ra vẫn
hào phóng như những lần trước, lấy gói thuốc phân phát cho mấy thằng bạn quen mỗi
đứa một điếu cho đến hết, giữ lại một gói, còn đồ ăn đợi đến giờ cơm chiều chia
đều hết cho mâm cơm mười người của tôi. Trong tù, giữa chốn rừng hoang này, thuốc
hút rất quý và hiếm, có đứa ghiền, chịu đổi một “ngao” thuốc lào (cục thuốc vê
tròn to bằng hai đầu đũa) hút được hai hơi bằng cách lấy lá cuốn kèn hút, đổi lấy
nửa phần cơm, tức là nửa chén mặc dù đói triền miên. Thuốc lào có được là do tù
lén đổi chác đồ đạc riêng tư cho tụi vệ binh canh gác, việc này bị cấm.
Hàng ngày đám sĩ quan không phải làm gì, thỉnh thoảng có người bị gọi lên ban
chỉ huy trại để thẩm vấn. Vì đói, một số anh em đi tìm bắt cào cào, châu chấu,
rắn rết, bọ cạp ngay cả sâu, giun, dế… tất tần tật, tức là con gì cựa quậy là
nướng để ăn. Việc làm này đã bị tụi cán bộ chê trách, “Các anh chưa đến nỗi đói
đến phải làm thế.”
Có một lần vì táo bón lâu ngày, tôi liều mạng trốn ra khỏi
khu vực giới hạn của bãi tắm giặt, leo qua bờ bên kia suối để cố hái rau dại, bị
bộ đội canh gác phát hiện, bắn cảnh cáo bắt về. Đây là tội nặng, theo quy định
của họ. Tôi bị dẫn về ban chỉ huy trại, mới đầu họ quát nạt, dọa dẫm đủ điều,
tôi trình bầy là vì bị táo bón hái rau rừng về luộc chứ không có ý định tìm đường
trốn. Cuối cùng họ cũng nhẹ tay, bắt tôi làm kiểm điểm, rồi tập trung anh em
tù, nhận khuyết điểm trước mọi người và ban lãnh đạo trại, hứa không tái phạm.
Tội của tôi đáng lẽ bị cùm, không hiểu sao họ lại nhẹ tay với tôi.
Anh em tù đói ăn lẫn đói thuốc hút, mấy thằng vệ binh bộ đội
thèm đồng hồ đeo tay, chúng nó khen đồng hồ tư bản làm quá đẹp và hiện đại hơn
đồng hồ Liên Xô, thường hay gạ gẫm đổi đồng hồ lấy một bánh thuốc lào 100 gram
và môt kg đường, đó lầ tiêu chuẩn một tháng của tụi nó. Tôi còn giữ được cái đồng
hồ Seiko 5, thằng bộ đội thường canh gác tù binh khi tắm giặt, hắn từng bắt tôi
tội hái rau hôm trước. Hôm nay thấy trên cổ tay tôi đeo đồng hồ, hắn gạ gẫm đổi:
- Này
anh, đồng hồ đeo tay có đổi không?
Tôi đang đói thuốc nên ý cũng muốn đổi:
- Đổi
lấy cái gì?
- Cũng
như mấy người kia (ý nói là những người đã đổi trước), nhưng anh phải cho tôi
xem nó còn tốt không, loại gì?
- Đồng
hồ tôi rất tốt của Nhật, hiệu Say-Cô, không chết đuối, ba tên lửa, 12 đèn (tức
là kim và vạch chỉ giờ có dạ quang), hai cửa sổ anh em (là hai ô chỉ ngày tháng
nằm bên nhau, có đồng hồ nằm hai bên), ngựa đá tốt (là hệ thống quay tự động
thay phải lên giây cót), đảm bảo. (Những từ này tôi học được của tụi bộ đội vào
những ngày đầu bị bắt).
Hắn cầm lấy cái đồng hồ, lật qua lật lại quan sát kỹ, trông
có vẻ thèm thuồng, đưa lên tai lắc nghe xem “ngựa đá” rồi bảo tôi:
- Đồng
hồ Nhật của anh không đẹp và tốt bằng đồng hồ rô-lếch của thụy sĩ.
Tôi “bốc“ để mặc cả với hắn:
- Người
nào bảo anh thế là lạc hậu, bây giờ Nhật tiến bộ hơn Thụy sĩ nhiều rồi, hàng Nhật
mới là tốt, anh phải thêm cho tôi ít nữa chứ.
Hắn có vẻ tin tôi, gật gật ra vẻ ta đây cũng sành điệu rồi hạ
giọng:
- Tôi
biết, nhưng chỉ có thế, bánh thuốc lào một lạng và một cân đường, tiêu chuẩn
hàng tháng của tôi, không thể kiếm thêm được.
Thằng này hôm bữa hùng hổ quát nạt tôi về tội hái rau rừng,
nay nó hạ giọng xuống nước nài nỉ, tôi được dịp trả thù, buông lời gần như ra lệnh:
- Thôi
được, nhớ là tiền trao cháo múc nhá, khi nào có, cứ gặp tôi lúc đi tắm giặt. Nhớ
mang theo cái cốc có nước để bỏ cái đồng hồ vào, xem nó có chết đuối không đấy.
Tôi quay người định đi xuống suối, hắn gọi giật lại hỏi:
- Này,
thế anh có biết ai muốn đổi đồng hồ, tôi còn mấy đứa muốn đổi nữa.
- Để
tôi xem.
Tôi trả lời rồi đi nhanh xuống suối, mơ màng nghĩ đến bánh thuốc lào, chia cho
anh em còn lại mình cũng cầm cự được cả tháng. Đến chỗ tắm, mấy đứa hỏi tôi là
thằng bộ đội gác nó kêu mày lại để nhắc nhở việc vi phạm hổm bữa phải không?”
Không,” tôi trả lời.” Nó gạ đổi đồng hồ của tao, tụi mày sắp có thuốc lào, tha
hồ phê.”
Việc đổi chác đồng hồ lén lút rồi ban chỉ huy
trại cũng biết, trưởng trại ra lệnh cấm chỉ, ai còn đổi chác bất cứ cái gì sẽ bị
xử phạt nặng, họ nói như thế là bóc lột, bất công, tha hóa các đồng chí của họ.
Chỉ có hai cái đồng hồ đeo tay được trả lại, thuốc lào và đường không lấy lại
vì đã phân tán hết rồi. Còn đồng hồ của tôi và của một số người nữa không thấy
đâu. Tôi nghĩ, họ chỉ làm chiếu lệ thôi, chẳng lẽ tuyên truyền là họ hy sinh đi
làm cách mạng, giải phóng miền nam khỏi sự kìm kẹp của đế quốc Mỹ, đưa nhân dân
miền nam cùng miền bắc tiên lên chủ nghĩa xã hội ưu việt, không còn bất công,
bóc lột, chẳng lẽ để đồng chí của họ lợi dụng sự thiếu thốn để bóc lột chúng
tôi sao?
