Lời dẫn: Tập
tuyện "Ngày tháng buồn hiu" của Ngọc Ánh hiện đang được chúng tôi giới
thiệu với quý vị qua đề mục 'Truyện nhiều kỳ' trên trang blog Góc
Sân Chơi. Chúng ta sẽ cùng tác giả đi trở lại những khoảng thời gian
khó khăn đầy tuyệt vọng trong quá khứ để giúp chúng ta bước hy vọng mãnh
liệt về tương lai tươi sáng trước mặt. Kinh nghiệm của tác giả chính là
chất liệu chúng tôi muốn gửi đến quý vị để chúng ta cùng bước qua 'ngày tháng buồn hiu' và nhìn lại nó với lòng can đảm và tự hào. Mời quý vị.
NỖI XÓT XA RIÊNG
Tôi và nó bà con với nhau, nó con nhà cậu, còn tôi nhà cô,
hai đứa xuýt xoát vài ba tuổi nên chơi
thân từ nhỏ, mỗi lần nghỉ
hè thì nó theo “mợ Năm” về thăm quê,
ngang chợ Sóc Trăng, mợ luôn ngủ
lại một đêm với tôi lấy cớ đường xa nghỉ mệt, và lần nào vô mùng mợ cũng ôm tôi muốn ngộp thở, tôi nghĩ là
mợ thương cháu gái vậy thôi. Sóc Trăng của tôi chẳng có gì để khoe với nó ngoài
cảnh đẹp ở “hồ nước ngọt” nên tôi rủ
nó lội bộ ra đó đi thơ thẩn rồi về ngang cầu Bon tôi đãi nó ly sâm bổ lượng, lần
nào nó cũng ăn lẹ để “lấn” qua nửa ly
còn lại của tôi…Rồi hôm sau mợ xin Má tôi dẫn luôn hai đứa vô Xẻo Gừa chơi, vì
là “dân chợ” nên bọn tôi thấy cảnh
quê cái gì cũng lạ nên thích lắm khi theo mấy đứa hàng xóm lội ruộng bắt cá lia
thia đá chơi hay bứt cọng năng ăn cái lõi trắng dòn dòn…
Lâu lâu thì Má tôi dẫn lên Sàigòn thăm bà con, nhà ai cũng
nghèo chỉ có cậu Tám làm ăn
khấm khá nhờ có cái xe lam chở hàng bông đi bán dạo. Nghỉ hè cậu chở hết cả bầy con cháu ra “Cấp”
chơi, khỏi nói là đứa nào cũng náo nức để được giởn sóng biển xanh, đối với bọn
tôi thời đó đi Vũng Tàu là một mơ ước xa xỉ.
Cứ thế mỗi mùa Hè là dịp để bà con gặp nhau, tôi lên Sài gòn
nhiều hơn là nó xuống Sóc Trăng, hai đứa đi lang thang từ chợ cá Trần Quốc Toản đến cầu Khánh Hội để chơi với đám con cậu Tám, cậu Mười, nó lớn
một chút nên cuối tuần theo cậu năm phụ hồ, để dành tiền bao tôi ăn bò bía ở “hồ con rùa”, ngược lại tôi cũng để dành
tiền ăn sáng để mua báo “Tuổi hoa” cho nó coi mệt nghĩ. Hai đứa bàn luận chuyện
trời trăng coi mòi tâm đắc lắm, mà lạ, nó luôn tâm phục khẩu phục tôi trên bất
cứ vấn đề nào. Có lẽ tuổi tôi hơn nó, học giỏi hơn nó hay vì tôi là người con gái duy nhất biết chia xẻ với
nó những tâm tình của thời mới lớn mà nó tin cậy được. Không chắc là tôi “thông thái” gì ở tuổi ăn chưa no lo
chưa tới, nhưng tôi siêng đọc sách và biết lỏm bỏm nhiều chuyện hơn nó. Con gái
bao giờ cũng lanh hơn con trai ở lứa tuổi này.
