Kính tặng tất cả quân nhân từng phục vụ tại
Giang Đoàn 26 Xung Phong
Ánh nắng mai lấp lánh trên dòng sông, lung linh trên khóm lá khi đoàn giang đỉnh thuộc Giang Đoàn 26 Xung Phong (GĐ26XP) rời sông Hậu Giang, rẽ vào kinh Cái Sắn, giang hành về hướng Rạch Giá. Từ Rạch Giá, đoàn chiến đỉnh lầm lủi tiến trên sông Cái Lớn, mở đầu cuộc hành quân dài hạn tại U Minh.
Sau khi rẽ
từ sông Cái Lớn vào Kinh Ngang, đoàn chiến đỉnh phát hiện chướng ngại vật chận ngang sông,
phía trên gắn hình đầu lâu và hai xương chéo nhau. Hai chiếc LCVP – Landing Craft Vehicle Personnel (Trung Vận Đỉnh) – vượt lên, thực hiện công tác gỡ mìn.
Trong khi
đoàn chiến đỉnh thả trôi, chờ LCVP gỡ mìn, tôi
thấy một chiếc tắc ráng từ trong khóm dừa nước “chui” ra, chạy thẳng đến chiếc Command. Trên chiếc ghe bé xíu ấy, một cô gái
cầm chèo. Trong lòng ghe một người đàn bà nằm im, bên trên phủ vài nhánh dừa nước.
Nơi mũi ghe, một người con trai ngồi xếp bằng, trên đầu mang nhiều lớp băng mà
máu đã đặc quánh, trở nên nâu sậm. Chiếc đầu khổ nạn của người con trai gục lên
vai người đàn ông đứng tuổi. Hai tay ôm vai nạn nhân, đôi mắt của người đàn ông
hun hút nhìn về rừng dừa nước phía xa. Trong ánh mắt của người đàn ông tôi tưởng như thấy được những uất hận/những đớn đau òa vỡ, cuồn cuộn theo từng đường gân
máu nhỏ li ti.
Ánh mắt uất
hờn của bác nông phu trở nên van nài khẩn thiết khi anh thủy thủ chỉa súng,
không cho chiếc tắc ráng đến gần chiếc Command. Vài phút sau, một chiếc fom (truy kích đỉnh) được phái đến, cặp sát vào chiếc tắc ráng. Một
anh thủy thủ bước qua chiếc tắc ráng xem xét tình hình. Nhận thấy không có dấu
hiệu khả nghi, chiếc tắc ráng được phép cặp sát chiếc Command và anh y tá đã tận
tình cứu giúp nạn nhân.
Sau nhiều
ngày hành quân ở Kinh Ngang, đoàn chiến đỉnh trở lại
kinh Trèm Trẹm, còn gọi là kinh Thứ, thuộc quận
Kiên An.
Kinh Trèm Trẹm là một dòng sông nhỏ, thẳng tắp, sâu hun
hút. Hai bên bờ sông là rừng tràm thâm u, lòng sông eo hẹp quyện lá khô và máu.
Rải rác dọc theo dòng sông câm nín đó là mấy đồn Nghĩa Quân. Đoàn chiến đỉnh thường ủi bãi trước đồn thứ 9.
Trưởng đồn là Thiếu Úy Sao, tốt nghiệp trường Sĩ Quan Thủ Đức.
Khi cặp fom ra Tắc Cậu công tác, Thiếu Úy Sao xin quá
giang để ghé đồn thứ 6 thăm người bạn thân – Thiếu Úy Y – cùng khóa Thủ Đức. Thiếu Úy Y xin đổi về đồn thứ 6 chỉ vì muốn được làm việc gần Thiếu Úy Sao.
