Cái đèn bàn tự nhiên nháy nháy rồi tắt. Tôi đưa tay ấn ấn cái nút bấm, cái đèn lóe lên rồi lại tắt. Chưa kịp ngạc nhiên thì trên laptop hiện lên dấu hiệu không có internet. Thử đi thử lại vài lần không ăn thua, tôi đứng lên bật thử đèn trần. Không có điện.
Có lẽ là power cut. Ở một cái xứ văn minh có nền
kinh tế đứng hàng thứ 5, thứ 6 trên thế giới này rất hiếm khi có chuyện cúp điện
xảy ra, chỉ trừ khi có một lý do đặc biệt nào đó. Và vì ít theo dõi những thông
tin kiểu như vậy, tôi không thể nhớ ra là lý do gì. Nhưng từ hồi bước chân sang
xứ này tới giờ đã hơn ba mươi năm, tôi chỉ gặp trường hợp như vậy không quá
mươi lần.
Không đọc tin tức trên internet cũng không xem TV được. Điện
thoại không hiểu sao cũng không hoạt động dù đã bật sang chế độ mobile data. Có
lẽ vì cái điện thoại Samsung của tôi thuộc đời khá cũ, hay dở chứng.
Tôi đi xuống bếp, mở tủ lạnh thấy điện tắt mới sực nhớ bây
giờ có đói cũng không nấu ăn được, ngay cả nấu nước làm tô mì gói, hay hâm
microwave ly sữa nóng.
Trong một thế giới văn minh, cuộc sống bỗng dưng như ngừng hẳn
lại khi không có điện, không internet. Và chỉ khi đó con người mới nhận ra mình
lệ thuộc vào điện, vào internet đến mức nào.
Làm gì bây giờ?
Tôi nhìn qua ô cửa sổ xuống mảnh sân chung giữa nhà tôi và
nhà hàng xóm. Và thấy chiếc xe hơi của nhà hàng xóm phải dừng phía bên ngoài vì
cánh cổng tự động không mở được khi không có điện. Hai nhà chung một cổng. Bây
giờ có muốn đi ra ngoài tôi cũng không đi được.
Tôi trở thành tù nhân trong ngôi nhà của mình.
Làm gì? Tập thể dục? Lười quá. Đọc sách. Cũng lười. Đã lâu rồi
tôi mất thói quen đọc những cuốn sách giá trị. Tôi chỉ đọc tin tức Việt Nam và
thế giới, thỉnh thoảng xem phim–thường là thể loại vụ án, hình sự, và nếu có đọc
sách thì cũng đọc thể loại này. Hồi xưa khi còn trẻ tôi thích đọc tác phẩm của
những tác giả luôn có tên trong những bảng xếp hạng khác nhau về những nhà văn
lớn nhất mọi thời đại. Xem phim cũng thế, phải là phim của những đạo diễn nổi
tiếng, có giải nọ giải kia. Bây giờ tôi chỉ xem phim hình sự, vụ án. Chúng khiến
tôi không phải suy nghĩ. Và giúp tôi tiêu thời gian. Mỗi khi thấy u ám, nặng nề
vì theo dõi tin tức quê nhà lẫn quốc tế hoặc vì bất cứ lý do gì, tôi lại giải
trí bằng phim hoặc truyện hình sự, và cương quyết chối từ những bộ phim hay những
cuốn sách phải suy nghĩ, động não nhiều. Lại càng tránh những thể loại nặng nề,
dễ gây trầm cảm.
Tôi ra vườn. Cái vườn nhỏ xíu với hai dải đất nhỏ trồng hoa.
Tôi cắt những cái lá úa, những đài hoa héo khô sau khi bông đã rụng, ngắt những
cành dây dại leo bò khắp nơi. Cứ mỗi khi thấy những cái lá úa, bị sâu bệnh hoặc
những bông hoa héo chỉ còn lại đài hoa, là tôi phải cắt đi cho bằng được. Tôi
không thích nhìn bông hoa héo, vả lại, người ta nói siêng cắt đài hoa, cuống
hoa khi hoa đã chết, sẽ kích thích cây mau nở hoa trở lại.
