Tôi mở mắt và nghe mình nhỏ lệ // Những trận giặc kéo dài
qua nhiều năm // Nhân loại đau buồn kể lể
Thành phố bị chiếm tiêu điều // Làng mạc hắt hiu trong cơn điên cuồng lửa
đạn
Em là người hậu chiến hon hắt hủi bơ vơ ngoài phố // Thương bằng hữu bỗng biến
thành kẻ tội tù. (Mai Trung Tĩnh, “40 bài thơ”)
Không hiểu do cảm hứng nào mà Mai Trung Tĩnh làm ra những vần thơ tiên tri như
thế. Mai Trung Tĩnh tên thật là Nguyễn Thiệu Hùng, anh ruột của Nguyễn Thiện Tường,
bạn thân của tôi. Tôi hay lui tới gia đình Tường, nhất là những sáng chủ nhật.
Lúc đó ba của Hùng và Tường mất có lẽ đã lâu lắm rồi, mẹ Tường hay cho chúng
tôi tiền để đi ăn phở với nhau. Không biết bà cụ buôn bán gì nhưng gia đình
tương dối khá giả, bà cụ coi tôi gần như một đứa con của gia đình. Tường học đệ
nhị với tôi ở lớp Bình Dân Giáo Dục. Thực ra Tường có đủ điều kiện để đi học
bình thường như những người khác nhưng cũng ghi tên học Bình Dân Giáo Dục buổi
tối để học với tôi cho có bạn. Lúc đó, năm 1960, Hùng đã đậu xong tú tài đang học
Đại Học Văn Khoa, ngoài ra còn đi dạy Việt văn ở cấp trung học để kiếm thêm lợi
tức cho gia đình. Hùng thích Sartre, Gide và Camus, tuần nào cũng bỏ tiền ra
mua Paris Match vì thích nhưng bài bình luận chính trị của Raymond Cartier.
Khi viết câu: “Em là người hậu chiến hồn hắt hủi bơ vơ ngoài phố, thương bằng hữu
bỗng biến thành kẻ tội tù”, Hùng không ngờ câu đó lại ứng nghiệm cho mình tới
hai lần trong khoảng 15 năm. Tập thơ 40 bài thơ của Hùng làm chung với Lê Đức
Vượng (tức Vương Đức) được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc năm 1960. Mỗi người
hai mươi bài. Những câu thơ trên lấy từ bài Lịch sử của Hùng. Tôi còn nhớ, ngay
ngày cuốn sách in xong, Hùng ân cần tặng tôi một bản. Tôi thích bài Lịch sử và
nhớ cho tới bây giờ.
Tuy là giáo sư, nhưng như mọi người trong lứa tuổi, như các anh em tôi, Hùng
cũng thuộc “diện sĩ quan biệt phái”. Ai cũng “biết sĩ quan biệt phái” chỉ là một
cụm từ rỗng nghĩa, có mục đích để chính quyền Việt Nam Cộng Hòa có thể gọi nhập
ngũ trở lại một số người bất cứ lúc nào. Nhưng trên thực tế đó là những người
không có hay không còn, liên hệ gì tới quân đội. Bằng cớ là ngay trước lúc sắp
sụp đổ, chính quyền Sài Gòn cũng không gọi họ nhập ngũ. Tuy vậy cái nhãn “sĩ
quan biệt phái” đã khiến Hùng bị bắt đi cải tạo gần bảy năm. Tôi gặp lại Hùng
mùa thu năm 1982 khi Hùng mới đi cải tạo về và tôi cũng sắp đi Pháp. Bẵng đi
tám năm, tôi không liên lạc với Hùng, rồi không ngờ lại được tin Hùng trong một
trường hợp khác.