Sau vài
ngày bình yên, đoàn chiến đỉnh được lệnh trở ra sông Cái Lớn,
ủi bãi ngay trước một đồn Nghĩa Quân. Mỗi khi thấy
chiến đỉnh Hải Quân ủi bãi trước đồn, lòng người Nghĩa Quân gợn lên chút tình cảm hân hoan, yên dạ:
Sẽ được một giấc ngủ yên lành trong đêm. Để tỏ bày niềm hân hoan đối với đơn vị
bạn, mấy anh Nghĩa Quân đem ra vài xị đế. Vài chú chuột
đồng được nướng vàng trên khóm than hồng, làm mồi cho những tràng cười vui.
Blust – cố vấn của GĐ26XP – vừa cười vừa nhăn mũi hít mùi thơm của chuột nướng. Sau khi ăn thử,
Blust thích quá, không tiếc lời khen món ăn đồng quê này. Với món ăn lạ và vài
ly rượu cay, Blust không còn tự chủ được, bắt đầu hát Hallelujah… Tiếng hát nhừa nhựa, nghèn nghẹn, vang xa từ mũi chiếc
Command tan loãng trong không gian mênh mông của dòng sông và rừng dừa nước.
Hát mãi/hát hoài vẫn không ai hưởng ứng,
Blust cảm thấy cô đơn vô cùng rồi nỗi nhớ nhà dâng cao, dâng cao mãi khiến
Blust khóc vùi như trẻ thơ!
Khóc thỏa thuê một lúc, Blust trở vào lòng chiếc Command vừa khi Thiếu Tá Quang
– Chỉ Huy Trưởng GĐ26XP – đang giận dữ,
“gào” lên trong ống liên hợp:
- Mày nói với Đại Bàng của mày, không cho tao vào bây giờ thì ai cứu tụi nó?
Chờ đến sáng không còn “mống” nào sống sót đâu. Mời Đại Bàng của mày lên máy,
nhanh đi!
Không hiểu tiếng
Việt, nhưng thấy thái độ của Thiếu Tá Quang, Blust hiểu phần nào những gì đang
xảy ra. Trong khi Blust ngượng ngùng, cứ loay hoay cạnh Thiếu Tá Quang và lập
đi lập lại: “I’m sosrry, sir!” thì
Thiếu Tá Quang ra lệnh cho đoàn giang đỉnh sẵn sàng tiến vào tiếp cứu đồn Thứ
6. Chỉ vài phút sau Thiếu Tá Quang ra “phản lệnh”. Quay nhìn Blust, Thiếu Tá
Quang giải thích: Đồn thứ 6 bị vây, bị tấn công nặng, kêu cứu; nhưng Đại Tá Tỉnh
Trưởng sợ trách nhiệm, không cho đoàn chiến đỉnh vào!
Ánh trăng lưỡi liềm
tỏa ánh sáng xanh xao nhưng cũng không thể làm loãng đi ánh hỏa châu chập
chùng, lơ lửng, hướng kinh Trèm Trẹm. Tôi nghĩ đến Thiếu Úy Y với nhiều lo lắng.
Sáng hôm sau,
đoàn giang đỉnh không trở vào kinh Trèm Trẹm mà lại nhận vùng trách nhiệm mới:
Quận Gò Quau, thuộc tỉnh Kiên Hưng. Quận Trưởng là Trung Tá Phép, người miền
Nam, ăn nói thật thà, dễ thương như những hạt cơm gạo nàng Hương.
Thời gian nhận
công tác tại Gò Quau, đoàn chiến đỉnh hằng ngày giang hành trên Kinh Ngang để
chuyển quân/quân trang/quân cụ. Vài chiếc tắc ráng chở đầy khóm chạy gần đoàn
chiến đỉnh. Có tiếng xua đuổi:
- Dang ra. Cặp vô là bị bắn đó.
- Dạ, tui biếu
các anh mấy trái khóm ăn chơi mà!
Anh lính chỉ về cặp
fom:
- Tới đưa cho mấy
chiếc tàu nhỏ kia kìa; đừng tới gần mấy chiếc tàu lớn, nghe hôn.
Vừa cho ghe lách
ra cô gái vừa quay lui:
- Mèn ơi! Có mấy
anh tụi tui mới dám đi buôn ở khúc sông này chớ hổng có mấy anh đố ai dám bén mảng
qua đây đó!
