Lão Tư Lì năm nay bước vào tuổi tám mươi. Đời lão lắm gian truân, nhưng cũng có nhiều may mắn. Sau ngày 30-4-1975, đời lão đã “tàn trong ngõ hẹp” - tưởng rằng lão đã bỏ thây trên núi rừng Việt Bắc trong những ngày bị lưu đày trong các trại “tập trung cải tạo” của cộng sản.
Bấy giờ, nhiều đêm lão thao thức với tâm trạng buồn vui lẫn
lộn. Vui khi nghĩ vợ con lão đã thoát cảnh lầm than và tương lai con cái lão sẽ
tươi sáng hơn. Nhưng lão buồn khi tưởng tượng cảnh vợ lão sẽ “theo thằng John,
thằng Jack…nào đó” - quên lão! Lão ngậm ngùi … nhưng rồi tự an ủi: Như thế còn
may mắn hơn là đi theo “nón cối” như vợ của vài người bạn tù cùng cảnh ngộ.
Một ngày đẹp trời gia đình lão xách va-li lên phi cơ về miền
đất hứa. Lúc ngồi đợi máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, lão còn lo sợ công an
đến bắt quay về. Đến khi phi cơ cất cánh lão mới an lòng - đời lão từ đây coi
như hết cơn bỉ cực.
Qua khung cửa sổ hẹp của máy bay, lão nhìn xuống thành phố
Sài Gòn - những đường phố lướt qua dưới ánh nắng ban mai trong trẻo, rồi những
sông rạch uốn lượn, dấu mình trong các làng mạc ven đô, rồi lặn vào các khu rừng
thấp…rồi dần dần lộ ra trên những cánh đồng lúa trải dài như những nét kẽ màu
trắng trên tấm thảm nhung xanh. Máy bay nghiêng cánh, lên cao - Sài Gòn nhỏ dần,
rồi chỉ còn chấm đen. Mất hút! Bây giờ, chung quanh là trời xanh lồng lộng. Bên
dưới là biển cả bao la. Lão thấy lòng se thắt!
Bao nhiêu năm, bị đọa đày trên quê hương khốn khổ ấy, lão muốn
trốn chạy. Giờ đây, trên đường lưu vong ly biệt - căn nhà cũ, con đường xưa,
lũy tre nơi thôn làng quê ngoại, cùng với những kỷ niệm thân thương thời thơ ấu,
phút chốc hiện ra, khiến lão rưng rưng …Hình ảnh quê hương khó có thể
phai mờ trong ký ức.
Đến nơi đất khách, quê người, cũng như bao nhiêu gia đình tỵ
nạn khác, gia đình lão được hội nhập vào xã hội văn minh Hoa Kỳ, nhờ sự giúp đỡ
tận tình của người dân bản xứ. Đôi khi lão tự hỏi: “Tại sao những người cùng tổ
tiên, nòi giống lại tìm cách đọa đày nhau, còn ở đây với những người xa lạ,
nhưng họ lại cưu mang gia đình lão với tất cả tấm lòng nhân ái và hào sảng?”
Mấy mươi năm sống trên nước Mỹ, con cái lão được học hành tử
tế, thành đạt. Lão có việc làm, được sống trong tự do, no ấm… Đến năm sáu mươi
hai tuổi, lão xin về hưu sớm để an hưởng tuổi già. Lão nghĩ theo quan niệm xưa:
“sáu mươi năm cuộc đời” - bây giờ đến tuổi sáu hai, lão cho như vậy đã đủ cho một
đời người. Nhưng tuổi thọ của con người ngày nay tăng lên - tám mươi chưa phải
là già. Nhiều người đã ví von như thế khiến lão an lòng, vui sống…
Được sống đến tám mươi tuổi, lão bảo đó là “bonus” trời cho,
nhưng lão không tránh khỏi tiến trình “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”. Năm bảy mươi tuổi,
thính giác bị lão hóa - lão bắt đầu mang bệnh điếc!