Tháng 4/75 tôi lên Sàigòn trước khi bãi trường vì bà Ngoại
tôi đau nặng… Cả thành phố lúc đó như muốn vở tung qua những bản tin chiến sự
hàng ngày, nhưng tôi và nó thì vô tư trước thời cuộc, cái thờ ơ của người ngoài
lề khi nghĩ đến chiến tranh đang xảy ra ở đâu đó xa xôi không dính tới phố thị
của mình. Thật tình tôi không có khái niệm gì về chủ nghĩa Cộng sản, về sự
chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, về cái đúng sai của chế độ mà tôi đang sống.
Tôi hoàn toàn mù mịt đến ngu ngốc, thiên đường ngông nghênh của tôi là trường học,
bạn bè và những bướm hoa lãng
mạn… Tôi sẽ buồn nếu ngày mai mình không đến lớp được nhưng không biết rằng từng
giây hiện tại có bao người đã ngã xuống trong cuộc chiến kinh hoàng này để tôi
biết xót xa đau đớn…! Ôi, cái tôi vô tâm đáng trách.
Cả nhà “cậu mợ”
tôi bình thản chờ đợi, “Cậu năm” tôi
nói “sẽ có Hòa bình, mọi người sẽ no cơm ấm
áo”. Tôi và nó đều ngơ ngác nai vàng...
Ngày 28/4/75 Tôi và nó đi vòng vo quanh khu chợ xem người ta
“di tản”. Thiên hạ ùn ùn kéo nhau đi
đâu không biết, xe cộ ngoài đường hối hả phóng nhanh, tiệm giặt ủi ở đầu hẻm bỗng
nhiên liệng ra đường từng xấp quần áo kaki còn thẳng nếp hồ, ai cũng lo lắng
khi chứa trong nhà những quân trang quân dụng của lính… Tôi và nó lượm được hai
bộ đồ bay, áo dính liền quần với nhiều túi có dây kéo, để dành mặc ngũ ngoài
sân gác, trùm kín mít thay mền. Nó cũng thú vị khi ôm về một thùng giấy trắng để
dành đóng tập học, còn tôi thì nghĩ đến việc để dành quay roneo mấy cuốn đặc
san cho lớp... Vậy đó, tôi quanh quẩn dưới đáy giếng của mình, hồn nhiên như
rong rêu, củi mục lềnh bềnh trên nước đọng, ngu
ngốc dại khờ.
Tàn cuộc chiến, hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy Sàigòn bỗng chốc hoang vắng tha ma, màu
cờ đỏ rợp trời như cỗ áo quan chói chang nhức mắt. Ngoại bớt bệnh và tôi trở về phố
nhỏ của mình trong một chuyến xe đêm khoắc khoải. Hình như có cái gì đó vừa tan vở trong tôi, sự thất vọng
hoài nghi về một tương lai mịt mờ phía trước, Sóc Trăng của tôi xơ xác như vừa
qua cơn bão dữ, Thầy trò đến
lớp bằng nỗi ngập ngừng dè dặt
trên mỗi bước chân quen, bạn bè nói đến tên một ông Thầy quay súng vào đồng
nghiệp kêu gọi đầu hàng và kéo cờ đỏ giữa sân trường sáng ngày 1/5/75 khiến mọi
người sửng sờ, chết điếng. Cuộc họp đầu tiên của trường Hoàng Diệu ở rạp hát Nguyễn Văn Kiển để nghe mấy ông Quân quản nói thánh nói tướng
về một thế hệ tuổi trẻ Hồ Chí Minh, nghe mà phát chán. Cả bọn tôi lẻn về
khi thầy Tráng đang kêu tên
tôi lên phát biểu gì đó như là “hồ hởi phấn
khởi cám ơn Đảng mới có ngày hôm nay..” Xin lỗi thầy, em không thể làm con
vẹt để nói những lời trâng
tráo đó, em chưa thấy “hoà hợp hòa giải”
với mấy tên “Kách mệnh” này đâu thầy ơi! Lần
đầu tiên tôi cảm nhận ra sự mất mát hụt hẩng của chính mình, tự dưng thấy như chới với.