Mấy anh lính cảm
thấy lòng xao xuyến, muốn làm quen nhưng đoàn giang đỉnh được lệnh trở lại kinh
Trèm Trẹm.
Ngang đồn thứ 6,
vết tích lửa đạn vẫn còn đó nhưng Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vẫn ngạo nghễ
tung bay; người Nghĩa Quân vẫn nghêu ngao câu vọng cổ trên tháp canh. Tất cả dường
như không mang nét thê lương/ảm đạm nào cả. Tất cả chấp nhận sự điêu linh một
cách bình thản đến tội nghiệp!
Đến đồn thứ 9,
tôi gặp lại Thiếu Úy Sao. Sao chào tôi, môi nở nụ cười buồn. Hai chữ “Y-Sao”
màu đen thêu trên túi áo của Sao đập nhanh vào mắt tôi. Thấy ánh mắt khó hiểu của
tôi, Sao nhìn vội xuống hai chữ “Y-Sao” rồi nhìn ra xa. Trong mắt của Sao tôi
tưởng như thấy được sự hận thù vỡ ra tung tóe như những vệt máu hồng của Y kéo
dài từ chông hào đến cửa hầm chống pháo kích! Nhìn Sao và nghe câu chuyện
thương tâm của Y, tự dưng tôi nghĩ đến Linh – em tôi. Không biết giờ này Linh
đang phiêu bạt ở chiến trường nào trên cao nguyên!
Cơn mưa trái mùa
chợt đến. Rừng tràm và dừa nước chìm trong màn mưa xám đục. Tiếng ca vọng cổ
trên tháp canh ngân dài thê lương kèm theo tiếng gõ nhịp nhặt khoan của hai
thanh tre nghe sao não nề/nhức buốt! Chỉ một lúc sau tất cả âm thanh đều chìm lấp
trong cơn mưa nặng hạt và trong tiếng gió thét gào. Mọi sinh hoạt đều ngưng đọng.
Bỗng…Ầm! Ấm! Ầm! Tiếng nổ làm rung chuyển vùng không gian nho nhỏ quanh tôi,
trên chiếc Combat. Từng khối nước tung cao ngất trời trong khi chiếc Command từ
từ chìm xuống. Hằng loạt trái sáng được bắn lên như đưa tiễn chiếc Command vào
lòng sông sâu! Dòng phù sa thêm màu mỡ nhờ máu/thịt/xương của những thủy thủ vừa
xong lóp đệ Nhị!
Sau những tan
thương rách nát trong hồn, tôi theo đoàn giang đỉnh trở lại Kinh Ngang. Mấy cô
bán khóm đâu không thấy mà chỉ thấy mặt sông gợn lăn tăn những làn sóng nhỏ.
Dòng sông tưởng hờ hững nhưng nỗi chết đang giăng đầy! Ngoài tiếng gió lao xao
trên rừng dừa nước và tiếng máy tàu vi vu, không còn một âm thanh nào khác nữa.
Tất cả đều im lặng. Cái im lặng rình rập/cái im lặng hồi hộp/cái im lặng rợn
người như một đoạn phim căng thẳng quá độ, đạo diễn không cho nhạc đệm!
Trong khi mọi người,
mọi nòng súng đều chỉa về khúc quanh như đợi chờ/như thách thức thì…đoàn chiến
đỉnh giang hành qua êm xuôi. Tôi chưa kịp mừng chợt nghe một tiếng nổ rền trời
rồi từng khối nước khổng lồ tung lên. Chiếc LCM8 – Landing Craft Mechanized
(Quân Vận Đỉnh) – bị mìn! Sau khi cứu vớt và nhặt xác của đoàn viên, mọi người
đều lúng túng; vì không biết những bộ phận cơ thể “rời” này thuộc về nạn nhân
nào để “ráp” vào cho đúng! Thôi, chia đều trong mỗi bao ny-lông để người thân bớt
đau lòng!