Rồi sự đổi chác vẫn tiếp diễn vì nhu cầu của cả hai bên, hầu
hết mọi người đều biết nhưng không thấy ai bị phát hiện, có lẽ cả tụi cán bộ của
họ cũng làm việc này nên mọi sự vẫn êm trôi…
Ngày 25 tháng 3, chúng tôi dược lệnh tập trung ở sân trại, họ công bố Quân Đoàn
Hai tháo chạy bị họ tiêu diệt, bắt được nhiều tù binh, xe tăng và vũ khí hạng nặng,
hoàn toàn chiếm được hai tỉnh Kon Tum và Pleiku rồi đề nghị chúng tôi vỗ tay
hoan hô. Chúng tôi biết Cộng Sản hay khoác lác, dối trá nên đồng loạt vỗ tay thật
to và lâu, đó là biểu hiện chế diễu sự phóng đại, dối trá, nói láo của họ (mới
đầu họ cứ tưởng chúng tôi là hoan hô thật sự). Thời gian sau, họ tuyên bố Quân
Đoàn Một bị đánh tan tác, tháo chạy trong hỗn loạn, họ giải phóng hoàn toàn
quân khu Một và thành phố Quy Nhơn, rồi lại đề nghị chúng tôi vỗ tay hoan hô.
Tiếng vỗ tay lần này rời rạc và yếu hẳn, khác xa sự rộn ràng vang dội mang tính
phản kháng ngầm như lần trước, vì chúng tôi tin có phần nào sự thật, họ không
thể bịa đặt ra một sự thể to lớn như thế.
Chiều tối ngày 2 tháng 4, hai chiếc xe GMC chở đầy những tù binh vào trại. Dưới
ánh đèn pha, chúng tôi nhận ra họ phần đông là lính nhảy dù, một số lính sư
đoàn 23, hai phi công. Quần áo lấm đầy bụi đỏ còn nguyên phù hiệu, lon lá. Họ
vui vẻ, tự nhiên trông như những kinh kha trở về từ chiến trận hơn là đám bại
quân bị bắt. Sau khi được phân chia chỗ ngủ phía cuối lán. Đám tù cũ bu lại, hỏi
thăm và xin thuốc hút, mới biết họ toàn là sĩ quan, thuộc chiến đoàn Ba Nhảy
Dù, một số thuộc trung đoàn 44 sư đoàn 23. Đơn vị của họ được đưa đến án ngữ tại
đèo Phụng Hoàng nằm trên quốc lộ 21, giáp ranh giữa hai tỉnh Đắc Lắc và Khánh
Hòa, để chận đường tiến của quân Bắc Việt từ Ban Mê Thuột tràn xuống Nha Trang.
Sau nhiều ngày giao tranh với số quân đông gấp bội của địch, lữ đoàn 3 nhảy dù
cùng với một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 44 sư đoàn 23 bị đánh tan phải rút chạy,
tiểu đoàn 6 nhảy dù bị nặng nhất với nhiều sĩ quan bị bắt, trong đó có Trung tá
tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu Thành. Chúng tôi có hỏi tin tức về Pleiku, Kontum
và tình hình quân đoàn Một, họ xác nhận đã mất, diễn tiến như lời trưởng trại
nói. Tôi buồn bã, than thở với mấy thằng bạn tù,” Thế là kế hoạch trốn trại của
mình không còn mấy hi vọng, địch chiếm hết các tỉnh gần thì mình trốn về đâu?”
Rồi tự hỏi lẫn nhau, không hiểu sao mình thua nhanh thế?
Mấy ngày sau đó, lợi dụng đêm tối và sự canh gác lỏng
lẻo, ba tù binh chui qua hàng rào đột nhập vào nhà bếp lấy đi một ít gạo và muối
rồi trốn. Sáng ra, khi tập họp tâp thể dục, mới biết có người trốn trại. Kẻng
báo động gõ liên hồi, lệnh cho tất cả các tù bình vào trong lán, bộ đội tủa vào
rừng truy tìm dấu vết. Ngồi trong lán, thì thầm bàn tán, thế nào chúng tôi cũng
bị gây khó dễ, họ sẽ nghiêm ngặt hạn chế sự đi lại cũng như sinh hoạt hàng
ngày, rồi tự an ủi lẫn nhau là cái thân tù phải chấp nhận thôi, mong cho anh em
này trốn thoát được. Đến khoảng 9 giờ sáng, ban chỉ huy trại có cả chính ủy đến
từng lán, họ hăm dọa sẽ xử phạt thật nặng, và quyết đoán những người trốn không
thể thoát được vì có nhiều đơn vị bộ đội đóng quanh đây. Lệnh cho chúng tôi phải
tự quản lẫn nhau, thấy ai có biểu hiệu trốn chạy phải tố cáo ngay, ban đêm có
người nào trốn, những người nằm bên cạnh phải chịu trách nhiệm, rồi hạ giọng
khuyên nhủ,” Các anh không nên tìm đường trốn, các anh trốn đi đâu? Với cái đà
này, chúng tôi chỉ nay mai là giải phóng Saigon. Chúng tôi thực hiện chính sách
khoan hồng đối với tù binh, đối xử các anh tử tế, chúng tôi giữ các anh để giáo
dục các anh nhận biết tội lỗi làm tay sai cho Mỹ Ngụy, để các anh trở thành người
tốt rồi cũng thả các anh về với nhân dân, giữ các anh chỉ tốn cơm chứ ích lợi
gì.” Dứt câu, chúng tôi vỗ tay tán thưởng, họ có vẻ hài lòng rồi đi sang lán
khác. Bọn tôi thở phào nhẹ nhõm, tình huống không đến nỗi nào xem như không có
chuyện gì xẩy ra. Ngày hôm sau, được thông báo đã bắn chết ba người trốn trại,
lý do bị bắn là cố chạy khi bi bộ đội phát hiện. Nói là thế, chứ không biết thật
hay giả, hay chỉ để răn đe tù nhân.
Ngày 10 tháng 4, đúng một tháng mất Ban Mê Thuột, tù binh từ hạ sĩ quan trở xuống
được bộ đội dẫn đi chặt tre mang về những thân tre to và dài, để chúng tôi chặt
hai đầu mắt làm thành ống đựng nước, mỗi ống là một mắt tre kèm theo sợi giây rừng
buộc quanh ống để có thể đeo vào vai, làm “khẩn trương” suốt cả ngày được vài
trăm ống, đủ mỗi người một ống đựng nước, chuẩn bị cho cuộc chuyển trại vào
ngày mai. Đến chiều, lán sĩ quan mỗi người được phát một ruột tượng vải đựng gạo,
dài hơn một mét, ruột tượng gạo này rất tiện, chỉ cần khoác lên vai vòng qua cổ
mang đi, và lãnh 7 Kilô gạo cho ước lượng 10 ngày hành quân. Gạo này trắng đẹp
xem còn mới, không giống như gạo vàng mốc họ vẫn nấu cho chúng tôi ăn, có lẽ họ
lấy trong các kho gạo, khi chiếm được Ban Mê Thuột.