Phải nói là rất không ngờ. Sau khi đi cải tạo về, tôi gặp một số trí thức trẻ
có ưu tư với đất nước và chúng tôi giao du với nhau thành một nhóm chia sẻ lập
trường Dân chủ. Gặp Hùng, tôi không rủ Hùng gia nhập vì lúc đó Hùng mới đi tù về
còn đang yếu mệt và tôi cũng sắp đi Pháp, vả lại tôi biết Hùng không thích
chính trị. Đoàn Viết Hoạt ở tù ra năm 1988 thì ít lâu sau đó bắt liên lạc được
với chúng tôi. Tôi biết Hoạt có thành lập một nhóm bạn dự định cho lưu hành tập
tài liệu Diễn Dàn Tự Do nhưng không biết rằng Hùng cũng có trong đó. Chỉ sau
khi nghe tin Hoạt và nhóm Diễn Dàn Tự Do, trong đó có Hùng, bị bắt tôi mới biết
và ngạc nhiên. Hùng bị kết án năm năm, sau đó kháng án và được giảm xuống bốn
năm.
Cái nhìn lịch sử của nhà thơ rất chính xác. Lịch sử nước ta là một lịch sử
đau thương. Đó là một chuỗi ngoại thuộc và chiến tranh.
Cứ coi như nước chúng ta thực sự thành lập với nhà Hồng Bàng với 18 đời vua. Cứ
tính trung bình mỗi vị chừng mười lăm năm thì nhà Hồng Bằng kéo dài được non ba
trăm năm thì bị nhà Thục cướp ngôi năm 258 trước công nguyên. Như thế thì có
nghĩa là chúng ta có khoảng hai ngàn năm trăm năm lịch sử. Thế nhưng cỗ sử của
ta lại chép rằng Kinh Dương Vương, ông nội của vua Hùng Vương thứ nhất làm vua
nước Xích Quỷ từ năm 2879 trước tây lịch, như thế là ta có tới gần năm ngàn năm
lịch sử. Như vậy có một khoảng trống trên hai ngàn năm. Khoảng thời gian ấy là
khoảng thời gian cần thiết để một số người từ Hoa Nam vượt vách núi dầy đặc
trên một trăm cây số. Giả thuyết hợp lý nhất là vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước
công nguyên một số người đã qua được vách núi đến được giáp vùng đồng bằng sông
Hồng để cùng với người thổ dân lập ra nước Văn Lang. Huyền sử con rồng cháu
tiên có lẽ đã xuất phát từ một lý do rất thực tiễn. Muốn khuất phục những con
người thô sơ, không gì bằng dựa vào phép thần tiên, và những người ít ỏi từ miền
Bắc xuống đã tự tạo cho mình một nguồn gốc thần tiên để thu phục người bản xứ.
Trong khoảng năm trăm năm đầu, đất nước Văn Lang chắc là có rất ít người. Bằng
chứng là nhà Thục, dòng họ đã diệt họ Hồng Bằng, không hề có một dấu vết nào
trong lịch sử Trung Hoa cả, đó chỉ là một gia đình nào đó đã từ Hoa Nam sang Bắc
Việt và qui tụ được một số gia nhân lập thành một giang sơn riêng. Vậy mà nhà
Thục đã diệt được họ Hồng Bằng thì đủ biết tầm vóc của Văn Lang lúc đó không
hơn một bộ lạc là bao. Dù nhỏ bé như vậy, mà trong năm trăm năm đầu trước công
nguyên, dân ta đã phải chịu ba cuộc chiến tranh: nhà Thục diệt Hồng Bằng, rồi
nhà Triệu diệt nhà Thục, rồi nhà Triệu bị nhà Hán bên Trung Hoa tiêu diệt và nước
ta bị sát nhập vào Trung Quốc.
