1.
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh
lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc
sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói
ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán
có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán
của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi
dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng
bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất
– Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy
chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với
chữ “Don Quảng Ngãi”,
Với người xứ Quảng như bạn tôi, hay một bác lớn
tuổi, hay một cặp trai gái đang ngồi ở những bàn kế cận, hẳn khi
thấy chữ ‘don’ thôi thường cũng đủ cho họ bâng khuâng nhớ quê
nhà, rồi rất có thể họ sẽ tự hẹn với chính mình, rồi đưa tin, rủ rê bạn
bè đồng hương hay khác xứ, một ngày nào đó phải đến quán…
2.
Anh bạn tôi bắt đầu câu chuyện một cách chẩm rãi, chủ đề duy nhất:
món ăn xứ Quảng. Như thói quen nhà giáo, nói là có dẫn chứng cụ thể, sau
khi trích một câu trong sách Non Nước Xứ Quảng của tác giả Phạm Trung
Việt: “Món ăn đặc biệt Quảng Ngãi gồm chim mía, cá bống
và don”, anh bạn nói thêm don thuộc loài sò hến,
chỉ dài 1 hay 1.5 cm và phần ruột, giống cái lá phổi nhỏ xíu, có
mùi tanh thoang thoảng nhưng rất ngon ngọt. Sau khi rửa sạch, người ta
luộc cả rổ don rồi mới tách ruột. Kế đó, ruột don nấu
với nước luộc ban đầu (đã đãi sạch vỏ don cùng sạn,
cát) mà thành món cháo, món canh (với rau muống) hay món có nước như
chúng tôi đang ăn.
Trước mặt tôi hiện giờ là một tô don đúng
điệu Quảng mà tôi cứ tin đại rằng chị chủ quán có vẻ kiêu hãnh ngầm,
ít nói kia chắc là không thèm tạo thêm vị ngọt đạm cho nước dùng (hay
nước lèo) bằng xương heo, củ cải trắng… như kiểu nấu nước lèo
ở các quán phở, tiệm hủ tiếu. Don không bốc mùi thơm, béo
ngào ngạt nhưng lại ngon đậm đà, lãng đãng mùi vị của sông nước,
đồng nội. Màu nước dùng trong tô hơi vàng đục, nóng hổi, có nêm một
chút rau thơm nhưng... nước quá ít, chỉ chừng được nửa tô. Tôi liên
tưởng đến món mì Quảng, bao giờ cũng khá ít nước dùng. Phần
“nồng cốt” của món ăn là ruột don ở đáy tô còn có
vẻ tượng trưng, “lấy hương lấy hoa” hơn nữa: có ráng múc gom lại thì cũng
chỉ được võn vẹn chừng một muỗng canh. Ngược lại, như để phần nào an
ủi người ăn, món phụ ăn kèm không-thể-thiếu là cái bánh tráng gạo
thì to đùng, ai nấy cứ thong thả bẻ ra miếng nhỏ mà bỏ vô tô. Chén
ớt trái và chai nước mắm để trên bàn cũng nhỏ nhắn, thấp bé, không
hề giống những chai xì dầu, hủ tương đen đỏ, rổ rau thơm to tê, ngồn
ngộn thường chiếm gần hết mặt bàn ở những tiệm hủ tíu hay quán phở.
Thôi thì, đã là một món ăn giản dị, không màu mè, không đòi hỏi gia vị
thì cũng chẳng đòi hỏi rau rá, nước chấm làm riêng... là những thứ “phụ
tùng” cầu kỳ, rắc rối làm gì.
Tôi thong thả, tẩn mẩn bẻ bánh tráng bỏ vào tô, thú
vị nghĩ rằng kiểu ăn dân dã này không thể bị xếp vô fastfood -
những loại thức ăn mà thú thật tôi không mấy ưa chuộng.
Cụng nhẹ ly bia Dung Quất, bạn tôi nói còn có
món don chiên dòn, chế biến mắc công hơn một chút nhưng
nhậu với rượu đế thì đả lắm. Anh nhấn mạnh món don này
thích hợp với dân nghèo, dân lao động. Ở ngoài Quảng - quê anh, hằng ngày
vào những cữ bắt đầu đói bụng như lúc 9 – 10 giờ sáng hay 2 -3 giờ
xế trưa thì người ta có thể kêu gánh don lại mà làm
một hơi hai, ba tô nếu gặp người ăn mạnh. Thật dễ ăn!
Vâng, đúng như anh bạn nói, món don rất dễ ăn. Còn
đặc biệt dễ với những ai không còn răng cỏ đầy đủ - như bạn tôi đây,
mấy năm rồi không có tiền để đi làm hàm răng giả – là cứ múc bánh
tráng nướng đã mềm rục vì thấm nước don, đưa vào miệng là nuốt
tuồn tuột, khỏi nhai. Nhưng tôi nghĩ món don này ‘dễ ăn’
còn vì giá khá rẻ, như giá tô don trước mặt tôi chỉ bằng phân
nửa giá tô phở hay tô hủ tíu hạng trung bình. Và với những gánh don ở
dưới quê xứ Quảng, giá chắc còn thấp hơn nhiều, bà con ăn một hơi hai
ba tô cũng chẳng tốn bao nhiêu.