Ngày hôm sau, tất cả sĩ quan, được lệnh chuyển trại, mỗi
người được phát hai chén cơm đầy với một ít muối ăn sáng trước khi di chuyển.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi bị bắt đến nay, chúng tôi được cho ăn no. Chuẩn bị
cho cuộc di hành, mấy người nước ngoài trong đó có đứa gái nhỏ cùng đồ đạc được
đưa đi bằng xe Dodge, vì không đủ chỗ nên hai người nước ngoài trẻ nhất là
Peter (người Úc) và Jay (người Mỹ) phải đi bộ. Đám bộ đội rất đông, lưng đeo ba
lô, ruột tượng gạo trên vai, một bộ phận bộ đội khiêng vác quân dụng hậu cần nặng,
bằng cách cột đồ đạc vào đòn gánh bằng tre hai người khiêng. Đám bộ đội này được
xếp đi đầu, kế đến là đoàn tù khoảng gần hai trăm người vai quàng túi gạo, một
ít người có túi sách tay. Riêng hai người nước ngoài không phải mang gạo, đồ đạc
có 4 túi sách to, đồ cá nhân mang theo từ khi bị bắt. Họ đeo túi vào một thân
tre, mỗi người một đầu khiêng đi. Tôi quan sát biết là không ổn, họ bắt chước
kiểu khiêng hai người của bộ đội, nhưng cái đòn khiêng mới là mấu chốt giúp người
khiêng chịu được lực nặng đè lên vai cho quãng đường dài. Đòn khiêng của bộ đội
hình thù là cái đòn gánh bằng tre già, dẹp ở hai đầu để tản lực tiếp xúc và giữ
cho đòn khiêng không bị quay nghiến vào vai, còn hai anh chàng nước ngoài,
không có kinh nghiệm khiêng vác, có lẽ cả đời họ chưa bao giờ phải làm việc
này. Họ khiêng bằng thân tre tròn dài, khi đi, mấy cái giỏ lắc lư làm đầu tre
soắn qua soắn lại trên vai, da vai dộp lên là không chịu nổi.
Chúng tôi xếp đi hàng hai, hai bên bộ đội trang bị súng AK hộ
tống. Đoàn tù ốm đói trông thật thảm não, kẻ trước người sau, nhếch nhác lê bước
thành hàng dài, lẩn khuất đưới đám rừng thưa trong buổi sáng còn mờ sương. Cả
đoàn người lặng lẽ bước bên nhau, có lẽ mỗi người một nỗi ưu tư, lo cho số phận
của mình, về gia đình, vợ con hay mải mê nghĩ về cuộc chiến mà Miền Nam đang đứng
bên bờ thảm bại. Thỉnh thoàng chỉ nghe tiếng nhắc nhở "Giữ cự ly” của đám
bộ đội hộ tống. Hai anh người nước ngoài, khởi đầu đi ở phía trên, dần dà tụt dần
đến gần chỗ tôi, khoảng giữa đoàn, trông họ rất thảm, mặt nhăn nhó vì đau bởi lực
nặng của đòn khiêng đè lên vai, mặc dù hai đầu đòn khiêng đã được quấn lớp vải.
Bộ đội luôn đi kè hai người này, không màng đến cái vai đau của họ, cứ mặc kệ,
chỉ luôn miệng thúc dục hai người đi nhanh. Rõ ràng là đám bộ đội ghét hai người
này hơn chúng tôi, có thể vì tuyên truyền của Cộng Sản là Mỹ độc ác hút máu dân
miền nam, cũng vì Mỹ ném bom trên quê hương Miền Bắc của họ. Còn chúng
tôi, dù sao cũng là đồng bào của họ. Chúng tôi cũng không chống trả quyết liệt
gây tổn thất cho họ khi tiến đánh Ban Mê Thuột.
Hai người nước ngoài tụt dần đến chỗ tôi, tôi định khiêng
giúp họ một khúc đường nhưng bị thằng bộ đội đi theo quát không cho, bảo là tôi
làm mất trật tự, không giữ cự ly hành quân. Tôi cố bám sát Ray, bảo anh ta khi
nào đến chỗ nghỉ, vất cái đòn khiêng đi, cố bỏ bớt những gì không cần thiết cho
nhẹ, dồn hai túi thành một, bỏ vào cái võng họ phát, buộc chéo vai theo kiểu
đeo ba lô, như chúng tôi. Ray cám ơn, rồi nói sẽ thực hiện khi đến chỗ nghỉ.
Hai người nước ngoài lại tụt dần ra phía sau. Tôi tiếp tục bước theo đoàn quân,
đưa mắt quan sát khu rừng đi qua và nhìn hướng mặt trời để đoán xem chuyển trại
đi đâu. Cứ khoảng hai tiếng họ cho dừng nghỉ. Đến xế chiều, có lệnh nghỉ tại một
bãi trống dưới những tán cây lớn bên bờ con suối, họ lùa chúng tôi thành một
vòng tròn để tiện việc kiểm soát, gom mỗi người một bát gạo cho nhà bếp nấu
cơm. Chỉ có cơm với muối, chúng tôi ăn no để có đủ sức đi, tối ngủ tại đây vì cạnh
con suối ẩm thấp nên muỗi rất nhiều, tôi phải lấy miếng vải võng trùm kín từ đầu
đến chân, trông như xác chết chờ tẩm liệm.
Ngày hôm sau, ngày thứ hai, chúng tôi được lệnh lấy nước
dưới suối đổ đầy ống tre, di chuyển sớm, tôi để ý thấy hai người nước ngoài đeo
túi sách sau lưng như balo bằng miếng vải võng y như lời tôi chỉ dẫn. Hôm nay,
chúng tôi có vẻ quen, lo âu cũng chẳng giải quyết được gì, thôi, cứ đế nó trôi
theo định mệnh, cứ lầm lũi đi, thỉnh thoảng cũng bàn chuyện này nọ với nhau cho
quên đi mệt nhọc. Đến khoảng trưa, đoàn người đi vào một đường mòn, con đường
len lỏi dưới những tàn cây to, chếch về hướng tây, đất nhẵn thín, chứng tỏ họ
thường xuyên qua lại. Nhờ đi trên đường mòn đất bằng phằng, rừng già che khuất
ánh nắng nên di chuyển có dễ chịu và tốc độ nhanh hơn. Đến chiều dừng chân bên
bìa làng thượng, làng chỉ khoảng 10 nóc nhà sàn, không đông dân lắm, sống như
thời bán khai, đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy ở trần. Vì bộ đội không cho dân
trong làng tiếp xúc với chúng tôi, nên không biết đám thượng này thuộc sắc dân
nào để có thể đoán là chúng tôi đi đến đâu.
Ngày thứ ba, chúng tôi tiếp tục theo lối mòn, đi xuyên qua rừng
già, bắt đầu xuất hiện nhiều lối mòn ngang dọc, đây có thể nói là “hệ thống” lối
mòn mới đúng, vì có những dấu như mã số hoặc giắt một cái que chỉ hướng trên
thân cây cạnh mỗi đường mòn, nếu không phải là họ thì khó có thể biết đường mòn
này đi đâu. Có thể là hệ thống đường mòn, giao liên dùng để liên lạc với các
đơn vị bộ đội đóng trong rừng. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp những chòi nhà sàn nằm
khuất dưới những tàn cây rậm, đó là những kho gạo phân tán, cất dấu trong rừng
sâu, họ không tập trung lương thực vào một kho lớn vì nếu bị phát hiện là mất hết.
Đến chiều, xuyên qua đám rừng già rậm rạp hơn, chúng tôi dừng chân tại một khu
doanh trại bộ đội, trại bỏ hoang, chắc chỉ mới bỏ đây thôi vì nhà cửa còn
nguyên vẹn. Chắc là doanh trại cấp trung đoàn, doanh trại không có hàng rào
nhưng có hệ thống phòng thủ hầm hố chiến đấu, giao thông hào chạy quanh, bên
trong rất nhiều lán trại, hội trường, nhà chăn nuôi lợn gà, tất cả nhà đều nằm
chìm hơn một mét dưới đất, để tránh bom và là công sự phòng vệ. Đây là một mật
khu của họ, nằm khuất dưới rừng già, máy bay khó phát hiện. Chúng tôi ăn cơm
trong những căn nhà lớn, và ngủ qua đêm tại đây.