Kế tiếp là hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong khoảng thời gian này cũng đã có vô
số binh biến đẫm máu. Hai Bà Trưng khởi nghĩa, làm chủ đất nước và cầm cự được
ba năm, rồi cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Chinh và Triệu Quốc Đạt. Rồi vô số những
loạn lạc đao binh khác, có khi do chính các quan cai trị muốn xưng hùng xưng bá
đánh giết lẫn nhau, có khi do nhân dân nồi dậy chống áp bức. Có lần dưới thời
Tam Quốc bên Trung Hoa, lúc nước ta đang dưới sự đô hộ của nhà Ngô, dân Giao
Châu nổi lên giết được quan thái thú rồi đi thần phục nhà Ngụy ở mãi tận phương
Bắc, để rồi lại bị Đông Ngô đánh dẹp. Trong thời gian năm trăm năm của thời Bắc
thuộc lần thứ hai, từ năm 43 đến nam 554, nước ta lúc nào cũng có binh biến, và
binh biến thường thường do các quan cai trị Trung Hoa thấy Giao Châu có núi ngăn
cách với Trung Hoa muốn thành lập một quốc gia độc lập. Cuối cùng Lý Bôn, một
người gốc Trung Hoa, làm chủ được đất nước, lập ra nhà Tiền Lý, kéo dài được
sáu mươi năm. Nhìn vào giai đoạn này, ta có thể rút ra hai kết luận: Một là ý
thức về mình như một xã hội riêng biệt với phương Bắc của ta đã do chính những
quan đô hộ người Trung Hoa đem đến. Hai là nước ta đã được thai nghén trong
binh lửa và đó cũng là một điều không may.
Trong sáu mươi năm ngắn ngủi của nhà Tiền Lý, nước ta đã phải đương đầu với cuộc
tái chiếm của Trung Hoa, rồi cuộc nội chiến giữa Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử,
cuối cùng lại rơi vào Bắc thuộc một lần nữa. Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba
này chiến tranh lại còn triền miên và dữ dội hơn nữa. Chiến tranh với Lâm ấp
(Chiêm Thành), cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan, của Phùng Hưng, rồi lại đánh
Chiêm Thành, rồi chiến tranh với nước Nam Chiếu (ở khu vực Vân Nam, Trung Quốc
bây giờ), và dĩ nhiên, yếu tố thường trực vẫn là những cuộc tranh giành giữa
các quan đô hộ. Trong thời gian ấy xã hội Việt nam vẫn tiếp tục hình thành, người
mỗi ngày một đông, trí tuệ mỗi ngày một mở mang, ý thức cộng đồng càng ngày
càng rõ rệt, kìm kẹp của ách thống trị càng ngày càng bất lực. Đến đầu thế kỷ
thứ 10, năm 906, một hiện tượng lạ lùng xảy ra, hệ thống đô hộ của người Trung
Hoa tự nó sụp đổ và dân Giao Châu tôn Khúc Thừa Dụ lên làm chủ. Đất nước Việt
nam coi như đã thực sự hình thành. Người Trung Hoa định tái lập nền thống trị
nhưng không được nữa, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán rồi xưng vương, dẫn đất nước
vào giai đoạn độc lập chính thức.
Một ngàn năm Bắc thuộc thường được coi như một giai đoạn đen tối của nước ta,
nhưng đó cũng là giai đoạn đất nước ta thai nghén và hình thành như một đất nước
theo khuôn mẫu chính trị Trung Hoa. Quá trình hình thành của nước ta là một chuỗi
dài chinh chiến. Đứa trẻ Việt nam vì thế đã ra đời với một cơ thể yếu.
Nhưng được độc lập rồi, loạn lạc, chiến tranh không giảm mà còn tăng. Nhà Ngô
trị nước chẳng được bao lâu thì rơi vào loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh thống
nhất đất nước và thi hành một chính sách trị nước cực kỳ tàn bạo, kéo dài mười
bốn năm. Lê Hoàn soán ngôi nhà Đinh lập ra nhà Tiền Lê trị vì ba mươi năm.