Sao cái gì anh bạn xứ Quảng giới thiệu về quê hương anh cũng ẩn
nhẫn, nhỏ bé? Nhìn anh còm cõi, khẽ khàng bẻ nhỏ những miếng bánh
tráng bỏ vào cái tô don đã cạn nước mà hình như mới
đây ở đáy tô cũng có chút ít thịt cái loài ốc chút xíu này mà
người ăn lại hay nhín nhín, để dành lại rất lâu, tôi mơ hồ hình dung ra
hình ảnh ảm đạm về những người dân nghèo miền Trung, nhất là các tỉnh
khu Nam trung bộ. Ít ai giàu có, tức trong sinh hoạt đời sống không dư dã,
không có gì nhiều nhặn, phong phú để mà lựa chọn. Thí dụ sống động nhất
lúc này là cái cách ăn uống lặng lẽ, dè xẻn của bạn tôi. Kìa, chỉ là cái
bánh tráng gạo rẻ tiền – loại bánh to, dày, thô kệch nhưng thật
xứng đáng để đóng vai món ăn kèm chính yếu với tô don -
mà vẫn được anh tỉ mỉ bẻ ra thật nhỏ, thả vào tô và ăn ngon lành. Nghe
nói ở quê anh, bánh tráng nướng hay bánh tráng nhúng nước chấm nước tương, nước
mắm gì đó luôn được giới lao động nghèo xem như bữa ăn nhẹ và rẻ tiền nhất
nhưng rất cần thiết để tạm qua cơn đói bụng giữa buổi làm việc, đánh lừa
cái bao tử lép kẹp để lấy lại sức mà cày tiếp…
“Sao im lặng vậy? Hay gọi thêm chai nữa?”, bạn tôi nhắc.
Tôi từ chối uống thêm thì anh bạn lại tiếp tục câu chuyện:
“Nguồn ốc don rất ít ỏi vì chúng chỉ
sống ở nước chè-hai, tức lờ lợ nửa mặn nửa ngọt của sông Trà quê
tôi thôi, giống như con hàu chỉ sống tập trung ở sông Long Sơn, Bà Rịa
quê bà xã ông, như ông kể vậy. Ngon nhất chỉ có don ở
khúc sông Trà chảy ngang thôn Vạn Tường quê tôi, tôi còn nhớ thuộc xã
Tư Nghĩa, quận Tư Bình thời trước, nay hình như đổi thành huyện Bình
Sơn. Quê tôi đã có câu ca dao, lưu truyền từ rất lâu đời, rằng:
Con gái lầu son không bằng tô don Vạn
Tường...
Tôi nhận xét:
“Vạn Tường? Cái địa danh nghe hay
hay…”
“Đúng, Vạn Tường. Chớ còn ở đâu có don ngon hơn được
chỗ đó?”
Rồi ông bạn ‘chọc
quê’ tôi luôn:
“ Mà sao vậy?
Hồi xưa ở Văn Khoa có em nào, bồ ông là dân Vạn Tường
xứ Quảng hả? Giỏi thiệt, giờ này mới khai…”
“Hồi xưa ở
Văn Khoa…”, bọn tôi chuyển đề tài, say sưa nhắc chuyện cũ tự hồi nào không
hay.
Vâng, cái thời cuối
thập niên 60, cả một đám 4-5 tên sinh viên chúng tôi đều cùng gốc dân miền
Trung và đáng để ý nhất là cả bọn cùng là con nhà nghèo, khi vô Sài Gòn cùng
ghi danh học Văn Khoa, đã hùn mướn một căn gác trọ, nhỏ như cái lỗ mũi và nóng
như lò bánh mì! Đến nỗi một tên hay-làm-thơ trong bọn, sau này là một nhà thơ
thành danh, đã nhớ lại:
Căn gác nhỏ
dăm thằng sinh viên đói
Ổ mì tương “nửa thước” ngắt chia ba
(Hội ngộ Sài Gòn
– Nguyễn Nguyên Phượng 2006)
Ngày nay, sau bao
nhiêu thăng trầm đời người, chúng tôi đều ở vào lứa U70, đâu còn cái thời sinh
viên trẻ trai, thơ thẩn ấy? Nhưng lúc này, cùng nhau ăn món don xuất
xứ từ quê nghèo đất Quảng mà chạnh nhớ thời đi học đầy khó khăn, thiếu thốn ở
Sài Gòn, đã có gì đó rất thân thương, rất gần gủi kết nối giữa tô don đạm
bạc trước mặt với ổ bánh mì, chỉ là ổ bánh không mà phải ‘chia ba’ ngày xưa…
Phạm Nga
(Sydney, giữa mùa
đông 2025)
-----
(*) Vừa
qua, kể từ ngày 1/7/2025, tỉnh Quảng Ngãi khi nhập một với tỉnh Kon Tum thì Kon
Tum mất tên, tỉnh mới thành lập mang tên Quảng Ngãi. Không được may mắn như thế,
tỉnh Bình Định sát bên Quảng Ngãi đã mất tên khi nhập một với tỉnh Gia Lai
thành tỉnh mới mang tên Gia Lai.