Ngày thứ tư, tiếp tục theo đường mòn xuyên rừng, cây
to nhiều tầng đua nhau vươn cao tìm ánh sáng, che kín cả bầu trời làm lối mòn tối
hẳn đi, rừng âm u ẩm thấp là nơi trú ẩn lý tưởng của đám côn trùng có cánh, muỗi
đói bắt hơi người, vo ve bay lượn tấn công, chích nhát nào nhát ấy như kim đâm
vào da thịt. Không còn cách nào khác hơn là dùng cành lá vừa đi vừa xua đuổi muỗi,
đám bộ đội hai tay phải giữ súng nên khó khăn hơn trong việc xua đuổi đàn muỗi
đói, họ chùm khăn mặt lên đầu, phủ khăn phía sau gáy thả đến vai, trên đội nón
cối, áo dài tay che kín đến cổ tay, phần lớn mang dép râu (dép bằng lốp xe) có
một số người đi giầy vải không vớ. Bình thường họ chỉ đi dép, nhưng nơi âm u
này, có vài người mang vớ để chống muỗi. Đi qua nhiều chòi cất dấu gạo, chòi
như cái nhà sàn nhỏ, có bốn chân, mỗi chân quấn vài cái hom sắt như hom nơm cá,
mũi nhọn tua tủa chỉa hướng xuống đất để chống thú rừng, gạo chứa trong bao bố,
chất chồng lên nhau, chòi lợp mái, quây kín bằng tre đan. Những kho gạo này,
giao liên dùng để tiếp tế cho đám quân bắc việt xâm nhập vào nam.
Đến chiều, đoàn quân đến một khu hậu cần chăn nuôi nằm khuất
dưới cánh rừng, chung quanh có mấy khoảng đất trống vây hàng rào bằng tre để
tránh thú rừng vào phá phách, trồng khoai mì, rau và cây thuốc lá. Có vài nóc
nhà, một nhà ở của bộ đội trông coi trại. Họ đưa chúng tôi vào một nhà to
dài không có vách, nghỉ dưỡng sức một ngày hai đêm tại đây. Khu hậu cần này chỉ
có ba bộ đội đã lớn tuổi và một con chó đặt tên là “Thiệu” trông coi. Không
hàng rào hoặc công sự phòng thủ gì cả, heo gà nuôi thả, nghĩa là sáng thả vào rừng
kiếm ăn, chiều đánh kẻng bằng mảnh bom, vật nuôi nghe tiếng kẻng chạy về, tối tự
động vào chuồng, chúng ăn một ngày một bữa chỉ toàn khoai mì tươi băm nhỏ, có lẽ
chúng được rừng hóa nên trông vẫn khỏe mạnh nhanh nhẹn. Một ngày ở đây,
chúng tôi được cho ăn hai bữa có canh, canh chỉ là đọt khoai mì non (không biết
họ lấy ở đâu) nấu với muối. Lần đầu tiên tôi biết lá mì ăn được, sao nó ngon
chi lạ, nhờ có chất “rau” mà đỡ được phần sót ruột sau bao ngày chỉ toàn ăn cơm
với muối.
Ngày thứ sáu, chúng tôi tiếp tục đi trên con đường mòn xuyên rừng chếch về hướng
tây, đi khoảng ba tiếng gặp con đường đất khá lớn, mặt đường in dấu vết xe hơi
hai hàng nhẵn thín, chạy hướng bắc nam. Con đường lúc ẩn lúc hiện dưới rừng
già. Ôm lề đường phía tây có hai ống sắt dẫn dầu đặt sát bên nhau, đường kính
khoảng 20 cm, trông như hai con trăn khổng lồ, uốn éo chạy dài bám theo con đường
(sau này tôi được biết đường này là đường Đông Trường Sơn, nối tiếp với đường
mòn Hồ Chí Minh, trước năm 73 chỉ là đường mòn cho người đi bộ, sau đó mới được
san ủi thành đường lớn cho xe tải chạy. Đường này hướng bắc nam, trên đường gặp
vài kho chứa xăng dầu nằm dấu dưới tàn cây to, có trạm chỉ dẫn xe cộ, biển báo
chỗ ẩn núp cho đoàn xe khi bị máy bay phát hiện, trên đường thỉnh thoảng gặp những
hố bom lớn do máy bay đánh phá, chỉ việc lách sang một bên, không trở ngại gì cả,
mình có ném phá con đường chỉ tổ tốn bom. Nhân lúc gặp con đường với ống dẫn dầu,
tôi có hỏi thằng Hùng đi bên cạnh:
- Ê
này Hùng, mày lái máy bay quan sát, không thấy con đường với ống dẫn dầu to tổ
bố thế này hay sao?
- Mày
biết đấy, đường mòn Hồ Chí Minh, chạy từ bắc qua đất lào tới vùng KonTum đi vào
Việt Nam, sau này nó làm thêm con đường song song nhưng bên bờ đông dãy trường
sơn, đặt ống dẫn dầu cặp theo vào tới đất Miền Nam, tụi tao vẫn biết. Trước hiệp
định Paris, quân mình cũng có thả bom bắn phá, nhưng như gãi ghẻ, thả các toán
biệt kích xâm nhập dặt chất nổ phá ống dẫn dầu, nhưng chẳng làm được bao nhiêu,
đâu phải lúc nào cũng có dầu chảy qua ống, dầu được bơm vào các bồn chứa nằm
khuất trong rừng, rồi ngưng, mình phá, nó nối lại, cứ như vậy. Sau năm
73, Mỹ giảm viện trợ, thiếu xăng dầu, hầu hết các chuyến bay quan sát bị hủy bỏ.
- Còn
xe cộ chạy trên đường, mày không thấy à?
- Thỉnh
thoảng có thấy chứ, nhiều khi cả đoàn, gọi máy bay bắn phá, tới nơi thì nó tản
vào rừng mất dạng. Mày thấy đấy, hai bên đường là rừng già, cây to gốc cả ôm
che phủ, nghe tiếng máy bay là nó quẹo vào rừng ngay.
Sang ngày thứ 7, chúng tôi vẫn đi trên con đường này, nhiều
người yếu sức trong đó có tôi, đã quá mệt mỏi, lê lết, rồi tụt dần về phía sau.
