Ngày 30 tháng 4 là ngày tang thương và đau buồn nhất của dân
chúng miền Nam Việt Nam. Gia đình nào cũng gặp phải ít nhiều sự bất hạnh xảy đến
sau ngày mất nước. Sau cuộc đổi đời, hàng triệu gia đình phải sống trong sự
chia ly cũng như hứng chịu nhiều đau khổ.
Những tan tác đó thật quá đau lòng. Hậu quả của chúng còn
kéo dài cho đến tận mãi hôm nay và không biết bao giờ mới chấm dứt.
*
Đại úy bộ binh Nguyễn văn Thành sau khi tung hoành trên khắp
bốn vùng chiến thuật để bảo vệ đất nước phải bị vào tù sau tháng Tư năm 1975
như bao nhiêu quân dân cán chính của miền Nam. Vì là sĩ quan VNCH, ông Thành bị
đi tù ròng rã 6 năm trời. Lúc ông trở về năm 1981 với tấm thân tàn tạ thì hai vợ
chồng ông cùng đàn con phải sống trong sự đói khát vì thiếu thốn mọi thứ. Xót
xa vì thấy vợ con mình lam lũ nên ông phụ vợ bằng cách đạp xích lô để kiếm thêm
tiền.
Trước 1975 vợ ông Thành là cô giáo dạy Văn bậc đệ nhị cấp
trường Nguyễn Bá Tòng ở Sàigòn. Lương hai vợ chồng vừa đủ chi dùng cho gia đình
với sáu đứa con. Nhưng sau ngày mất nước thì cô Hằng vợ ông không được chế độ mới
tin dùng vì có chồng là sĩ quan đang bị cầm tù. Cô Hằng phải bôn ba ngoài chợ
trời thuốc tây để kiếm tiền nuôi con và tiếp tế cho chồng bị tù ở ngoài Bắc.
Thân phận của người phụ nữ VN lúc nào cũng khổ, nhưng khổ nhất là sau ngày mất
nước 1975, đúng như lời diễn tả trong bản nhạc Cái Cò của Nhạc Sỹ Nguyệt Ánh.
“Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con
Thương em lội suối trèo non vùng kinh tế mới nuôi con thay
chồng
Triền dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia
ly
Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang.
Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường, giá rét lạnh
căm
Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi
nào…”
Mỗi lần ông Thành nghĩ đến vợ, nước mắt ông lại ràn rụa. Ông
rất xúc động và thầm cảm ơn người vợ đã hy sinh tuổi xuân của mình để thay ông
gánh vác gia đình và dạy dỗ con cái.
Đầu năm 1991, lẽ ra gia đình ông Thành đi Mỹ theo đợt HO5 và
định cư tại San Jose như những bạn bè khác của ông. Nhưng ông Thành đã không
đem được cả gia đình đi Mỹ vì ông ghép hồ sơ của mình với gia đình một người
đàn bà có bốn đứa con để đổi lấy mười lượng vàng năm 1989. Lòng ông đau như cắt
khi phải bỏ vợ con mình lại ở VN nhưng ông nghĩ cần có tiền đút lót để thủ tục
được trôi chảy. Ông chịu đi Mỹ một mình vì nghĩ rằng ông cần một số tiền để lại
cho vợ con sinh sống lúc ông làm lại cuộc đời trên xứ Mỹ. Sau đó, khi ông rành
đường đi nước bước, gia đình ông sẽ tìm cơ hội đoàn tụ với nhau.
Một thời gian sau khi đến Mỹ, ông mới cảm thấy hối tiếc vì
quyết định sai lầm của mình. Giờ đây thì ông không còn gì hết vì người vợ mà
ông hằng yêu quý đã mất khi ông định cư ở Mỹ chưa đầy một năm. Vợ ông mất vì kiệt
sức sau bao năm làm lụng cực khổ để lo cho con và thăm chồng trong tù. Vợ ông bị
thiếu dinh dưỡng vì thường xuyên phải nhịn đói nhường thức ăn cho chồng con. Sự
hy sinh của bà thật là cao cả vì bà chỉ nghĩ đến gia đình mà quên đi bản thân
mình.
Năm đứa con còn lại của ông vẫn còn ở VN chỉ trừ đứa con
trai đầu mà ông vẫn để tên trong hồ sơ khi làm giấy tờ đi Mỹ. Nhưng vào giờ
chót, Tuấn, con trai ông đã đổi ý không muốn đi Mỹ. Tuấn ở lại VN vì không muốn
xa người bạn gái và Mẹ cùng các em của nó.