Con mèo Lena chạy theo tôi ra vườn, nhưng khi tôi trở vào
nhà nó không đi theo, nó thích ở ngoài vườn hơn. Tôi từng có 3 con mèo, two
boys, one girl. Nhưng hai thằng Tom và Bill đã chết, lần lượt năm
ngoái năm kia. Còn con Lena lớn tuổi hơn, và tôi không thích bằng hai thằng
kia, thì lại vẫn sống khỏe. Năm nay nó đã 16 tuổi. Kiểu này nó phải sống đến
năm 18 tuổi.
Tôi quay vào nhà. Bồn chồn, bực bội. Không làm gì được.
Có lẽ đi ngủ vậy. Và tôi đi ngủ. Tôi vẫn thường nghĩ trong
cuộc đời chẳng nhiều niềm vui cũng hiếm khi gặp may mắn của mình, trời lại
thương cho cái nết ăn uống không bị dị ứng bất cứ thứ gì và ngủ dễ – hiếm khi
nào phải trằn trọc suốt đêm. Và ngủ cũng là một cách để con người ta
không phải suy nghĩ vẩn vơ.
Đặt chiếc điện thoại bỗng trở nên vô dụng trên cái bàn nhỏ đầu
giường, tôi quay người nằm nghiêng trong tư thế quen thuộc, và nhắm mắt lại. Chỉ
vài phút sau tôi đã chìm vào giấc ngủ.
***
Gã chạy vội cho kịp chuyến metro. Trong đường hầm, vào những
giờ cao điểm như thế này lúc nào cũng đầy người, và giống như gã, ai cũng vội
vàng cuống quýt, dù đang sải bước đi về phía trạm chờ, hay bước lên, bước xuống
từ những chiếc metro. Chẳng ai nhìn ai. Nhưng dù đã chạy vội, khi gã đến trạm dừng
thì metro cũng vừa đi. Gã nhăn nhó đứng đợi. Một chuyến, hai chuyến chạy tới và
không dừng lại vì đã quá đông. Gã càng sốt ruột, lo lắng. Sợ bị ông xếp khiển
trách. Sợ mất việc. Lúc nào gã cũng sợ mất việc. Gã nhìn quanh. Không ai chú ý
đến gã. Một cô gái da trắng, tóc màu nâu nhạt, ăn mặc khá thoáng, đang đứng đợi
metro cách gã vài bước chân, cô gái ngẩng mặt lên nhìn lướt qua gã như nhìn vào
chỗ không người rồi lại cúi xuống với cái điện thoại trên tay. Gã không chạnh
lòng. Gã đã quen với cảm giác mình không là ai, mình không tồn tại trong mắt rất
nhiều người, nhất là với phụ nữ.
Nhưng chợt gã nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc. Đó là người
hàng xóm, một bà cụ già người Ái Nhĩ Lan (Ireland), có lẽ cũng phải gần 80. Bà
cụ sống tại một trong những căn hộ của nhà nước cho thuê phía bên kia đường,
cách nhà gã chỉ một quãng ngắn. Gã không quen bà. Bà cụ hình như cũng chỉ mới dọn
về căn hộ đó dăm bảy năm nay. Năm nào cũng vậy, cứ vào mùa xuân, mùa hè, và cả
đầu mùa thu, bà thường hay bắc ghế ngồi ngay trước cửa, bất cứ ai đi ngang qua
bà cũng mỉm cười, vẫy tay chào, thân thiện. Riết rồi thành quen, cứ đi qua thấy
bà là gã vẫy tay chào Hello trước và bà cụ hồ hởi đáp lại. Có
lẽ bà cụ cô đơn lắm. Rất nhiều lần gã tự nhủ mình nên bước qua bên kia đường,
nói chuyện vài câu với bà. Chắc bà sẽ rất vui. Nhưng rồi cái tính nhát lười lại
kìm gã lại. Cứ như thế, luôn chỉ là những cái vẫy tay, những cái chào Hello,
những nụ cười. Cho tới hai năm nay thì gã không thấy bà cụ ngồi ngoài cửa nữa.
Ngay cả vào những ngày nắng đẹp mùa hè. Gã nghĩ có lẽ bà cụ yếu quá không ra
ngoài được, cũng có thể bà phải vào nhà dưỡng lão vì không còn tự chăm sóc được
mình, cũng có thể bà đã qua đời…Và gã chợt thấy ân hận vì mình đã không bước
qua đường, nói chuyện với bà cụ. Chỉ có mấy bước chân.