Trong mấy bao
ny-lông đựng xác người có phần cơ thể không nguyên vẹn của Chuẩn Úy Mẫn. Mẫn mới
biết miền Tây Nam Việt sau chuyến xe đò Saigon qua Bắc Vàm Cống về Long Xuyên để
trình diện GĐ26XP, sau khi Mẫn mãn khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức! Mẫn đến đơn vị
chỉ được một ngày, chưa biết gì về những danh từ chuyên môn của Hải Quân!
Chuyến giang hành
từ Kinh Ngang về Chương Thiện chiếc Combat lại bị mìn. Nhìn hai chiếc LCM kè
hai bên để đưa chiếc Combat về bến, tôi gục đầu vào lòng bàn tay. Vì thương mến
đoàn giang đỉnh, tôi âm thầm nhân cách hóa mỗi chiến đỉnh bằng một cái tên rất
đáng yêu. Vì lẽ đó, mỗi khi chiến đỉnh nào bị bắn hoặc bị mìn, tôi cảm thấy như
chính một phần cơ thể của tôi bị thương!
Sau khi chỉnh
trang, đoàn giang đỉnh theo sông Hậu, rẽ vào Long Phú, xuôi theo Bãi Sầu, giang
hành xuống Bạc Liêu, về quận Gia Rai. Nhìn những con kinh đào nhỏ hẹp, chỉ đủ rộng
cho chiến đỉnh giang hành hàng một – chứ không đủ rộng để chiến đỉnh có thể
xoay ngang, trở đầu – lòng tôi cứ ái ngại thầm!
Sáng hôm sau,
đoàn giang đỉnh chuyển quân từ Gia Rai đi Cà Mau. Thiếu Tá Quang đã cẩn thận dặn
tất cả Bộ Binh ngồi trong lòng tàu, không để lộ dấu hiệu là mình đang chuyển
quân. Thế mà địch quân vẫn rình rập! Khi đoàn chiến đỉnh vừa qua khỏi xã Hộ
Phòng thì từng loạt/từng loạt B40/B41 nã xối xả vào những mục tiêu không có đường
xoay trở!
Thiếu Tá Quang ra
lệnh cho đoàn chiến đỉnh “ủi” thẳng vào nơi xuất phát B-40/B-41. Mấy khẩu đại
pháo từ chiếc Command và chiếc Combat tác xạ liên tục.
Bất ngờ tôi thấy
nhiều nón tai bèo/nón cối cứ nhấp nhô/nhấp nhô từ bờ sông, hướng về rừng tràm!
Trong khi chờ trực
thăng tản thương, tất cả tử sĩ và thương binh VNCH được khiêng lên bờ. Tôi đi
theo. Thủy thủ Hiền ra dấu cho tôi cúi xuống gần anh, giọng thều thào:
- Đừng cho “dợ” em biết em bị thương, nó lo, tội nghiệp. Để ít bữa, em “dìa”!
Nhìn máu và nước
sóng sánh trên chiếc “băng-ca” và người Hiền run rẩy, tôi chỉ biết khóc, gật đầu,
trong khi tay tôi cứ đẩy cái kéo, cố cắt bộ quân phục đẫm máu của Hiền. Cắt xong, tôi xin một chiếc áo nhà binh của một ông lính đứng gần. Tôi lấy tất cả giấy tờ và cái ví của Hiền, cho vào túi áo nhà
binh rồi phủ chiếc áo lên người
Hiền. Tôi nhờ một người đứng gần phụ tôi, nghiêng “băng-ca” cho máu và nước thoát ra rồi tôi từ từ
rút từng mảnh vải đã bị cắt để Hiền đỡ bị lạnh.
Trước khi tôi
quay sang giúp một thương binh khác, Hiền lại ra dấu cho tôi
cúi xuống gần Hiền. Nước mắt ràng rụa, tôi xúc động quá, cho nên chỉ nghe tiếng được tiếng mất:
- Trong bóp em
còn mấy ngàn, …chị đưa giùm cho… “dợ” em để nó mua sữa cho
con. “Dợ” em đẻ con trai, hôm qua… Chỉ Huy Trưởng nói mai cho em đi phép đặc ân…
Nói ngang đó,
gương mặt của Hiền trông tươi tĩnh; nhưng rồi Hiền cong người sang một bên như muốn ho. Một
dòng máu đỏ chảy mềm mại từ môi Hiền, rồi mắt Hiền khép lại!