Sau khi định cư ở Mỹ, ông Thành phải làm đủ mọi thứ nghề
khác nhau từ cắt cỏ, điện tử đến quét dọn trong hãng xưởng để nuôi thân cũng
như để có tiền gởi về giúp đỡ gia đình. Năm 1996 ông làm hồ sơ bảo lãnh cho gia
đình của Tuấn. Sao bao năm chờ đợi ông được tin là cả gia đình của Tuấn sẽ đến
phi trường San Francisco vào cuối tháng 10 năm 2002. Ông đã chuẩn bị thật chu
đáo, mướn một căn chung cư, sắm sửa đầy đủ vật dụng và thức ăn đầy ắp trong tủ
lạnh để chào đón con ông.
Ông tưởng là con ông sẽ vui mừng khi được đoàn tụ với Cha của
mình sau bao năm xa cách. Ngược lại ông được đáp lại bằng sự lạnh nhạt và xa
cách. Mọi háo hức và vui mừng đều tan biến đi khi con ông trả lời là gia đình
nó về ở bên Mẹ vợ mà không về ở với ông. Lúc đó ông phải quay đi chỗ khác để dấu
đi dòng lệ rơi trên má của mình. Nó làm ông hụt hẵng và thất vọng khi không
nghĩ đến công sức cùng sự lo lắng của ông bấy lâu nay.
Nhưng không hiểu tại sao ngay ngày hôm sau cả gia đình nó lại
quay về với ông. Có lẽ con ông đã nghe lời Mẹ vợ và không muốn ông buồn vì ông
đã vất vả chuẩn bị mọi thứ cho nó. Sau khi ổn định và đã quen với cuộc sống mới
một thời gian, nó thường nói với ông rằng nó không cần ông bảo lãnh cho nó. Nó
nói không có ông, Mẹ vợ nó cũng có thể bảo lãnh cho gia đình nó qua Mỹ. Lúc nào
nó cũng tỏ vẻ lạnh nhạt và coi ông không ra gì. Mặc dầu ở chung một nhà nhưng cứ
hễ gặp mặt ông là nó đi ra đi vào đá cái này đánh cái kia, nói xa nói gần, chì
chiết ông như kẻ thù. Vợ nó đối xử với ông tương đối đỡ hơn mặc dầu không vồn
vã nhưng cũng không tệ bạc bằng nó.
Có nhiều hôm ông bị cảm sốt không ai ngó ngàng tới. May là
con dâu ông biết ông bị bệnh và còn biết nghĩ tới ông nên mới nấu cho ông tô
cháo lót lòng. Những lúc đó ông chỉ biết nuốt vào những giọt lệ tràn ra từ khóe
mắt mình mà thôi. Từ đó trở đi ông ráng chịu đựng và sống cho qua những ngày
tháng cô đơn của mình.
Nhiều lúc ông buồn tủi lặng lẽ khóc trong bóng đêm và tự hỏi
mình có làm điều gì cho con mình phật lòng hay không mà tại sao nó lại oán hận
mình như vậy? Sau này Tuấn mới nói thẳng ra với ông là lúc trước tại vì ông ích
kỷ chỉ nghĩ đến ông mà đi Mỹ một mình và bỏ lại Mẹ và các anh em nó ở VN. Mẹ tụi
nó chết mà không có ông ở bên cạnh. Nó đâu có biết ông phải hy sinh để gia đình
ở lại để đổi lấy một số tiền dành cho gia đình sinh sống với niềm tin là sau
này có cơ hội thì cả nhà sẽ đoàn tụ sau.
Có lẽ vì không bằng lòng với cách giải thích ấy nên trong
lòng con trai ông lúc nào cũng oán hận ông. Nó cho là ông đã không làm tròn
trách nhiệm làm Cha cũng như nghĩa vụ làm chồng đối với Mẹ nó.
Sau bao năm phải nghe sự chì chiết và trách móc của Tuấn,
ông cảm thấy chán nản và muốn quay về lại VN sinh sống. Ông cảm thấy mình cô độc
ở Mỹ dẫu rằng ông vẫn còn người con trai ở đây. Người con trai ấy đã hắt hủi và
đối xử tệ bạc với ông làm ông cảm thấy không còn lý do gì để ở lại Mỹ nữa. Tuy
vậy, ông vẫn chưa dứt khoát được vì không muốn rời xa đất nước đã cưu mang mình
bấy lâu nay.
