Tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức
Tôi sinh ra ở Sài Gòn, nơi vẫn được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông. Chỉ
tiếc có điều là ngay tại chỗ tôi mở mắt chào đời (Xóm Chiếu, Khánh
Hội) thì lại không được danh giá hay ngọc ngà gì cho lắm. Đây thường là nơi
ngụ cư của những tay anh chị, những cô gái ăn sương, những đứa trẻ bụi đời,
những phu phen bốc vác ở kho Năm, hay đám “đào kép cải lương say tứ chiếng” –
theo như lời của nhà thơ Cao Đông Khánh:
sàigòn, chợ lớn như mưa chớp
nát cả trùng dương một khắc thôi
chim én bay ngang về xóm chiếu
hỡi ơi con bạn hàng xuôi ngược
trái cây quốc cấm giấu trong lòng
hỏi thăm cho biết đường ra biển
nước lớn khi nào tới cửa sông
sàigòn khánh hội gió trai lơ
khi ấy còn tơ gái núi về
đào kép cải lương say tứ chiếng
ngã tư quốc tế đứng xàng xê
Dù “xàng xê” và “cải lương” tới bến nhưng khi “cách mạng về” là
dân Khánh Hội đều “hết say tứ chiến” cấp kỳ. Tui, tất nhiên, cũng
tỉnh táo liền. Tỉnh rồi mới bắt đầu hớt hải “hỏi thăm cho
biết đường ra biển,” và cuống quýt đâm xầm vào giữa đại dương, bỏ lại
S.G – như cắn răng cắt bỏ một phần thân thể của chính mình.
Tuy thoát thân nhưng không ít đêm, những đêm khó ngủ, tôi vẫn lò dò
trở về chốn cũ. Có khi, tôi đứng ngẩn ngơ nhìn chiếc bong bóng vừa
mua đã (lỡ) tuột khỏi tay – lơ lửng bay giữa những hàng cây, vào một
buổi chiều Sài Gòn vừa tắt nắng – mà muốn ứa nước mắt vì tiếc và
buồn.
Cũng có khi tôi ngồi trước một xe bán bò viên, chăm chăm nhìn thùng
nước lèo vừa mở nắp, và tưởng chừng như không gian (của cả Sài Gòn hoa
lệ) bỗng ngạt ngào hương vị. Chút nước thánh này – sau khi đã nhai
thiệt chậm miếng thịt pha gân vừa ròn, vừa ngậy – hoà nhẹ với chút xíu tương
đỏ, tương đen, cùng ớt xa tế ngọt ngọt cay cay làm cho thằng bé xuýt xoa …
cho đến lúc cuối đời.
Nhiều khi, tôi ngồi chò hỏ trước nhà (mặt buồn thiu) vì không được
bố mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay năm cắc hay tờ giấy bạc một đồng – như
thường lệ. Chỉ cần năm cắc thôi là đủ khiến chú Chệt vội vã ngừng xe, mở
ngay nắp bình móp, lấy miếng kem đầy đặn – xắn một phần vuông vắn, cắm phập
vào que tre – trịnh trọng trao hàng với nụ cười hiền lành và tươi tắn. Cắn
một miếng ngập răng, đậu xanh ngọt bùi, thấm lạnh dần qua miệng lưỡi, rồi
tan từ từ… suốt cả thời thơ ấu.
Năm cắc là giá của nửa ổ bánh mì tai heo, nửa má xoài tượng, một xâu tầm ruột
ướp nước đường, một cuốn bò bía, một trái bắp vườn, một ly đậu xanh đậu đỏ bánh
lọt, một dĩa gỏi đu đủ bò khô, một khúc mía hấp, năm cái bánh bò nước dừa xanh
đỏ, hay mười viên cái bi ròn ròn cái bi ngon ngon nho nhỏ…
Một một đồng thì (ôi thôi) là cả bầu một trời, và một thời, hạnh phúc! Một
đồng mới mua được quả bóng bay. Chiều Sài Gòn mà không có bong bóng (cầm tay)
để tung tăng e sẽ là một buổi chiều… tẻ nhạt. Những chùm bóng đủ mầu sẽ rực rỡ
hơn khi phố đã lên đèn, và sẽ rực rỡ mãi trong trong ký ức của một kẻ tha
hương – cho mãi đến khi tóc đã điểm sương.