Riêng tôi, bắt đầu gai gai sốt, toàn thân ê ẩm, cổ họng khô đắng, ăn không hết
bữa cơm, tôi lo là không biết có lết được đến nơi không. Trên đường thỉnh thoảng
gặp đoàn xe chở bộ đội, xe chở đầy đồ đạc, xe kéo súng phòng không, xe tăng kiểu
lội nươc kéo theo đại bác cuốn bụi đỏ mịt mù, đi ngược chiều về phía nam. Có
quãng đường phải qua con suối lớn nước sâu, không thấy cầu, tới gần mới biết có
cái cầu chất bằng đá ngầm dưới mặt nước khoảng 4 tấc, bề ngang đủ để xe tải đi,
hai bên có cắm những cây tre để làm dấu giới hạn dẫn lối cho xe cộ đi qua, nếu
như nhìn từ máy bay khó biết có cây cầu ngầm dưới nước sắp bằng đá. Chúng tôi lội
qua, nước gần đến đầu gối, đi loạng choạng vì nước chảy mà đá dưới chân lồi
lõm, cố nắm tay nhau kéo thành dây dài cho khỏi té. Đến chiều, đoàn người tách
khỏi đường lớn rẽ vào con đường nhỏ hơn về hướng tây, con đường này tuy nhỏ vẫn
in dấu bánh xe tải Molotova. Vùng này có nhiều lối mòn ngang dọc, chứng tỏ là mật
khu của Việt Cộng. Chiều gần tối, đến một lạch nước nhỏ, dừng chân cơm nước, ngủ
qua đêm tại đây. Bọn tù nằm quây tròn, im lìm cuộn mình trong miếng vải võng,
không một tiếng thì thầm vì ai cũng mệt. Toàn thân tôi ê ẩm, lại lên cơn sốt nhẹ,
nằm mơ màng, tiếng ếch nhái từ con lạch nước vang lên, nghe như tiếng rên rỉ từ
trong đáy lòng tôi, than thở cho cái phận hẩm hiu của mình. Rồi chìm dần vào giấc
mơ, mơ có bàn tay dịu dàng của mẹ tôi chăm sóc trên giường bệnh, đút cho tôi từng
thìa cháo nóng, an ủi dỗ dành vang vọng tiếng hát ru…
Ngày thứ 8. Tôi giật mình tỉnh dậy bởi tiếng báo thức của
đám bộ đội canh gác. Thấy tinh thần, thể xác có khá hơn một chút hay chỉ là cảm
giác đến từ giấc mơ? Đoàn người vẫn tiếp tục đi. Con đường bắt đầu hơi chếch về
phía tây bắc, đi được vài tiếng, thân thể thấy ê ẩm, đầu choáng váng, lại lên
cơn sốt. Tôi đi tụt dần, tụt dần mãi về phía sau. Thằng bộ đội áp tải đã chú ý
đến tôi, nó nhắc tôi là phải cố đi lên trên. Tôi cũng đang cố đấy chứ nhưng lực
bất tòng tâm, hai chân nặng như đeo chì rồi tụt đến cuối cùng, gặp một tù binh
nữa cũng bê bết như tôi, hắn trông đã luống tuổi. Hỏi ra mới biết là thiều úy
thuộc Trung Tâm Tiếp Vận, gồm nhiều kho chứa nhiên liệu, đạn dược, là một trong
những nơi bị địch tấn công đầu tiên. Hai thằng tôi cố bước bên nhau dưới sự hối
thúc của hai tên bộ đội áp tải. Đi được khoảng nửa tiếng, hai anh chàng nước
ngoài cũng bị tụt đến cuối hàng, trông họ bơ phờ rất thểu não lại luôn có bộ đội
đi kèm thúc dục, lớn tiếng. Chúng tôi kết thành bốn người với hai anh bộ đội đi
sau chót, dần dà đứt quãng với đoàn quân. Đến lúc quá mệt mỏi không còn lết nổi
nữa, hai tên áp tải la mắng cũng mỏi miệng, đành cho chúng tôi ngồi nghỉ, bốn
thằng nhìn nhau, không buồn mở miệng, phờ người nằm lăn ra bên vệ đường. Tôi
quá mêt thiếp đi một lúc, hai tên áp tải hối thúc đứng dậy đi tiếp vì đoàn quân
đã mất dạng. Hai người nước ngoài sau khi nghỉ có vẻ khá hơn, phần bị thằng bộ
đội quát tháo nên đi nhanh về phía trước, chỉ còn lại hai đứa tôi. Cố lết, lúc
đi lúc nghỉ đưới sự hối thúc của bộ đội cho đến chiều, chúng tôi đã cách quá xa
đoàn tù binh, tôi thấy người mệt mỏi quá sức, đầu choáng váng, mắt hoa lên
không thể lết nổi nữa nên ngồi qụy xuống và nằm lăn ra đất, anh bạn tù còn lại
thấy tôi lăn ra đất cũng ngồi xuống làm theo, cả hai bị tên bộ đội quát mắng lấy
báng súng thúc vào vai bắt đứng dậy đi, tôi cứ mặc kệ nằm lì, thấy không hiệu
quả nó lấy chân đá vào mông tôi rồi quát,” Này, có dậy đi không thì bảo.” Tôi
nghĩ, thì bảo cái gì, chắc là sẽ cho ăn đạn chăng? Đến lúc này, vì quá khốn khổ
tôi không còn biết sợ là gì, ngồi dậy đâm liều bảo hắn,” Anh thử sờ vào trán
tôi, không phải tôi không muốn đi mà tôi đi không nổi nữa, khổ quá rồi, tôi chỉ
muốn xin anh viên đạn, chết quách cho yên thân.” Hắn thấy tôi phản ứng mạnh, ngần
ngừ một lát rồi quát lại,” Tôi chỉ tiếc mất viên đạn, chứ cái mạng của anh chẳng
đáng gì, thôi, hai anh ngồi đây đi đến khi nào khỏe cứ theo vết mòn mà đi.” Hắn
lấy hai túi gạo còn một ít của chúng tôi rồi bỏ đi. Tôi nghĩ là nó nói
đúng, bắn chi cho tốn đạn, nó biết hai thằng tôi lết còn không nổi, rừng núi
mênh mông biết đường nào để trốn, vả lại tụi nó đang trên đà thắng lớn, bắt được
quá nhiều tù bình, thì hai thằng tôi có đáng gì. Hai đứa nằm lại giữa rừng,
trong chiều tàn vắng lặng, chẳng còn sức để nói với nhau điều gì. Đầu óc bừng bừng
lên cơn sốt, tôi chẳng còn khái niệm gì về chết sống, nằm thiếp đi lúc nào
không hay cho đến nửa đêm chập chờn thức dậy, thấy mình cuộn kín trong mảnh vải
võng. Có lẽ trong đêm vì lạnh tôi vô thức đã trùm kín người từ đầu đến chân, hé
miếng vải nhìn sang người bạn tù có còn đó hay không, trong bóng tối lờ mờ tôi
thấy một thân cũng cuộn tròn trong vải như xác chết, không thấy đụng đậy, tôi sợ
quá thò tay lay xem còn sống hay chết, như một phản xạ, anh ta ngồi chổm dậy, ú
ớ vài tiếng mới tỉnh hẳn. Tôi chấn an anh ta, “Tôi đây, anh có khá hơn không?”
Anh trả lời, hỏi lại tôi, “Đỡ hơn, còn anh, ra sao?” “Cũng có đỡ hơn chiều hôm
qua, anh có biết lúc này khoảng mấy giờ không?” tôi hỏi lại. Anh ta im lặng, chắc
cũng không biết, hay còn đang mải mê nhớ đến vợ con mà quên trả lời tôi chăng?
Tôi lại nằm xuống cuộn tròn trong tấm vải võng, cố xua đi suy nghĩ trong đầu,
mơ màng chìm vào giấc ngủ.
Tôi tỉnh dậy lúc trời mờ sáng, qua một đêm tuy cổ họng hãy
còn đắng chát nhưng thấy người đỡ hơn nhiều, đúng là ‘trời nuôi trời dưỡng’, chẳng
thuốc men cơm cháo gì cả. Anh bạn bên cạnh đã ngồi dậy tự lúc nào, đang trầm
ngâm suy nghĩ điều gì đó, hay đang thả hồn theo tiếng gió, tiếng chim chào bình
minh trên tít các ngọn cây cao? Tôi đánh động đưa anh ta về thực tại, bảo anh
ta chuẩn bị đi. Anh hỏi lại, “Giờ mình đi đâu, khi không còn tụi nó dẫn đường?”