*
Không giống như ông Thành, nhiều gia đình phải chịu sự chia
ly vì những hoàn cảnh bất hạnh khác. Chẳng hạn như gia đình Thiếu Tá Chức.
Lúc mới qua Mỹ năm 85 thì Mẹ tôi cho địa chỉ và số điện thoại
để liên lạc với Chú Chức. Trước 1975 Chú là Thiếu Tá công binh phải xa nhà thường
xuyên mặc dầu vợ con vẫn ở Sàigòn. Sau ngày mất nước Chú phải ở tù 8 năm mới được
thả và mới định cư ở Nam Cali sau khi vượt biên đến được nước Mỹ trước tôi vài
tháng. Gia đình Chú rất nghèo nên gom góp lại chỉ đủ tiền lo cho Chú vượt biên
một mình. Trước 1975 vợ Chú ở nhà chăm sóc năm đứa con và mua bán hàng quân tiếp
vụ. Chú ấy có cô con gái đầu lòng tên Trang rất đẹp nhưng bị câm điếc từ nhỏ
như chị Ngọc của tôi. Chị hay đến chơi với chị tôi vì hai người là bạn thân học
cùng lớp tại trường dành cho người bị tàn tật ở Lái Thiêu.
Vì bận rộn trong cuộc sống mới nên tôi ít liên lạc với Chú.
Nhưng bỗng một hôm tôi nhận được tin Chú ra đi đột ngột vì kiệt sức khi phải
làm hai việc để có tiền gởi về giúp đỡ vợ con. Ra đi không có người thân bên cạnh
nên bạn đồng ngũ đã làm đám tang cho Chú cũng như thông báo cho vợ con của Chú ở
Sàigòn. Sau này tôi được biết do bạn Chú kể lại là sức khỏe của Chú lúc bấy giờ
rất kém. Nhất là sau khi đi tù về mà qua Mỹ phải làm hai ba việc để có tiền gởi
về cho vợ con ở VN. Phần nữa vì thương nhớ vợ con và không ai lo cơm nước cũng
như chăm sóc lúc đau yếu nên Chú đã ra đi sau khi ở Mỹ chưa tròn một năm.
Thảm cảnh này xảy ra rất nhiều bắt đầu từ giữa thập niên 70
cho đến thập niên 90. Nhiều gia đình phải phân tán mỗi người đi một ngã. Họ đã
phải bất chấp sinh mạng của mình để đánh đổi lấy sự tự do bằng cách đi vượt
biên bằng đường bộ hay đường biển.
Hành trình đi tìm tự do của những người dân Việt rất nhiều
gian khổ. Trong số đó có những người lính trở về sau khi bị tù đầy và hành hạ
thể xác trong những trại giam nghiệt ngã. Thiếu Tá Chức may mắn đến được nước Mỹ
trong khi bạn bè ông có người vì kiệt sức mà chết trong tù. Họ chết vì bị bắt
buộc phải lao động cực nhọc trong lúc bị những cơn đói và bệnh tật hành hạ. Vì
thế có nhiều thảm cảnh đau lòng xảy ra như Cha Mẹ thì mất con, người vợ trở
thành góa phụ và con thì mồ côi cha. Có người chưa chết trong tù nhưng cuối
cùng họ đã ngã gục trên miền đất tự do như Thiếu Tá Chức. Họ hy vọng có thể
mang lại một tương lai tươi sáng cho vợ con khi đặt chân đến Mỹ một mình. Nhưng
cuối cùng họ đã không còn hơi sức để làm việc và thực hiện mơ ước của họ. Vợ
con họ một lần nữa phải đau buồn và tức tưởi vì sự chia ly lần thứ hai. Lần thứ
nhất đi vượt biên đồng nghĩa với việc có thể bỏ xác trên biển cả mênh mông
không có ngày gặp lại. Lần ra đi này thì vợ con càng đau khổ hơn vì biết là người
thân của mình đã ra đi vĩnh viễn. Chắc là vợ con Thiếu Tá Chức đã khóc hết nước
mắt sau khi nghe tin người Cha, người chồng phải kiệt sức mà chết vì lo nghĩ đến
vợ con ở quê nhà.
Xin gởi một nén hương với lòng kính trọng dành cho Thiếu Tá
Chức vì đã lo lắng cho vợ con đến hơi thở cuối cùng sau bao nghiệt ngã của cuộc
đời. Đồng thời cũng dâng lên một nén hương cho những quân dân cán chính VNCH đã
mất trong lao tù cộng sản.