Vậy mà bây giờ bà cụ lại ngồi đây, trên băng ghế, có vẻ như
cũng đang chờ metro. Gã thấy mừng vì bà vẫn khỏe, gã bước về phía bà cụ, vui vẻ
chào. Bà cụ ngẩng lên nhìn nhưng không có vẻ gì nhận ra gã. Gã cố nhắc bà mình
là người hàng xóm ở gần nhà nhưng bà cụ vẫn ngơ ngác, một nụ cười bối rối ngập
ngừng nở trên môi.
Đúng lúc đó chuyến metro trờ tới và dừng lại. Chuyến metro của
gã. Không thể trễ thêm nữa, gã chào bà cụ và vội vã lên metro. Nhưng khi vừa đứng
yên chỗ, nhìn qua khung cửa kính gã giật mình khi thấy mẹ mình và Thu Cúc ở trạm
dừng đối diện phía bên kia đường ray. Thu Cúc đang nói gì đó và mẹ gã gật gật đầu,
lắng nghe. Dáng bà nhỏ thó, tóc bạc trắng, vẻ mặt buồn buồn nhẫn nhịn và nụ cười
dù thường tắt rất nhanh, vẫn gợi lại nét đẹp thời còn trẻ. Gã chợt nhận ra có
cái gì đó rất giống nhau giữa bà cụ hàng xóm và mẹ gã, dù là một người Ireland
da trắng và một người Việt da vàng. Đó là vóc dáng gầy gò, là mái tóc ngắn bạc
phơ, là nét buồn buồn, cô đơn trên khuôn mặt, và nụ cười mong manh. Còn Thu Cúc
thì vẫn mái tóc dài mềm mại, vẫn dáng người nhỏ bé, không có mông cũng chẳng có
ngực, giống như một nữ sinh chưa trưởng thành. Một ý nghĩ chợt đến trong gã,
làm sao mà nàng vẫn trẻ như thế sau bao nhiêu năm.
Mừng quá gã cuống cuồng len qua những người khác để xuống
metro, suýt nữa thì người gã bị kẹp vì cửa metro đang đóng lại. Gã chạy vòng
qua phía bên kia. Mẹ gã và Thu Cúc đang đi về phía cửa ra. Gã gọi lớn: – Mẹ, mẹ.
Gã định gọi Thu Cúc nhưng vì ngượng ngùng, gã chỉ gọi mẹ. Hai người phụ nữ nhìn
về phía gã, nhưng rồi vẫn tiếp tục đi. Gã chạy theo, và trợt chân té nằm dài bởi
cái vỏ chuối từ một thằng nhóc con, không biết gốc Việt hay Hoa hay Hàn đứng gần
đó vứt ra. Thằng nhóc khoảng 6, 7 tuổi, vẻ mặt xấc láo, cười sằng sặc thích
thú. Còn mẹ nó, cũng rặt châu Á, đứng bên cạnh thì không những không mắng con
mà còn cười phụ họa. Hai, ba người da trắng có, da màu có, đứng gần đó cũng cười.
Cảm giác xấu hổ nhục nhã quen thuộc, thường được giấu kín trong lòng lại trỗi
lên. Gã chỉ muốn bóp cổ thằng nhóc, bóp cổ những người đang cười kia. Nhưng rồi
gã quay mặt đi, chống tay ngồi dậy.
Khi gã đứng lên được thì không còn thấy mẹ mình và Thu Cúc
đâu nữa. Gã cuống cuồng chạy đi tìm, vừa chạy vừa nhìn quanh vừa gọi mẹ, gọi
Thu Cúc. Đường phố đông người chẳng ai nhìn gã. Gã chạy tới chạy lui như một thằng
hề, tuyệt vọng tìm kiếm cho tới khi mệt lử phải dừng lại để thở. Và rồi đôi mắt
gã dừng lại trước hình ảnh phản chiếu của mình trong cánh cửa kính bao quanh một
nhà hàng. Một người đàn ông mặc bộ đồ của gã, vóc dáng của gã nhưng với một cái
đầu và khuôn mặt của một robot. Bất động. Trơ trơ không cảm xúc. Gã hốt hoảng
đưa tay lên sờ vào khuôn mặt. Bàn tay vẫn là tay người. Nhưng khuôn mặt là của
một con robot. Chuyện gì xảy ra với tôi thế này? Gã tuyệt vọng kêu lên nhưng
không phát ra tiếng người mà lại nghe như tiếng mèo kêu.