Tôi nói ” Mình chẳng còn lựa chọn nào khác là đi theo vết lối mòn của đoàn quân
như thằng bộ đội chỉ dẫn mình hôm qua.” Thế là chúng tôi cố bước, đi theo lối
mòn được khoảng nửa tiếng thì gặp thằng bộ đội hôm qua đi ngược lại tìm chúng
tôi. Hôm nay hắn có vẻ hòa nhã hơn, nói với chúng tôi,” Sáng nay, đoàn quân phải
ngồi lại chờ các anh, giờ khỏe hơn rồi chứ? Cố gắng đi nhanh lên cho kịp.”
Chúng tôi cùng cám ơn hằn về sự hỏi thăm, và hòa nhã của hắn. Tưởng hắn sẽ
vui vẻ, nhưng trái lại, hắn nghiêm sắc mặt tỏ vẻ không hài lòng (sau này tôi biết
tụi Cộng Sản miền bắc, họ rất dị ứng với 2 chữ “cám ơn”, hình như ngoài Bắc
không quen với từ này, họ cho là chúng tối mỉa mai họ). Hắn đanh giọng trả lời
câu cám ơn, “Chúng tôi đánh để giải phóng các anh, chúng tôi không chủ trương
giết các anh chứ không phải tiếc viên đạn đâu.” Tôi yên lặng bước đi, nghĩ thầm,
“Mẹ mày, chúng tao đâu cần mày giải phóng, chắc tối qua mày lại được mớm cái giọng
điệu này của thằng chính trị viên.” Đi khoảng hơn nửa tiếng nữa, gặp lại đoàn
quân đang ngồi chờ, họ phát cho chúng tôi mỗi người một nắm cơm bọc trong lá
chuối rừng với chút muối. Mặc dù không ăn gì chỉ uống nước từ chiều ngày hôm
qua đến giờ, tôi vẫn không thấy đói, cố nuốt vài miếng cơm để có sức đi. Hai đứa
tôi lại cố lết theo đoàn quân, băng rừng lội suối ở cuối hàng, lúc đi lúc nghỉ
rồi cũng bám được họ cho đến chỗ nghỉ vào buổi chiều.
Ngày thứ mười, sau một đêm ngủ chậm chờn vì vẫn còn sốt. Đến
sáng, tôi thấy trong người có khỏe hơn trước một chút, bụng mừng thầm cám ơn Trời
Phật là ngày hôm qua mình đã bám được đoàn quân, hôm nay khá hơn chắc không đến
nỗi phải nằm lại giữa rừng. Sau khi được phát cơm ăn sáng và nắm cơm dùng cho
buổi trưa, đoàn quân lại tiếp tục lên đường, băng qua một con suối lớn nước lội
chỉ đến đầu gối, đi sâu vào đám rừng già âm u hơn, có nhiều đường mòn cắt
ngang, thỉnh thoảng gặp một vài toán bộ đội, họ dừng lại nhìn chúng tôi sầm sì
gì đó. Tôi đoán, đây là một mật khu lớn của họ nên có nhiều đường mòn và gặp cả
bộ đội, tôi nói nhỏ với anh bạn đi bên cạnh, chắc là sắp tới nơi rồi. Quả thật
như vậy, đến quá trưa, qua nhiều rãy trồng mì bạt ngàn, xa xa nhiều mái nhà lớn
ẩn khuất trong một khu rừng rất rộng. Nhìn đám mì bạt ngàn này, tôi mới hiểu
đây là cây lương thực mang tính chiến lược, có thể nuôi cả sư đoàn trường kỳ
kháng chiến. Chúng tôi được dẫn vào khu có hàng rào bằng cây rừng tương đối là
chắc chắn, trong đó có nhiều lán lớn đã cũ, mái lợp bằng lá cọ, hoặc bằng mảnh
gỗ để chồng lên nhau như lợp ngói, không vách, bên trong chỉ có sạp nằm cao khoảng
nửa mét chạy dài hai bên theo hông nhà. Có lẽ là nhà tù, giữ tù binh trước đây,
nay trống vì những tù binh đã được trao trả sau hiệp định Paris,1973. Tuy
nhiên, vẫn còn khoảng mười mấy tù binh chắc là mới bị bắt sau này, và mấy người
nước ngoài bị bắt ở Ban Mê Thuột được chở bằng xe vào trước. Đoàn tù tập họp điểm
danh phân chia chỗ ở, riêng hai thằng bệnh hoạn chúng tôi bị giữ lại. Tên bộ đội
áp tải, bảo hai đứa chúng tôi đứng chờ, hắn đi một lúc trở lại đẫn chúng tôi ra
ngoài, nơi có nhiều nhà của tụi bộ đội, đưa chúng tôi vào một căn nhà có mấy
cái giường, giường bằng tre chân được chôn chắc chắn xuống đât, trên trải chiếu
cói, đầu giường chiếc chăn mỏng xếp gọn ghẽ, cái bàn giữa nhà có đặt mấy chai
thuốc, vậy là nó đưa chúng tôi vào trạm xá. Cái đập vào mắt ngay khi tôi bước
vào là hai biểu ngữ bằng tre đan viết mực đen treo trên vách: “Bác Hồ sống mãi
trong sự nghiệp của chúng ta”. “Lương y như từ mẫu”. Tên bộ đội bảo hai đứa
chúng tôi, ngồi vào mép cuối giường, hắn kéo sợi dây xích dấu dưới chiếu cuối
giường, dài khoảng 80 Centi mét, một đầu xích khóa vào phần trên chân giường, đầu
kia có cái vòng sắt dẹp, nó mở vòng, ôm vào cổ chân tôi, khóa lại bằng ổ khóa,
rút chìa, rồi cũng làm như vậy với anh bạn tù ở cái giường khác. Chúng tôi còn
đang ngỡ ngàng, đoán là bị phạt vì hôm trước nằm lại giữa rừng không chịu theo?