Nhưng chuyện làm tôi bất ngờ sửng sốt nhất trong cuộc đổi đời
này khi biết được tôi và nó là chị em ruột… Má tôi chính là Cô sáu, em của “Cậu Năm” bà không có con gái nên mới
xin tôi về nuôi khi còn đỏ hỏn, làm khai sanh cho tôi lấy họ Trần của dượng, “Mợ Năm” nể chồng không dám cãi nên lâu lâu chỉ biết ôm tôi chặt
cứng trong mùng và tôi cũng hồn nhiên rúc vào lòng “mợ” tìm hơi ấm cho giấc ngũ thơ ngây. Hèn gì…
Trong khi tôi vùng vằng khóc hết nước mắt chia tay với Ba Má
tôi để về Sàigòn “đoàn tụ gia đình”
thì nó vui ra mặt lúc đón nhận
tin này, nó gọi tôi bằng “chị Tư” đầy thân thiện. Mấy ngày đầu thấy tôi mặt mày
ủ ê rầu rỉ tiếc nhớ về Sóc Trăng một thời yên ổn đã mất thì nó lăng xăng lấy xe
đạp rủ tôi đi uống sinh tố, chở tôi đi đây đó đở buồn. Khi chạy ngang trường Chu Văn An, nó than với
tôi là bạn bè của nó ngày càng vắng, không biết biến đi đâu. Tôi nói như hét “thì lên rừng đi Kinh tế mới hay xuống biển vượt biên chớ đâu”.
Không hiểu sao tôi lại bực dọc cau
có với nó. Chuyện giải phóng này đâu
phải lỗi của nó đâu?
Xã hội mới xếp gia đình tôi vào loại “lớp nghèo thành thị” nghĩa là thành phần nhân dân lao động không
dính dáng đến “ngụy quân ngụy quyền”
nên cho nó tham gia vào đội đoàn nòng cốt của Phường khóm. Nó đi họp ngày họp đêm về chánh sách mới của Xã hội chủ nghĩa, nó huênh hoang tự hào về lý tưởng, về chủ
nghĩa vô thần của Mác Lenin, người ta bơm thuốc trừ sâu vào cái đầu non nớt của
nó “nào là thế hệ HCM vinh quang, nào là tổ quốc nằm trong tay của tuổi trẻ
v.v và v.v” khiến nó tưởng mình là dũng sĩ khi hăm hở tình nguyện đi “nghĩa vụ quân sự” đợt đầu tiên. Ngày nó về khoe với tôi là được
kết nạp Đoàn, một danh dự cho thanh niên thời này, tôi chỉ cười lặng lẽ khi nhìn con ngựa non háo thắng, không chắc
là vẽ vang gì đâu nhóc ơi. Tôi chưa biết gì về Cộng sản nhưng tôi biết từ
ngày “giải phóng” đến giờ, miền Nam bỗng trở thành nghèo đói, nhà nhà
đều ăn bo bo, thực phẩm thuốc men cái gì cũng thiếu… Vậy mà no cơm ấm áo cái nỗi gì, Xã hội chủ nghĩa chỉ là viên thuốc độc
bọc đường bằng những danh từ hoa mỹ, lừa dối lòng dân thôi. Càng ngày nó như xa
dần tôi với bộn bề “công tác”, tôi mơ hồ nhận ra giữa chúng
tôi có một khoảng cách vô hình.
Câu chuyện bùng nổ khi tôi phát hiện ra cục phấn tròn vo
trên tay nó “Ở đâu em có cái này?”
nó cười khẩy “Em bẻ trong tượng Phật ra”. Tôi hét lên
như gặp ác quỷ, “Sao em lại làm việc điên
khùng vậy, bà Nội sẽ giận lắm nếu biết em đập bể tượng Phật của bà để làm phấn
viết bảng”. Nó nhởn nhơ trả treo: “Phật thánh gì, chỉ là thạch
cao thôi mà”. Thế là cuộc tranh luận xảy ra giữa hai đứa về tín ngưởng,
về tôn giáo về chủ thuyết vô thần của Cộng sản duy vật. Tôi giận nó từ đó..