*
Nỗi đau của những người Cha, người Mẹ khi bị con cái mình hắt
hủi và đối xử tệ bạc thì xảy ra rất nhiều cho cộng đồng VN ở Mỹ. Nhưng thiết tưởng
trường hợp như ông Thành cũng là một bài học cho những ai đã không nghĩ đến hậu
quả của nó khi phải quyết định chuyện hệ trọng cho gia đình.
Dù sao, phận làm con thì phải biết ơn Cha Mẹ đã sinh ra mình
và nuôi dưỡng tới ngày khôn lớn. Đồng thời con cái phải biết trân quý những sự
hy sinh lớn lao mà bậc Cha Mẹ đã dành cho họ. Những ai đã có gia đình và con
cái thì chắc sẽ thấu hiểu nỗi đau của Cha Mẹ khi bị con cái mình hắt hủi như thế
nào. Ngoài đạo làm con còn có tình người với nhau. Chẳng lẽ Cha Mẹ sanh mình ra
mà mình coi như kẻ thù hay người dưng? Mong rằng những ai còn Cha Mẹ hãy biết
quý trọng những giờ khắc này nếu không mai sau có hối hận thì không còn kịp nữa
vì lúc đó không còn Cha Mẹ để mà hầu chuyện chứ đừng nói chi đến là trả hiếu.
Tôi hy vọng con trai của ông Thành nhìn lại mà biết kính trọng
người đã sinh thành ra mình dẫu cho Cha mình có thể làm những điều không hay
trong quá khứ. Trong cuộc đời ai cũng có lúc lầm lỗi. Mặc dầu không ở bên cạnh
lúc vợ mình lâm chung nhưng ông Thành lúc nào cũng thương nhớ đến người vợ đầu ấp
tay gối của mình.
“Dù đã lỡ bước đến chốn nơi nào
Dù cho mây đen bao kín bầu trời
Con yêu ơi, con yêu hãy quay về đây
…Hãy quay về nhìn lại mình
Nhìn lại dòng sông, và dòng tóc biển xưa”
Bản nhạc "Con Yêu" này nguyên thủy tên là Anak
(Child) được sáng tác và trình bày bởi Nhạc Sỹ người Philippines, Freddie
Aguilar. Bài hát này được mọi người trên thế giới yêu mến và được dịch ra 26 thứ
tiếng. Tôi ước rằng anh Tuấn nghe được bài hát này và đối xử với Cha mình tốt
hơn.
Viết đến đây làm tôi tưởng nhớ đến Mẹ tôi đã lặn lội từ VN
qua Mỹ thăm tôi năm 2000 và tiện thể dự đám cưới của thằng con út. Mẹ tôi đã
khóc sướt mướt khi hay tin tôi bị bắt vì tội vượt biên năm 1979. Bà đã bị gẫy
tay trong một lần đi thăm nuôi tôi trong trại tù ở Đồng Phú. Mặc dù rất đau đớn
nhưng bà vẫn cắn răng chịu đựng để gánh đồ thăm nuôi vào trại cho tôi dẫu rằng
không gặp được mặt con mình vì phải trở về đi cấp cứu ở bệnh viện. Thật là tình
Mẹ bao la như biển Thái Bình. Mẹ tôi lúc nào cũng lo lắng và hy sinh cho con
cái. Vì thế tôi viết lên bài thơ dưới đây để nhớ đến người Mẹ yêu quý của mình.
Mẹ
Mẹ từ muôn dặm xa xăm
Tuổi già sức yếu qua thăm bên này
Bài thơ con tặng Mẹ đây
Làm sao kể hết ân dầy tình sâu?
Dù con tóc đã phai màu
Công ơn trời bể dễ đâu đáp đền!
Con hằng mong được kề bên
Sớm hôm chăm sóc Mẹ hiền yêu thương
"Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau"
Vì con, Mẹ đã khổ đau
Vì con, Mẹ đã âu sầu lắm phen!
Thành tài, con chẳng hề quên
Mẹ Cha nuôi dạy lớn lên, nên người
Bao năm phấn đấu với đời
Bên tai luôn nhớ những lời khuyên răn
Mẹ ơi, thương Mẹ vô ngần
Con mong sao được ở gần Mẹ luôn
Đầm đìa giọt lệ trào tuôn
Trời cao đất rộng con còn Mẹ đây
Làm thơ tặng Mẹ hôm nay
Con như sống lại những ngày còn thơ
Cuộc đời còn đẹp như mơ...
Trần Đình Đức