Tên cảnh vệ lại gần nói,” Hai anh nằm nghỉ đây, tí nữa có đồng chí y tá đến
khám, cho thuốc, chiều tôi sẽ dẫn vào trại.” Khoảng năm mười phút gì đó, “đồng
chí y tá” bước vào, tay cầm quyển vở, cổ đeo ống nghe. Hắn nhỏ nhẹ hỏi thăm
chúng tôi, khai tên, tuổi, cấp bậc và bị bắt ở đâu ghi vào sổ, tôi được khám
trước, hắn lấy mu bàn tay để lên trán, đặt ống nghe lên cổ tay, lên ngực nghe
nhịp tim hỏi tôi, “Anh bị sốt bao lâu rồi?” “Khoảng ba ngày,” tôi trả lời. Hắn
phán là tôi mới bị nhiễm sốt rét do muỗi đốt. Bước qua giường kế cận cũng khám
như thế. Tôi nghĩ bụng, không biết thằng này thực tâm đối xử với chúng tôi ôn tồn,
nhỏ nhẹ hay là vì cái khẩu hiệu treo trên vách? Tôi nhớ lại, đã nhiều lần bị
thương nằm bệnh viện, bác sĩ mình cũng khám chữa tận tâm nhưng cách đối xử với
thương bệnh binh như là một người bề trên ban ơn hơn là một thầy thuốc chữa bệnh,
không phải tất cả đều như vậy, nhưng là phần đông như thế. Tên bộ đội y tá lấy
nồi nấu nước, bỏ kim tiêm, ống chích vào nấu sôi. Lâu lắm tôi mới thấy cái ống
chích bằng thủy tinh, thời này nình dùng ống chích, kim tiêm bằng nhựa dùng một
lần rồi vất. Hắn chích vào mông hai đứa chúng tôi chất nước mầu vàng, rút trong
cái chai to như chai dịch truyền, đó là thuốc ký ninh (quinine) cổ đại trừ bịnh
sốt rét, và cho uống hai viên “xuyên tâm liên”. Đến chiều, hắn bưng cho
bát cháo nóng xông mùi lá bạc hà, có bỏ bột trứng của Trung Cộng mầu vàng.” Đó
là tiêu chuẩn bồi dưỡng cho người bệnh,” hắn nói với chúng tôi như thế. Ăn xong
bát cháo nóng, mồ hôi chảy ướt đẵm, tôi thấy người có vẻ khỏe ra. Đây là cách
chữa cảm sốt cổ truyền ông bà mình để lại, vẫn hiệu quả. Tôi nằm nghỉ trên giường,
vắt tay lên trán suy nghĩ về nơi giam giữ mới này. Tôi cố nhớ lại quãng đường,
thời gian đi, và hướng di chuyển. Vận dụng hết kinh nghiệm bao năm đi hành
quân, tôi đoán, có lẽ trại tù nằm nằm sát biên giới bên đất Miên, giáp với
Pleiku, phía nam KonTum (sau này mới biết, tôi đoán gần đúng). Đến chiều
tối, hai chúng tôi được tháo xích, dẫn trở vào trại, họ chỉ định vào chỗ sạp trống,
phía cuối lán nơi gần mấy người nước ngoài nằm, được ngăn cách bằng hai sợi
giây thừng. Dưới ánh lờ mờ của ngọn đèn dầu treo trên xà nhà, Jay nhận ra tôi,
giơ tay chào. Ngày hôm sau, tù binh được phát một cục xà bông hình vuông to bằng
lòng bàn tay, và một hộp kem đánh răng, hình thù giống như hộp kem đánh giầy,
không có bàn chải đánh răng. Xà bông cứng như đá, kem đánh răng lâu ngày nằm
trong kho nên khô cứng có mùi vôi. Chúng tôi được đưa đến bên bờ con suối lớn nằm
sát phía ngoài trại để đánh răng rửa mặt, không có khăn, lấy hai tay vốc nước rửa
mặt, không có bàn chải, lấy ngón chỏ quẹt kem cho vào miệng chà răng, thế cũng
xong. Sáng nay sức khỏe có khá hơn nhiều, đêm hôm qua đã bớt sốt, sau khi vệ
sinh sáng, hai bệnh nhân chúng tôi lại được dẫn lên bệnh xá, lại bị xích vào
giường và ý tá bộ đội hôm qua cũng khám, cũng chữa cho ăn hai lần như hôm qua,
hết ngày lại dẫn vào trại nằm gần mấy người nước ngoài. Qua hai ngày điều trị,
chúng tôi đã khỏe và không cần lên trạm xá nữa.
Ngày hôm sau, tất cả tù binh được dẫn ra ngoài, qua nhiều
láng trại hầu như bỏ trống, có lẽ quân lính ở đây được điều vào chiến dịch tấn
công đánh chiếm Miền Nam, đến một hội trường lớn có thể chứa được 200 người.
Tôi đưa mắt quan sát, đây là căn nhà rất lớn không vách, phía trên có sân khấu,
màn chiếu phim, nhiều băng ghế dài bằng tre xếp thành ba hàng, tất cả từ sân khấu,
bàn ghế đến mái, vách, cột kèo đều làm bằng cây lá trong rừng, không có một cái
đinh hay cọng kẽm của cái thời hiện đại này mà vẫn chắc chắn. Nếu như quân mình
phải làm một doanh trại cho cả sư đoàn như thế này chắc phải tốn tiền triệu. Tụi
bộ đội đưa tù nhân vào, gọi là “lên lớp”. Chính ủy trung đoàn là Trung Tá Nguyễn
Tất Nhiên (cái tên rất dễ nhớ, tôi không thể quên dù đến 50 năm) đứng trên sân
khấu hội trường, tay cầm micro gắn liền với cái loa cầm tay chạy pin, trên bàn
để cái radio, hắn mở đầu bằng lời chào hỏi sặc mùi chính trị:
“Chào mừng các anh, chúng tôi giữ các anh ở đây là các anh
được sống không phải làm bia đỡ đạn cho Mỹ Ngụy, chúng tôi đánh kẻ chạy đi
không chủ trương đánh kẻ chạy lại (có tiếng vỗ tay cò mồi của mấy tên bộ đội áp
tải, làm chúng tôi phải vỗ tay theo), về với chúng tôi là các anh tuyệt đối chấp
hành nội quy, tuân thủ mệnh lệnh của trại, và bộ đội trông coi hướng dẫn, các
anh phải ra sức học tập để thấu hiểu chủ trương, chính sách và sự khoan hồng của
đảng và chính phủ đối với tù binh vân vân ...” Sau đó, hắn tự đắc phô trương
chiến thắng như thế chẻ tre của phe hắn, giải phóng được Phan Rang bắt được hai
tướng Việt Nam Cộng Hòa và đang trên đường tiến quân về Saigon, hắn đề nghị
chúng tôi vỗ tay rồi mở lớn âm thanh đài “ Giải Phóng”, phát ra từ chiếc radio
với giọng đọc hùng hổ, chát chúa của nữ xướng ngôn viên, đang huyênh hoang về
việc tiến quân vũ bão của họ, để chứng minh. Sau 15 phút giải lao, một giảng
viên chính trị khác nói về đề tài: “Dân tộc ta là môt, đất nước ta là một, sông
có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (tôi nghĩ, hắn
nói về đề tài này là ngầm giải thích lý do họ đánh chiếm Miền Nam). Buổi chiều,
đám tù được chia ra từng tổ 20 người để thảo luận đề tài này dưới sự giám sát của
cán bộ chính trị cho đến hết ngày. Đây là ngày học tập có quy củ đầu tiên kể từ
khi bị bắt, và chúng tôi cũng hiểu rõ thế nào là “lên lớp”.
Những ngày ở trại tù mới này, chưa phải học tập hoặc lao động
gì nhiều, phần lớn là lo ổn định chỗ ở tập làm quen với nếp sống nhà tù mới.
Hàng ngày được chia toán, đi chặt phá dọn dẹp khu đất gần suối để tăng gia (trồng
rau), họ có nhiều loại hạt giống rau mang từ bắc vào, có toán đi vào rừng sâu rất
xa chỗ ở, nơi có nhiều kho gạo rải rác, có lẽ bây giờ họ không cần nữa nên “giải
phóng” những kho này. Gạo để lâu đổ mầu vàng, phần trên bị ẩm đã mốc đen, một
toán khác vác bao tải vào khu trồng khoai mì (bộ đội gọi là sắn) bạt ngàn cách
xa cả chục cây số, mà lúc hành quân chúng tôi đã đi qua. Nhổ một cây là phải chặt
khúc thân cây mới nhổ thành cái hom khoảng 3 tấc cắm xuống đất, như thế là một
đền một. Nhờ đất rừng và cây mì có sức sống mãnh liệt, dựa bám vào nhau, vươn
mình ngoi lên lấy ánh sáng, trông thật xanh tốt. Đây là loại lương thực chiến
lược cho trường kỳ kháng chiến đánh chiếm Miền Nam của Cộng Sản Bắc Việt. Hằng
ngày tiêu chuẩn một người 3 lạng (300 gram) gạo mốc độn với khoai mì, ăn với
canh nấu bằng đủ loại rau rừng, lá sắn, quả sung, hộp thịt nửa Kg nấu với muối
hột cho khoảng 200 tù binh, như thế cũng tạm ổn cho cái bao tử.