***
Tôi giựt mình thức giấc vì tiếng con mèo Lena cào vào cánh cửa
và kêu khóc ảo não. Còn chưa tỉnh hẳn, tôi suỵt suỵt để con mèo im nhưng nó vẫn
tiếp tục kêu khóc. Tôi cố gắng ngổi dậy, quát thêm vài tiếng, cuối cùng con
Lena mới im và bỏ đi, nhưng vẫn càu nhàu ra vẻ không hài lòng. Tôi ngồi lắc lư
trên giường, đầu hơi nhức và một cảm giác nặng nề, u ám vây bủa bởi những hình ảnh
còn lại từ giấc mơ. Tim tôi vẫn đập thình thịch vì lo lắng, hoảng hốt. Tôi vội
đưa tay sờ lên mặt mình và nhẹ nhõm vì đó vẫn là da người, vẫn mắt mũi
người. Cẩn thận hơn, tôi quờ tay tìm chiếc điện thoại, mở camera và
xoay chiều để nhìn vào mặt mình. Vẫn là khuôn mặt buồn tẻ, chán ngắt và hơi
sưng lên vì giấc ngủ, của cái thằng tôi.
Tôi thở hắt ra, nhẹ cả người. Giấc mơ quái dị. Tôi
lầm bầm.
Thường thì tôi không nhớ được mình đã mơ những gì, chỉ trừ
khi giật mình thức giấc nửa chừng. Những giấc mơ, không bao giờ rõ ràng, chỉ là
những hình ảnh lộn xộn, vô lý, cùng với những con người từng gặp ở những giai
đoạn khác nhau trong cuộc đời không hiểu sao lại xuất hiện chung một chỗ. Hôm
nay cũng vậy.
Tôi nhớ lại hình ảnh mẹ tôi và Thu Cúc. Ngoài đời Thu Cúc
chưa bao giờ gặp mẹ tôi. Lạ lùng hơn nữa là bao nhiêu năm rồi tôi không còn
nghĩ tới hay mơ về Thu Cúc. Tôi thường cố không nghĩ đến những điều không vui
trong đời. Nhờ vậy tôi sống sót như loài cỏ dại vô tri vô giác.
Nhưng lúc này, những hình ảnh về ba người, có thể đều đã qua
đời, khiến lòng tôi chùng xuống. Tôi chợt nghĩ nếu bây giờ có chuyện gì xảy ra
hoặc nếu tôi chết bất thình lình chắc cũng chẳng ai hay. Có khi hàng bao nhiêu
ngày sau, thậm chí nhiều tháng sau người ta mới khám phá ra. Có bao nhiêu người
già chết cô đơn mỗi năm, tại những quốc gia văn minh, tự do, có nền kinh tế
phát triển? Như mới đây là vợ chồng một diễn viên người Mỹ nổi tiếng, vợ chết
trước chồng chết sau, tôi từng xem khá nhiều phim có ông diễn viên này đóng
nhưng bây giờ chẳng nhớ nổi tên ông.
Mà thật ra mình đâu đã già, cũng chẳng có bệnh tật gì nghiêm
trọng, tôi nghĩ. Vậy mà nhiều khi tôi có cảm giác như mình đã già lắm. Tôi chưa
tới 67, lẽ ra chưa tới tuổi về hưu nhưng tôi xin về hưu sớm từ năm ngoái vì
chán làm những công việc mình không yêu thích sau bao nhiêu năm. Tôi thích ở
nhà, trong sự cô độc một cách bình yên. Trong cái tổ nho nhỏ, cũ kỹ và quen thuộc
là ngôi nhà của mình. Với một lịch hoạt động đều đặn, lặp đi lặp lại, ngày này
qua tháng khác, ít khi có gì thay đổi.