Trong vòng ba mươi năm đó dân ta đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh với nhà
Tống, một cuộc chiến tranh với Chiêm Thành và nhiều cuộc chiến tranh bình định
khác. Nhà Tiền Lê chấm dứt với triều Lê Long Đỉnh kéo dài năm năm, từ 1005 đến
1009. Lê Long Đỉnh tuy chỉ làm vua trong một thời gian ngắn ngủi nhưng đã để
tên lại trong lịch sử như là bạo chúa kinh khủng nhất của nước ta. Sự thực hay
chỉ là một bịa đặt của nhà Lý để bào chữa cho việc cướp ngôi nhà Tiền Lê? Thế kỷ
đầu của độc lập, đối với dân ta, còn đau thương hơn cả thời Bắc thuộc.
Triều Lý vẫn được coi là một thời thịnh trị của nước ta vì đã lập ra triều
chính, kỷ cương, văn hóa, thi cử như một quốc gia thực sự. Điều đó đúng, những
nếu nhìn kỹ hơn một chút thì trong hơn hai thế kỷ dưới thời Lý dân ta cũng
không sung sướng là bao. Chiến tranh cũng rất thường xuyên: đánh dẹp Nùng Trí
Cao, đánh dẹp các tù ương không thần phục, đánh Chiêm Thành, Ai Lao, rồi lại
đánh Chiêm Thành, rồi đem quân đánh Tống, rồi kháng cự với quân xâm lăng Tống
và mất Cao Bằng, Lạng Sơn, rời lại đánh Chiêm Thành, rồi giặc Thân Lợi, giặc Phạm
Du, cuộc nổi loạn của đám tướng Phạm Bình Di – Quách Bốc làm nhà vua phải bỏ cả
kinh đô mà chạy, cầu cứu họ Trần rồi mất ngôi về tay nhà Trần.
Công lao lớn nhất của nhà Trần là đã phá được quân Mông Cỗ trong ba cuộc chiến
tranh khóc liệt bậc nhất trong lịch sử nước ta. Nhưng cũng không phải chỉ có thế.
Anh em nhà Trần có lúc còn đánh lẫn nhau, giặc giã ở trong nước cũng không ít:
giặc Mường, giặc Đoan Thượng, giặc Nguyễn Nọn, giặc Phạm Sư ổn, Dương Nhật Lệ,
rồi nhưng cuộc chiến tranh liên miên với Chiêm Thành, trong đó quân Trần bại
nhiều hơn thắng, kinh đô Thăng Long bị tàn phá nhiều lần. rồi đánh nhau với Ai
Lao. Ngày nay nhiều người vẫn coi nhà Trần là một thời thịnh trị, gần như nhà
Lý, vì nhà Trần đều có công đánh được quân Nguyên, nhưng xét ra có lẽ chưa đời
nào dân ta khổ bằng dưới thời nhà Trần.
Nhà Trần mất, nhà Hồ lên, quân Minh sang đánh chiếm nước ta. Lập tức Giản Định
Đế, Trùng Quang Đế nổi lên rồi bị dẹp. Kế tiếp là cuộc kháng chiến mười năm của
Lê Lợi. Giành được độc lập rồi, nhà Hậu Lê cũng phải đương đầu với vô số cuộc nổi
dậy, nhất là cuộc nổi dậy của Trần Cao, kinh thành bị tàn phá mấy lần. Nhà Lê mất,
một cuộc nội chiến phù Lê diệt Mạc bùng lên, kế tiếp là Trịnh Nguyễn phân
tranh, rồi cuộc nồi dậy của anh em Tây Sơn, cuộc chiến tranh với quân Thanh và
quân Xiêm, cuộc nội chiến giữa Tây Sơn và dư đảng phù Lê, cuộc nội chiến khốc
liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.
Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước, làm vua được tám mươi năm thì mất nước vào
tay người Pháp, sau khi đã phải đánh dẹp chật vật nhiều cuộc nỗi dậy khác, nhất
là cuộc ly khai của Lê Văn Duyệt được Lê Văn Khôi tiếp nối. Sau thế chiến II,
chúng ta chiến tranh khốc liệt cho tới năm 1975.