Người nước ngoài tiêu chuẩn có khác chúng tôi, một ngày mỗi
người một lạng thịt hộp, bốn lạng gạo không độn khoai mì, canh thì dùng canh của
chúng tôi và một Kilo đường cho mỗi tháng. Ăn uống như thế nên họ đổ bệnh sụt
cân trông gầy gò rất thảm hại, nhất là đứa cháu gái 6 tuổi. Hàng ngày vào buổi
sáng, có Bác Sĩ Liên (anh này là Trung Úy, bác sĩ làm ở bệnh viện Ban Mê Thuột)
đeo ống nghe, khám bệnh cho người nước ngoài rồi báo cáo cho y tá bộ đội, chỉ
là làm cho có hình thức. Có lần anh nói với tôi, “Nó bắt tôi khám mỗi ngày rồi
báo cáo, tôi như tiều phu không rìu, chữa trị gì được.” Chỉ trừ anh chàng
Jay có lẽ còn trẻ, và đã từng sống ”bụi ” trong công việc nghiên cứu về văn hóa
Chàm nên có vẻ dễ thích nghi, không bệnh hoạn gì cả.
Anh này có nhiều kỷ niệm với tôi, thấy anh chỉ quanh
quẩn trong trại, tôi đề nghị anh ta, xin cán bộ trại cho theo toán nhổ mì với
tôi, ra ngoài đi lao động cho bớt tù túng. Nghe lời, anh xin và trại đồng ý. Có
lần đi nhổ mì, trong lúc nghỉ giải lao dưới một gốc cây to, tôi hỏi Jay, có tin
cây mì có thể cao hơn 30 mét không? Hắn đưa mắt nhìn vào đám mì bạt ngàn, cây
nào cao nhất chỉ khoảng 3 mét nên lắc đầu. Tôi chỉ cho hắn một cây mì, mọc cạnh
một gốc cây to, thân lớn khoảng hơn một người ôm xum xuê cao cỡ 30 mét. Cây mì
dựa vào thân cây to này, len lỏi qua các cành, ngoi lên cao khỏi ngọn cây để lấy
ánh sáng. Thật là quá khâm phục với sức sống bon chen mãnh liệt của cái cây mì
“chiến lược” này. Nó khẳng khiu mang cái “triết lý” của sự sống. Vươn lên từ
nghèo khó, không tay nắm như thằng bầu cái bí, không thân mềm uốn dẻo đeo bám
như bọn giây leo, nó không chịu khuất phục bởi thằng khổng lồ to lớn với cái
cây gốc to cả người ôm, nó dựa thân, luồn lách để ngoi lên lấy ánh sáng cho sự
sống còn. Nó (cây mì) là thằng bon chen hay kẻ không chịu khuất phục để ngạo
nghễ với trời cao?!
Và đây là những mẩu đối thoại với Jay trong lần đi nhổ mì với tôi, hắn nói:
- Sao tôi thấy Việt Cộng, mặt thằng nào cũng lì lì như chó,
còn các anh thì vui vẻ, cười nói như là đi picnic?
- Anh biết chữ “lì lì như chó” là nói tiếng Việt quá giỏi rồi,
tụi nó được trang bị cái tư tưởng hận thù, còn chúng tôi chiến đấu với tinh thần
tự vệ nên khác nhau (lúc đó tôi giải thích thế chẳng biết có đúng không nữa).
Như tôi, giờ nằm trong tay chúng nó, biết làm gì hơn là cứ vô tư chịu đựng, xem
như “Xưa nay chinh chiến mấy ai về!”. Anh học tiếng Việt bao lâu mà nói giỏi thế?
- Hơn hai năm, tôi nghiên cứu về văn hóa Chàm, phải tiếp xúc
thường xuyên với người Việt nên thông thạo thôi. Vì tôi thông thạo tiếng Việt,
nên tụi Việt Cộng nói tôi là CIA.
- Việt Cộng nó sợ CIA các anh lắm, cho rằng CIA đã luồn lách
vào từng ngõ ngách của chính quyền Saigon, mọi tầng lớp dân chúng, thu thập tin
tức để chỉ huy, kiểm soát Miền Nam, họ gặp bất cứ ai cứ nói phủ đầu là CIA,
ngay cả chúng tôi họ cũng nói làm việc cho CIA. Người Chàm đâu có ở cao nguyên
này mà anh lên nghiên cứu, rồi để bị bắt?
- Tôi quen gia đình nhà truyền giáo Miller, lên Ban Mê Thuột thăm họ mấy ngày
trước, bị kẹt lại.
Ngày tháng trôi qua, đến ngày 30 tháng 4, tụi bộ đội từ trưởng
trại, chính ủy đến các cảnh vệ đều” hồ hở, phấn Khởi” tập trung chúng tôi lên hội
trường, dõng dạc tuyên bố Dương Văn Minh đã đầu hàng, Miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, đề nghị chúng tôi vỗ tay hoan hô thật to. Chúng tôi cố gắng vỗ tay
cho cái thất bại của mình, lẹt đẹt miễn cưỡng làm sao ấy! Chắc không ai trong
chúng tôi không rơi vào tâm trạng, buồn mất “nước”. Tại ai hay tại mình mà nên
nỗi này?!... Trưởng trại tuyên bố tiếp,” Ngày mai các anh được nghỉ ngơi, ăn
liên hoan mừng chiến thắng.” Chỉ có tiếng vỗ tay của phe hắn, chúng tôi lặng lẽ
rời chỗ.
Thế là, chẳng biết trách ai! Mượn lời Nguyễn Du mà
than cho cái “nghiệp” Miền Nam.
Đã mang cái nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa!
Nguyễn Trường Sỹ
Phụ chú:
Khoảng hơn một tháng Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng
tôi lại được dẫn bộ qua lối biên giới Đức Cơ, theo Quốc Lộ 19 đến quận Thanh
Bình, cách Pleiku khoảng 30 cây số về hướng tây nam, nhập vào trại tù binh ở
đây. Trại này giam giữ tù binh bị bắt trong cuộc rút bỏ cao nguyên của Quân
Đoàn 2. Chúng tôi không được gọi là tù binh nữa, chuyển thành Học Tập Cải Tạo.
Cải Tạo ở đây, tôi, với cái bản chất cố hữu bạt mạng, lại vi phạm kỷ luật, nội
quy nhà tù như hồi ở quân trường, cũng chui rào ra ngoài để đổi chác, đánh lộn
với bọn ăng ten, chôm chỉa rau củ của đội rau xanh, tìm mọi cách trốn học, lao
động, rồi cũng bị cùm, vào nhà kỷ luật, nhưng nhờ có “khiếu” móc ngoặc kiểu đồng
hương. Với châm ngôn, “khi nào chó chê cứt, thì tụi cộng sản mới chê tiền”, tôi
đút lót, biếu xén cán bộ, bộ đội (tiền và đồ vật do bạn tù đưa để hối lộ) nên mọi
sự vẫn êm xuôi.
Ngày
20 tháng 7 năm 1976, trại cải tạo giải tán, tất cả tù trong đó có tôi được thả,
không kể cấp bậc, chức vụ, học tập cải tạo tốt hay không. Ngoại trừ những người
làm trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, Phòng ban Hai, An Ninh Quân Đội, Cảnh
Sát được chuyển giao cho bộ Công An tiếp tục cải tạo.