Từ lâu tôi tập cho mình không mơ ước, không hy vọng, không cảm
xúc, bởi vì nếu không, hoặc căn bệnh trầm cảm của tôi sẽ nặng nề thêm, hoặc tôi
sẽ hóa khùng. Vả lại có gì để mơ ước, hy vọng? Tôi biết chắc cuộc đời mình hai
mươi năm nữa–tất nhiên nếu tôi sống đến hai mươi năm nữa–cũng sẽ y như thế này,
không có gì thay đổi. Tôi vẫn sẽ sống ở cái thị trấn này, trong ngôi nhà này,
ngôi nhà mà mãi cách đây mấy năm tôi mới trả xong nợ vay ngân hàng. Tôi vẫn sẽ
không vợ không con, không có bất cứ một mối tình nào, vẫn xoay xở để sống với số
tiền hưu ít ỏi vì đi làm chưa đủ số năm để lãnh trọn lương hưu, luôn luôn phải
tính toán cẩn thận các khoản chi tiêu hàng tháng, mua thực phẩm offer,
mua đồ dùng giảm giá. Không rượu, không thuốc lá, không gái, không những cuộc
phiêu lưu tình ái một đêm dưới bất kỳ hình thức nào. Không phải vì lý do đạo đức
mà vì không có dư tiền và quá nhát lười để có thể nỗ lực thay đổi bất cứ điều
gì. Mark, một trong những người bạn hiếm hoi của tôi thường hối thúc tôi tìm bạn
qua những trang web hẹn hò. Một dạo liều mình tôi cũng thử nhưng rồi bỏ cuộc.
Chẳng đi đến đâu. Phụ nữ Việt hiếm khi sử dụng những trang web như vậy, còn phụ
nữ Tây phương không bao giờ để mắt đến một thằng đàn ông Á Đông tầm thường về mọi
mặt và không có nhiều tiền như tôi. Tôi cũng lười cải thiện mức thu nhập khiêm
tốn của mình. Người Việt ở đâu cũng hay share phòng cho thuê,
xây nhà cho thuê. Một hình thức kiếm tiền nhẹ nhàng nhất. Nhưng dù nhà còn dư một
phòng ngủ, tôi không thích ở chung với bất cứ ai. Khéo tính toán thì cũng đủ,
tôi đâu phải nuôi ai. Và khi có thể biết trước cuộc đời mình như đọc sợi chỉ
trong lòng bàn tay thì có gì phải hy vọng, mơ ước hay băn khoăn? Còn tiếc nuối,
có ích gì. Cái gì đã qua là qua.
Nhưng tại sao hôm nay trong giấc mơ tôi lại nghĩ đến cả ba
người, chẳng liên quan gì đến nhau? Có lẽ vì dù cố xua đuổi mọi ý nghĩ, mọi cảm
giác tiêu cực, tận sâu trong đáy lòng tôi vẫn hối hận, ray rứt với mẹ tôi, với
Thu Cúc và… cả với bà cụ hàng xóm không quen. Với mẹ, tôi hối hận vì chưa bao
giờ thân thiết, chưa bao giờ nói hay biểu lộ những cử chỉ tình cảm với bà.
Không phải vì tôi ghét mẹ tôi. Chỉ là vì con người tôi như thế, không biết bày
tỏ tình cảm ra sao. Ngược lại mẹ tôi cũng thuộc loại người không hay chia sẻ những
suy nghĩ, cảm xúc, nhất là chuyện riêng tư. Mẹ tôi, một đời không may mắn, một
đời cô đơn, dù khi tôi còn trẻ hay trong gần mười năm cuối cùng của bà, bà sống
bên cạnh tôi.
Tôi chưa bao giờ biết ba mình là ai. Mẹ tôi không kể và tôi
cũng không hề hỏi. Tôi cũng không biết ba của Quỳnh, em gái tôi là ai. Nhưng chắc
chắn không phải cùng một người cha với tôi. Quỳnh xinh như thiên thần nhưng xấu
số, chỉ sống được đến năm 5 tuổi thì mất sau cơn cảm cúm mấy ngày. Nếu trên đời
này tôi có thương ai thì đó là em gái tôi, con búp bê xinh xắn, thiên thần gãy
cánh của tôi. Tôi biết mẹ tôi cũng thương Quỳnh, hơn thương tôi. Và từ sau cái
chết của Quỳnh, mẹ tôi càng khép chặt lòng mình, sống lặng lẽ, nhẫn nhịn, như
thể một cái gì đó đã tắt trong lòng bà, như thể cho qua một kiếp người. Tôi hiếm
khi thấy mẹ cười hơn, cho dù cái cười của bà chả bao giờ thực sự vui. Rồi bà từ
bỏ thế giới này, cũng nhẹ như không.