Trong suốt dòng lịch sử của ta, dân ta được bao nhiêu năm hòa bình? Có lẽ
chỉ được khoảng một trăm năm mươi năm yên ổn dưới thời Lý, gần một thế kỷ dưới
thời Trần, tám mươi năm dưới thời Hậu Lê, xấp xỉ bảy mươi năm (1672- 1739) tại
miền Bắc trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh (dưới thời các chúa Trịnh Tạc, Trịnh
Cán, Trịnh Cương). Và sáu mươi năm dưới thời Pháp thuộc, nhưng lại là hòa bình
trong ngoại thuộc. Xét ra, trong hai ngàn năm trăm năm lịch sử của ta, chúng ta
chỉ có được khoảng bốn trăm năm vừa có độc lập vừa có hòa bình tương đối. Thế
nhưng ngay cả khi có hòa bình tương đối, chúng ta cũng luôn luôn phải chịu đựng
những chế độ hà khắc. Chúng ta rất ít có hoà bình và chưa bao giờ có tự do.
Gần đây, dưới chế độ cộng sản, chúng ta cũng đã phải chịu một cuộc chiến tranh
biên giới ngắn nhưng dữ dội với Trung Quốc, một cuộc chiến tranh dai dẳng tại
Cam-bốt, và một cuộc nội chiến rất đặc biệt tuy không có tiếng bom đạn nhưng
cũng diễn ra một cách thảm khốc trong lòng người. Hàng trăm ngàn người đã bị tù
tội, hàng triệu người bị cướp đoạt tài sản, bị phân biệt đối xử, bị trù dập và
cấm đoán. Hơn một triệu người bỏ nước ra đi. Biết bao nhiêu là đau thương và
thù hận.
Cuộc hành trình vội vã qua lịch sử này có mục đích để chúng ta “mở mắt và nhỏ lệ”
cho thân phận của đất nước mình. Chúng ta chiến tranh nhau quá. Không có dân
tộc nào trên mặt đất này chịu nhiều chiến tranh như chúng ta. Chiến
tranh đã khiến chúng ta trở thành một dân tộc không bình thường. Câu hỏi tại
sao nước ta có địa thế tốt, con người cần mẫn và tinh khôn mà lại không vươn
lên được có lẽ đã có câu trả lời. Chiến tranh đã đầy đọa chúng ta trong suốt
dòng lịch sử để rồi trở thành một bản năng của chúng ta. Những người
lãnh đạo cộng sản lấy những quyết định chiến tranh một cách thản nhiên dễ sợ.
Nhưng họ cũng không khác bao nhiêu so với những người Việt nam khác, họ chỉ thể
hiện một chứng bệnh tâm thần tập thể của chúng ta mà thôi. Thử nhìn những cuộc
tranh cãi chính trị tại hải ngoại. Chỉ vì một ý kiến không hợp ý mình, người ta
có thể công kích nhau một cách thậm lệ, dữ dằn. Nếu có binh quyền trong tay chắc
chắn là người ta không ngần ngại tuyên chiến.
Mộng ước của mọi người Việt nam hôm nay là đổi hướng đi của lịch sử và mở ra
một kỷ nguyên của tiến bộ và hạnh phúc. Đó là một cuộc đổi đời rất lớn.
Nhưng có cuộc đổi đời nào không đòi hỏi một thay đổi lớn về tâm lý? Nếu biết nhỏ
lệ xót thương cho số phận của đất nước ta, biết dứt khoát tiêu diệt cái bản
năng chiến tranh trong con người của môi chúng ta, biết lấy đối thoại, tương
kính, tương nhượng làm căn bản dựng nước mới là chúng ta đã rút được bài học
lịch sử quí giá nhất và đã vượt được trở ngại kinh khủng nhất.
Nguyễn Gia Kiểng