Sau những cảnh
đau lòng, đoàn chiến đỉnh di chuyển về Kiên Lương. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy các vị sư mặc áo vàng, ăn hủ tiếu, uống
bia 33. Đám trẻ con đứng dưới gốc cây, nhìn mấy anh thủy thủ như nhìn những dị
nhân vừa từ một hành tinh khác đến. Mấy cụ già tươi cười nhận dầu ăn/cơm sấy/cá hộp từ mấy anh thủy thủ. Một cụ vỗ vỗ
lên tay Triều, hỏi:
- Làm sao được đi
lính như mấy chú, hả chú?
- Dạ, dễ mà! Lên Saigon ghi tên là đi liền hà!
- Saigon ở đâu “dzậy”,
chú em?
- Nói giởn chơi
chớ bộ Cụ tính đăng lính Hải Quân thiệt sao?
- Hỏng phải! Thằng
cháu ngoại của ‘wa’, nó đóng ở đồn kia cà. Nó muốn đi.
- Thôi, đi Nghĩa Quân gần nhà sướng hơn; Hải Quân xa nhà hoài, chán lắm!
- Bị nó ở trong đồn mà thằng em của nó cứ bắt loa kêu nó bỏ súng “dìa dới nhơn dân” “woài” hà!
- Sao kỳ vậy, Cụ?”
Cụ bước đến gần
Triều hơn và nói nhỏ như sợ ai nghe được:
- Thằng em của nó theo “Dziệt
cộng”. Dậy mới có “chiện” chớ!
Chẳng biết nói gì, Triều đưa mắt nhìn tôi. Tôi cúi mặt, cảm thấy buồn quá, đi dần đến cặp fom.
Tôi thấy một đứa
bé len lén sờ vào mũi chiếc fom rồi
rút cổ cười khúc khích. Đứa khác bước tới, vuốt vào thành tàu rồi giật mình, nhảy
lùi lại, reo to:
- Bằng sắt, tụi bây ơi!
A, thì ra trẻ em bị Việt cộng tuyên truyền rằng chiến hạm/chiến đỉnh của Hải Quân VNCH được làm bằng…giấy!
Đoàn giang đỉnh
được lệnh trở lại Chương Thiện. Khi ghé lại quận Gò Quau tôi mới biết Trung Tá Phép đã thuyên chuyển vào một quận
trong xa mà tôi không nhớ tên.
Khi đoàn chiến đỉnh đang giang hành đến
nhiệm sở mới, tôi hay tin
Trung Tá Phép tử trận trong cuộc tiếp cứu một đồn Nghĩa Quân!
Tôi giã từ GĐ26XP để trở lại U Minh với Giang Đoàn Tuần Thám. Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn Tuần Thám không cho tôi ngồi phía trước; Ông bắt tôi ngồi trong lòng chiến đỉnh để khỏi bị bắn sẻ. Tôi cười, thầm nhủ, vận tốc
Đến sông Cái Lớn đoàn
“Mắt trinh nữ lệ mờ bên sông cũ.
Đợi cung đàn nghệ sĩ vắng bao Thu!”
Hôm sau, tôi theo
một giang đoàn Tuần Thám khác, giang hành sâu vào U Minh. Vì chưa bao giờ đến đoạn sông này,
tôi tò mò, vui thích nhìn quanh những vườn khóm thênh thang.
Đoàn
Phiêu lãng trên những dòng sông nhuộm máu suốt thời gian dài, lòng tôi mang
nặng niềm đau của những thanh niên cùng thời với tôi; và, dường như tôi quên đi
nỗi đau xưa, bên dòng sông Triêm Đức.