Dù một trời, và một thời, hạnh phúc xa xưa đã vuột khỏi tay – như quả
bóng bay, không may, chiều nào, vào thưở ấu thời – tôi vẫn “sẵn sàng”
nổi nóng nếu ai vô ý đặt chân đến cái phần thiên đường đã mất của
mình.
Lê Diễn Đức (giữa). Ảnh: Nguyễn Công Bằng
Có bữa, bên bàn nhậu, Lê Diễn Đức bỗng nói khơi khơi:
– Tôi là dân Sài Gòn mà.
Tôi trợn trừng mắt:
– Đừng có nói giỡn cha!
– Thiệt mà, tôi sống ở Sài Gòn gần hai chục năm chớ đâu phải ít.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra là mình đã bỏ đi từ quá lâu rồi,
còn tư cách gì để mà giữ S.G (mãi mãi) nữa nên đành xuôi xị:
– Bộ lâu dữ vậy sao?
Sau Lê Diễn Đức, tôi còn biết thêm nhiều nhân vật khác, cũng đã
chọn S.G làm quê hương chỉ vì nó quá … dễ thương – theo mắt nhìn của
họ:
– Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh: “Một đêm, chạy xe máy về nhà
(ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt
thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với
chiếc xích lô trống không.
Quê quá, phải dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như
Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm có 4 chú
cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác thích thú để quan
sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách nhường ghế cho
nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm nay, trên xe bus
Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành “Nội quy”). Lơ xe lăng
xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên mui, đeo bên thành xe la
nhắc người dưới đường cẩn thận.”
Nguyễn Hữu Vinh. Ảnh: ma-tu-an.blogspot
– Nguyễn Quang Lập: “Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976,
tôi mới được vào Sài Gòn…Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước
xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà
bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi
ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều
mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả
tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời.
Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các
mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi
chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe
một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều
không tưởng, thậm chí là phi lí…
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng
là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám
uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá
pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính.
Nguyễn Quang Lập. Biếm hoạ: Babui
Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và
phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy
tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô
là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương
nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.”
Tôi cũng “sửng sốt” không kém khi nhìn thấy bức hình của một người
S.G (nữa) giữa phố Nguyễn Huệ – vào chiều chủ nhật, 15 tháng 5 năm
2016 vừa qua – trên trang RFA:
Bức ảnh người đàn ông toạ kháng một mình trên phố đi bộ Nguyễn Huệ chiều
15 tháng 5 được chụp bởi một người chơi ảnh tên Bùi Dzũ nhanh chóng được lan
truyền rộng rãi trên các trang mạng xã hội. Không lâu sau đó, cư dân mạng biết
tìm ra đó chính là nhà báo/blogger Huỳnh Ngọc Chênh, người đã phát động phong
trào toạ kháng để đòi sự minh bạch về thảm hoạ môi trường. Tấm ảnh được chính
người chụp gọi tên là “Người đàn ông cô đơn”.
Ảnh: Bùi Dzũ
Tôi không biết rõ Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Quang Lập, Huỳnh Ngọc
Chênh … nguyên quán nơi đâu nhưng biết chắc là họ đã sống hết lòng
(qua từng hơi thở, từng dòng chữ, từng bước chân) để cố giữ lại
được cho S.G – phần nào – nhân phẩm và đạo lý.
Bao giờ mà ở những góc đường vẫn có những bình trà đá, những
thùng bánh mì, những quán cơm, những nơi vá xe (miễn phí) và bao giờ
mà vẫn còn qúi vị thức giả sẵn sàng đối diện với cường quyền thì
S.G vẫn chưa thể mất. Tôi không mất S.G đâu nhưng thành phố này đã mất
tôi, và mất tự lâu rồi. Cái thứ đồ bỏ chạy (mất dép) trong cơn quốc
biến, và cúi mặt đi luôn như tôi thì dù có mất luôn (phỏng) có gì
đáng để bận tâm.
Tưởng Năng Tiến