Ngày nó lên đường đi bộ đội cũng là ngày tôi rời bỏ gia đình
để dấn thân vào nơi nguy hiểm, tham
gia trong một tổ chức chính trị. Nếu trước đây Ba và các chị tôi kháng chiến chống Mỹ thì bây giờ
đến lượt tôi “chống kháng
chiến chống Mỹ”. Tôi
viết cho nó lá thư ngắn nhưng đầy xúc cảm “Có thể hai đứa mình sẽ đứng
trên hai chiến tuyến đối đầu nhau, nhưng mãi mãi chị vẫn là chị của em nhóc à!”
Máu chảy ruột mềm, tôi nghĩ
mình sẽ không bao giờ bỏ rơi nó.
Mười hai
năm sau tôi trở về xơ xác trong bộ đồ tù rộng thùng thình. Nó đón tôi tươi cười
như hồi nào đón tôi mới lên Sàigòn “đoàn tụ gia đình”. Sự mất mát lần này
tuy nhỏ hơn lần trước, nhưng làm tôi đau âm ỉ cả đời. Năm 75 tôi mất nước vào tay Cộng Sản, còn bây giờ tôi mất cả thời thanh xuân trong “trại cải tạo”
với mức án dài, chồng tôi bị tử hình vì tội “phản động”...
Cho tới hôm nay nhắc
lại chuyện buồn này, tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình lúc đó. Trong
một cuộc chiến đấu, thua thắng là chuyện bình thường, chỉ có điều đau lòng là đứa
con trai duy nhất của chúng tôi, mới một tuổi phải theo mẹ sống đói khổ bệnh tật
suốt mấy năm trời trong trại giam, tới khi được một tổ chức quốc tế can thiệp đưa ra khỏi tù thì thằng
bé đã bị tật nguyền èo uột vì suy kiệt…
Còn nó bây giờ có vợ đẹp con khôn, cửa nhà êm ấm, việc làm ổn
định. Coi như trong cuộc sống, nó đang là người chiến thắng, còn tôi, tôi có cái tự hào của kẻ chiến bại. Nó bỏ ra một
đêm để kể lể cho tôi nghe nhiều điều về nó trong thời gian xa vắng, nhưng tôi
thì không, tôi im lặng trước những bất hạnh của mình. Tôi có cái kiêu hãnh
riêng tư, tuyệt nhiên không đứa nào đá động tới chuyện cũ, tới bức thư “hai đầu chiến tuyến” ngày trước. Mỗi người
đều có mục đích để hướng về phía trước. Nó cũng biết tánh tôi ngang tàng, gai
góc, cứ lầm lũi mà đi tới. Miền Nam mười mấy năm qua chắc nó cũng thấm đau khi
nhìn ra thực tế của cái gọi là Cộng
sản. Quả bóng lý tưởng của nó đang xẹp dần bầu nhiệt huyết. Tuy không
nói ra, nhưng chắc nó hiểu những điều tôi hiểu.
Bước đầu trở về tôi sống tạm nhờ người chị họ xa ở Bình Dương, nhà chị nghèo đông con,
ăn uống thiếu thốn, nó gởi tiền cho chị hàng tháng để lo cho tôi có nơi yên ổn.
Mỗi ngày tôi cố tìm việc làm, đọc báo thấy gần nhà nó có cần người giúp việc,
tôi vội vã đến. Chủ nhà còn rất trẻ, dân Bắc kỳ 75 đanh đá chanh chua, tôi cần tiền nên cũng dẹp tự ái để làm
con sen quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mới ngã lưng nằm. Nhiều lúc thấy tủi
thân nhưng tôi phải tập cho mình lòng kiên nhẫn. Một hôm con nhỏ chủ liệng cái
quần lót từ tầng 3 xuống thau đồ tôi đang ngồi giặt rồi cười hăng hắc vì “trúng mục
tiêu” khiến tôi nổi giận thật sự. Tôi chửi con chủ te tét rồi xách giỏ đi về,
không cần đòi món tiền lương hèn hạ của đứa khốn nạn. Đang đứng đón xe bus trở
lại Thủ Đức thì tôi gặp nó đi làm về, nó ngạc nhiên
khi thấy tôi lang thang ở đây, nó kéo tôi vào một tiệm gần đó để ăn và gặng hỏi
mãi, tôi ấm ức kể cho nó nghe mọi việc. Nó cũng bực bội không kém, đòi tôi chỉ
nhà để nó mắng con chủ thêm một trận nữa. Tôi nhìn nó tự dưng thấy nó vẫn y như “thằng nhóc” hồi nào, bênh chị và bảo vệ chị khi ở xóm có đứa nào
gây sự. Bây giờ thì khỏi cần nữa rồi nhóc à, “chị Tư” làm đại bàng mà, cả xóm nghe tôi tù mười mấy
năm, ai cũng ớn, có người không biết chuyện phán một câu “Con
mẹ đó tội gì mà dữ vậy, chắc cũng giết
người mới ra nông nổi!”. Nhớ hồi trong trại, cán bộ khai cung gằn giọng chỉ
vào mặt tôi “ Giết một người là bị tội tử hình rồi, còn chị
thì ghê gớm hơn, chị âm mưu giết cả chế độ, tội chị xử bắn hàng trăm lần cũng
chưa đáng”. Tôi nhớ lúc đó mình đã cười phá lên khi nhìn gương mặt “khẩn trương”
của hắn “Có thật là tôi nặng tội đến vậy sao?” Thật buồn cười những từ đao
to búa lớn của Cộng Sản nghe
sợ chết khiếp!