Nhưng lão lì, không mang máy trợ thính, chấp nhận bệnh điếc
như một ân sủng. Lão lý luận: “Già phải mang bệnh - điếc là bệnh dễ chịu nhất để
bớt nghe những chuyện thị phi - cho tâm hồn thanh thản…
Lão nhớ, hồi ở trại tù K1/Tân Lập - Vĩnh Phú, các niên trưởng,
mang cấp bậc Trung tá, Đại tá, đa số đều mang bệnh điếc. Điếc giả, điếc thiệt…
không ai biết được. Nhưng “điếc” mang lại sự an toàn. An toàn là thế này: Các
đàn em khi gặp lại các niên trưởng thường rỉ tai to nhỏ, toàn những chuyện “giật
gân, phản động”. Bọn “ăn ten” thấy vậy báo cáo với cán bộ. Thế là các “cụ” bị
kêu lên làm việc, khai báo những gì đã nghe. Sự thật, chỉ là những tin đồn …
nhưng các “cụ” phải khai, và phải nói sao cho khéo để đỡ đòn cho đàn em. Thế
thì mệt quá! Thôi thì cứ giả điếc (có cụ điếc thiệt) để các đàn em khi gặp phải
chào to, nói lớn… mà nói lớn thì đâu dám tiết lộ những chuyện bí mật phản động.
Thế là quý cụ yên thân.
Khi lão điếc ở mức độ 50%, Lão bớt nghe chuyện đời thị phi,
rối rắm. Ở nhà, những lúc đang say mê xem phim, hay đọc chuyện, vợ kêu rửa
chén, lặt rau, lão không nghe, bà vợ bực mình càm ràm… rồi làm hết mọi thứ. Lão
cứ ung dung… Nhưng “thái quá thì bất cập!” Càng già bệnh điếc càng gia tăng,
khiến lão ngơ ngác như người ở “cõi trên”. Vợ con thấy vậy, khuyên lão nên đeo
máy trợ thính, nhưng lão “lì” không chịu mang. Con gái lão giải thích: “Những
người bị điếc mà không đeo trợ thính, lâu ngày sẽ sinh ra bệnh mất trí nhớ
(alzheimer).”
Trong đời, lão sợ nhất là bị bệnh đột quỵ (stroke), thứ hai
là bệnh lú lẫn (alzheimer). Cho nên lão nghe theo lời khuyên của con gái, ra
Costco mua một cái máy trợ thính.
Từ ngày mang máy trợ thính, lão sinh bịnh mất ngủ.
Mỗi lần nghe những tên bình luận thời sự lếu láo trên Radio,
TV, You Tube, thiếu khách quan hay nghe những người lắm chuyện khoác lác, khoe
khoang… lão bực mình.
Ở nhà, mỗi khi bà vợ già càm ràm điều gì lão nghe hết đầu
đuôi… Thực ra, lão chẳng làm điều gì nên tội, chỉ có việc: mặc quần hay quên
kéo zipper, làm bà xấu hổ; bày biện lung tung làm bà mất công dọn dẹp; mỗi lần
đi đâu bà phải tìm chìa khóa xe, cái ví cho lão… Chừng ấy chuyện mà vợ lão cứ
càm ràm - lão không giận và coi đó như cách “mắng yêu của tuổi già”. Nhưng mỗi
lần càm ràm, bà vợ thường nói câu kết: “chẳng được tích sự gì.” Khiến lão giận!
Trong đời, lão ghét nhất những ai chê lão “vô tích sự”. Mắng thế nào cũng không
làm lão tức bằng chê lão “chẳng được tích sự gì”.
Khi chưa có máy trợ thính, lão nghe tiếng được, tiếng mất -
chuyện đời coi như gió thoảng, mây trôi… lão không bận tâm, chấp nhứt. Đêm về
lão ngon giấc. Nay có cái máy trợ thính, lão nghe rõ sự đời lắm chuyện thị phi…
Lão bực mình những chuyện bao đồng, rồi giận luôn bà vợ già hay chê lão “vô
tích sự”... Khiến lão nhiều đêm mất ngủ!
Thế là, lão tuyên bố: “Điếc sướng hơn!”