Tôi trở lại dòng
sông Triêm Đức vào những ngày sôi sục nhất của cuộc
chiến để thuyết phục Ba tôi dời vào Saigon. Ba tôi bảo đất đai, nhà cửa
và mộ của bé Ngọc – em tôi – còn đó, đi sao đành! Tôi đề nghị Linh vào Saigon với tôi. Linh dứt khóat:
- Ba Má già rồi, em không thể bỏ Ba Má được!
Ba tôi tiếp lời Linh:
- Tại sao con có
vẻ sợ? Họ cũng là người Việt Nam như mình mà. Còn Linh chỉ là Đại Úy, có gì đâu mà lo. Hơn nữa, họ về họ
cũng phải dùng sĩ quan của mình chứ sĩ quan của họ đốt đặc, xài gì được!
Nói ngang đó, Ba
tôi vỗ hai tay vào nhau kêu “bốp” rồi tíếp, giọng rất vui:
- Nè, con nhớ bác
Ca không? Nghe nói bác làm lớn lắm. Bác Ca với Ba bề gì cũng còn cái tình kháng chiến chống Tây. Và hồi đó, tuy nghèo, nhưng Ba dạy Pháp
văn cho bác Ca Ba không nhận thù lao.
Giọng tôi nghẹn lại
như muốn khóc:
- Chức Phó Quận
Hành Chánh rồi Trưởng Ty Nội An của Ba, Ba có giấu được bác Ca hay
không?
- Bác biết thì biết.
Mình “ăn cây nào, rào cây đó”, ai nỡ trách mình. Con đừng lo. Có bác Ca là mọi
việc đều xong.
Tôi đành quay về
Saigon với chút tin tưởng vào bác Ca.
Khi những sôi động
trong dòng lịch sử và trong lòng tôi ở vào đỉnh cao nhất, tôi hay tin bác Ca giữ
một chức vụ rất quan trọng trong chính quyền của cộng sàn Việt Nam.
Một người bạn của
tôi có ông Bố đi tập kết; Ông bị chiêu dụ khi Ông du học tại Pháp.
Sau tháng Tư năm 1975, người bạn này tổ chức tiệc để ông Bố mời những người bạn
của Ông. Bạn tôi nhờ tôi giúp trang hoàng để bữa tiệc thêm phần trang trọng.
Chính trong bữa
tiệc trang trọng này, tôi được gặp một cụ già tên Ca. Sau vài câu xã giao, Cụ Ca hỏi tôi người miền
nào mà nói tiếng lơ lớ nửa Nam nửa Huế. Tôi đáp tôi được sinh tại Dalat, Má tôi
Huế, Ba tôi Nha Trang. Dường như “lý lịch” của tôi gợi
trong ký ức của Cụ Ca điều gì đó, Cụ hỏi tiếp:
- Hồi trước Bố của
Cô làm gì?
Tôi nghi đây là
bác Ca – người từng phục vụ
cùng một đơn vị với Ba tôi trong thời kháng chiến chống Tây – nhưng tôi không quen nói dối:
- Thưa Cụ, Ba cháu ngày xưa đi kháng chiến chống Tây. Ba cháu giỏi nhạc và Pháp văn lắm.
- Ba cô tên gì? Hồi
kháng chiến sống ở đâu?
- Dạ, Ba cháu tên
Ngữ. Hồi tản cư gia đình cháu sống gần sông Triêm Đức.
- Ba cô còn ở bên
sông Triêm Đức không?
- Dạ, không. Xin lỗi Cụ, cháu nhớ hồi xưa Ba cháu có người bạn
rất thân, tên Ca. Thưa Cụ, có phải Cụ là bác Ca không ạ?
- Ừ, tôi là bác
Ca đây.
Tự dưng tôi cảm
thấy mất bình tĩnh! Thật lòng, tôi muốn nhân cơ hội này, xin bác Ca giúp đỡ hoặc
che chở cho Ba tôi và các em trai của tôi; vì lệnh kêu
gọi sĩ quan và công chức “Ngụy” đi “đăng ký” cứ “ra rả” trên đài phát thanh. Nhưng đồng thời tôi
cũng cảm thấy khó chịu khi trực diện với một nhân vật quan trọng trong guồng
máy đầy ác tính mà tôi không thích.