Sau lần đó nó năn nỉ tôi về ở với gia đình nó, nhưng tôi từ
chối... Mấy tên công an phường
lâu lâu kêu lên trình diện, hỏi han này nọ về lý lịch trích ngang, khiến tôi
ngán ngẫm. Ở không được thì đi, mà đi đâu bây giờ? Tôi không có một phân vàng lận
lưng thì nói gì đến chuyện tìm
đường vượt biển. Thời buổi
nhất thân nhì thế này dễ gì tìm một chổ làm ổn định… May nhờ mấy người bạn cũ
chỉ giúp, tôi xin vào làm công nhân cho một xưởng gỗ trên Bình Dương, ban ngày làm hai ca,
tối về học thêm một khóa hàm thụ, biết thêm chút chữ nghĩa cầu may. Nó mua cho
tôi một đống sách vở, ông Thầy cũ cho chiếc xe đạp, bạn bè có đứa đóng dùm tiền học. Tôi ạch
đụi chèo thuyền nước ngược mấy năm trời mới lấy được cái bằng “học đại”…
Nhân buổi tiệc liên
hoan của trường, tôi đứng lên kể về thành tích “cua rơ xe đạp” của tôi suốt mấy năm qua,
từ Bình Dương đạp về Quận Nhất sau giờ tan ca để kịp vào lớp học luyện thi, nhiều hôm trời mưa, xe cán đinh xẹp
bánh, tôi lết về nhà cũng đến nửa đêm. Tôi nhìn xuống cuối giảng đường thấy gương mặt nó hân hoan chia xẻ,
tôi đâu muốn rủ nó tới đây nhưng nó cũng tới để tự hào về gương vượt khó của “chị Tư”.
Tôi biết nó xót thương tôi, nhưng nhóc ơi chuyện
nhỏ thôi mà, giải quyết cơm no áo ấm cho dân chúng trong cái Xã hội chủ nghĩa của nhóc mới là chuyện
lớn, hãy ngồi vào phòng họp với mấy tay Đảng Ủy để nói thẳng với bọn họ rằng đừng
lếu láo mỵ dân nữa, người ta chán cái chế độ đầy sự giả trá bịp bợm này rồi.
Nói thì nói vậy, chớ tôi biết nó cũng chỉ là tên đảng viên quèn trong cái thời buổi bát
nháo lưu manh giả danh trí thức, mua bằng cấp giả, bán hàng hóa giả, xài tiền
giả, nhơn nghĩa giả… thì mong gì có một tiếng nói trung thực trong cái chung của
cả nước, để đánh động lương tri
những kẻ bán nước hại dân. Bạn bè của tôi cũng vậy thôi, danh vị đảng
viên như cái nhãn dán bên ngoài nồi cơm của những gia đình không có dính líu tới
chế độ cũ nên còn chút cơ hội để vươn lên trong cuộc sống bon chen này. Tôi biết
nó cũng mang trong lòng đầy ắp nỗi thất vọng, leo lưng cọp dễ gì leo xuống, nó
thừa hiểu nghĩa của cụm từ “thanh trừng nội bộ” là thế nào mà, nó chỉ là con mèo nhỏ trong cái
hang cọp đầy nguy hiểm, mơ ước bây giờ của nó là tiếp tục học lên
cao học, nó muốn ra nước ngoài...