Khi mẹ bị đột quỵ, tôi không có nhà. Và từ lúc người ta đưa
bà vào bệnh viện cho tới khi bà ra đi mấy ngày sau, bà không hề tỉnh lại. Không
kịp nói câu gì.
Với Thu Cúc lại càng là nỗi dày vò. Thu Cúc là người con gái
duy nhất tôi từng thân thiết, hơn mức tình bạn, từng thầm yêu. Và Thu Cúc chắc
chắn cũng có tình cảm với tôi. Nhưng có cái gì cứ ngăn cản tôi mở lời yêu. Cho
đến khi em không chờ được nữa và đi lấy chồng xa. Một người chồng ở tận xứ Phần
Lan xa xôi lạnh giá. Rồi tôi cũng rời Việt Nam vài năm sau đó. Chúng tôi đi
theo hai con đường riêng, chẳng bao giờ gặp lại.
Mười năm qua đi như một chớp mắt. Khi tình cờ được tin em
thì em đã qua đời. Em cũng như bé Quỳnh của tôi, không ở lại lâu với thế giới
này. Mười năm khi tôi còn chật vật ngược xuôi mưu sinh ở xứ người, cố quên hết
mọi thứ của quá khứ, thì em đã kịp trải qua một cuộc hôn nhân ngắn ngủi và thất
bại, một đứa con gái ra đời, rồi những cuộc tình khác, thêm một đứa con trai nữa.
Em đi làm, vất vả vừa nuôi con vừa chăm hai con. Mà thể trang em thì ốm yếu. Rồi
một ngày em ngất xỉu tại nơi làm việc, được đưa vào cấp cứu nhưng nhanh chóng
rơi vào hôn mê và qua đời mươi ngày sau đó. Đám tang lặng lẽ chỉ có vài người,
trong đó có người mẹ từ Việt Nam gom góp tiền bay sang để đưa tro cốt con gái về
nước. Người chồng cũ nhận nuôi cả hai đứa con. Vì mẹ em không đủ điều kiện tài
chánh. Khi nghe mẹ em kể lại tất cả những điều này qua điện thoại, tôi cứ dằn vặt
nghĩ sao mình không thổ lộ với Thu Cúc, và dù có email của em, có số điện thoại
của mẹ em, vì sao trước đó tôi không bao giờ gọi để hỏi thăm về em. Cái gì cũng
trễ tràng. Tôi chỉ còn sống nốt đời này cho qua một kiếp người, như cách mà mẹ
tôi đã sống. Và hy vọng sẽ từ bỏ thế giới này, nhẹ tênh, như cách mà bà đã ra
đi.
Những suy nghĩ buồn rầu khiến tâm trạng tôi u ám, nặng nề.
Tôi lắc mạnh đầu, nói thật to: – Bỏ đi. Cái gì đã qua là qua.
Tôi đi vào toilet, rửa mặt, tiếp tục lắc mạnh đầu, lặp đi lặp
lại thêm nhiều lần câu nói trên như bùa chú, cho đến khi những cảm xúc xao động
bị đẩy lùi, bị nhốt chặt vào một góc kín nào đó và tôi chỉ còn tập trung suy
nghĩ đến buổi chiều nay sẽ ăn món gì.
Khi đi ngang qua cửa sổ trên lầu, tôi nhìn xuống sân và thấy
cái xe hơi của nhà hàng xóm không còn đậu ở bên ngoài nữa mà đã đậu trong sân.
Như vậy có nghĩa là đã có điện trở lại. Tôi mừng rỡ chạy vội xuống nhà, bật đèn
bàn, mở laptop. Đúng là đã có điện, có internet. Định đọc tiếp tin tức thế giới,
nhưng thấy nặng đầu, tôi quyết định chọn một cái phim hình sự để giải trí.
Cuộc đời lại trở lại bình thường. Gã lại tiếp tục sống.