Bác Ca nhíu mày
như vận dụng trí nhớ rồi hỏi:
- Thằng gì em của
cô, nó làm gì?
- Dạ, em cháu tên
Linh, Đại Úy.
Không hiểu vì già
lẩn thẩn hay là vì bác Ca muốn “đâm” vào hồn tôi, Bác hỏi:
- Đại Úy bên nào?
Tôi nghẹn! Tay tôi run lẩy bẩy. Tôi muốn khóc
nhưng uất quá khóc không được! Tôi không nỡ dùng chữ “Ngụy” mà tôi cũng không
dám nói bốn chữ Việt Nam Cộng Hòa trước mặt bác Ca. Tôi cố né người khi chủ nhà bưng thức ăn lên để khỏi
phải trả lời.
Một cách từ
tốn bác Ca lấy thức ăn cho vào chén của tôi, mời:
- Cô dùng
chút tiết canh đi, bổ lắm đấy!
Tôi lí nhí
cảm ơn, nhìn bác Ca, thầm nghĩ: Thức ăn miền Nam đầy đủ, ê hề, Bác đâu cần phun
nước bọt vào dĩa để dành ăn, như ngày Bác còn ở Liên Khu V! Bác Ca lại hỏi:
-Thế Ba Má
cô có tất cả mấy người con?
-Dạ, cháu, Linh và hai em trai nữa.
-Thế hai thằng ấy
làm gì?
-Dạ, cũng sĩ quan.
Tôi không dám nói hết câu. Như ngầm hiểu, Bác Ca không hỏi tiếp mà lại nhỏ nhẹ mời tôi lần nữa. Tôi
nâng đũa, trộn phần tiết canh trong chén. Nhìn phần tiết canh tươm ra nơi lòng
chén và phần tiết canh sánh lại quanh mấy miếng lòng, tôi chợt liên tưởng đến
những phần máu thịt của những Người Lính V.N.C.H. mà tôi đã thấy tận mắt trên
những dòng sông oan nghiệt! Từ mối tình cảm dành cho Người Lính V.N.C.H., tôi
không thể làm thân với bác Ca để nhờ Bác giúp cho Ba và các em tôi.
Sau khi nghe tôi
trình bày sự việc, Ba tôi đích thân vào Saigon tìm gặp bác Ca. Không hiểu kết
quả của lần gặp gỡ giữa hai người bạn già như thế nào, nhưng Linh và hai em trai của Linh bị bắt trước khi Ba
tôi từ Saigon trở về. Và sau đó Ba tôi cũng phải trình diện để đi cải tạo!
Trong lần được thăm
nuôi đầu tiên, Ba tôi ngồi
im, mắt đỏ rực, nhìn vào khoảng không gian vô tận khi
tôi nhắc đến các em tôi. Ba tôi hỏi:
-Con đã đi thăm
các em chưa?
-Dạ, chưa.
Ba tôi “dúi” vào tay tôi ba mảnh giấy vo tròn, nói rất nhỏ:
- Con đưa cho các
em.
Tôi chưa kịp “dạ” thì tên quảng giáo nhảy tới, hùng hổ
như con thú vồ được mồi:
- Chuyển tài “niệu”
gì đấy? Đưa xem.
Tôi xám mặt, không hiểu tôi sợ cho tôi hay là tôi sợ cho Ba tôi, nhưng tôi run quá! Ba tôi rất điềm tĩnh:
- Trình cho anh
quảng giáo xem đi, con!
Tôi mở bàn tay.
Ba cuộn giấy nhỏ xíu lăn trên bàn, tên quảng giáo chụp lấy. Trong khi tên quảng
giáo vuốt cho thẳng để đọc, tôi liết nhanh vào mảnh giấy và thấy: “Con! Ba tủi hổ và hối hận về cái bác
‘Caca’(1) đó lắm!”
Điệp Mỹ Linh