Những năm
tháng mòn mỏi khoắc khoải, tôi vẫn chờ đợi cái gì đó xảy ra ở ngày mai, nhưng
giống như con đỉa sống dai
nhờ hút máu động vật, cái chế độ Cộng sản ác nghiệt hút máu đồng bào này vẫn
tồn tại nhởn nhơ mấy chục năm
nay, không biết bao giờ mới sụp đổ. Trong khi người dân đen sống dở chết dở
trong cái “xã hội ưu liệt” này để làm giàu cho bọn tư bản đỏ phè phởn hưởng
vinh hoa phú quý thì cuộc sống của nó,
nhân viên kế toán cho một
công ty nước ngoài không phải danh
giá gì nhưng trong thời buổi người ta thiếu nhiều thứ mà nó đủ ăn đủ mặc,
tiền bạc đủ xài là ấm quá rồi.
Tôi thì trôi nổi lên tận Thủ Đức, dành dụm mua được miếng đất cất nhà, tưởng sống yên thân,
ai dè nhằm khu giải tỏa, phường xã bẻ miếng đất ra dọc ra ngang gọi là lộ giới,
viện cớ đất mua giấy tay nên khó đền bù, tôi chỉ còn mỗi cái nền trơ trụi vừa đủ
cất mái nhà lá che nắng che
mưa cho hai mẹ con, (cũng nói thêm là ở tù về tôi bước thêm bước nữa, nhưng bị
đạp gai nên đau quá xin ly dị sau đó vài năm, tôi lời được đứa con gái 3 tuổi thỏ thẻ dễ
thương, đối với tôi đó cũng là cách giải quyết hợp lý nhất trong bước đường
lênh lênh của mình).
Cuối cùng thì
vận may cũng mỉm cười với tôi khi gặp lại người Thầy cũ sau mấy mươi
năm biền biệt, duyên phận gắn bó chúng tôi thành vợ chồng, anh là
người đàn ông rộng lượng mà tôi có thể tin cậy để tựa vào vai... Sau ngày cưới, anh
ấy quyết định mang hai mẹ con tôi rời khỏi đất nước có quá nhiều
bất trắc đau thương này. Quá khứ là điều đáng buồn, tôi cần phải ra
đi, cho dù biết mình như đang trốn chạy một sự thật, giống như
người lính trận buông
súng khi chiến trường còn nồng
mùi khói lửa, bỏ lại quê hương còn trăm nỗi nhọc nhằn.
Ngày tôi lên
máy bay, nó ra phi trường tiễn đưa bịn rịn, nó vẫn nắm bàn tay tôi
thân thiết như dạo nào, tôi thấy lòng rưng rưng thương cảm, có lẽ mình
cũng nên quên đi câu chuyện “hai đầu chiến tuyến” của thời chúng tôi còn trẻ, quên đi những
hận thù tủi nhục trong giai đoạn tù đày, quên những cái đáng quên và
nhớ những điều đáng nhớ trong suốt năm tháng đã qua...
Cánh cửa khép
lại, tôi quay lưng đi mà còn thấy dáng nó đứng đó nhìn theo, cái
bóng đổ dài gầy guộc cô đơn...
Sau đó vài năm
thì nghe tin nó mất vì bệnh ung thư, ngày tang lễ nó tôi không về
được cũng bùi ngùi trong bụng, nhưng tôi biết nó luôn quanh quẩn theo
tôi, trước kia nó mơ ước được du lịch sang Mỹ cho thỏa lòng thì bây
giờ với hồn vía nhẹ tênh, nó sẽ bay được qua đây, không hiểu sao tôi
lại hay tin những điều có vẻ như hoang tưởng như vậy, nhưng sự
thật nước Mỹ là thiên đường của
nó mà, “American dream” mà lúc sống nó không thể vói tới vì quá
muộn.
Ngọc Ánh