Trong bài TIỄN BẠN1 tôi có bàn sơ lược về bạn TRI KỶ, nay trong bài 2 tôi xin
tóm lược lại để các bạn chưa đọc bài 1 khỏi
tốn thời giờ truy tìm.
Tiễn bạn ở đây
theo ngu ý riêng tôi là tiễn bạn TRI
ÂM, TRI KỶ, chứ không
phải là bạn bình thường. Bạn TRI ÂM, TRI KỶ rất khó tìm.
Tôi xin mạn phép ghi ra vài
dòng về các bạn này.
BẠN TRI ÂM
TRI KỶ
Bạn Tri kỷ
-- Bạn Tri
kỷ: Người hiểu được lòng
mình, hiểu được tâm tình và
hiểu được cảm giác, tư tưỡng, ngụ ý và cả những điều mình chưa nói hẳn dĩ nhiên không phải đã dễ kiếm.
-- Bạn Tri
kỷ: Người thực sự có sự kết nối đặc biệt với bạn. Bạn luôn cảm thấy có mối liên hệ nào đó với họ, đặc biệt
là bạn khó kiềm chế được những rung động và cảm xúc của bản thân với họ. Hơn bất kỳ ai, bạn luôn muốn được ở gần họ nhiều hơn, chia sẻ những
điều bạn đang giấu kín với mọi
người cho họ. Đó là người duy
nhất có thể giúp bạn mở lòng.
Bạn người tri kỷ
giống như chiếc chìa khóa, mở
ra những cảm xúc bí mật ẩn sâu
bên trong tâm hồn bạn, giúp bạn có được những thứ chân thật nhất trong cuộc đời này.
Bạn tri kỷ luôn
là người hiểu ta nhất. Chỉ có
người ấy mới biết được ta nghĩ gì,
buồn gì, vui gì, thích gì,
ghét gì… dù ta không cần nói
gì hết.
Bạn tri kỷ là
người ta mong tìm đến nhất mỗi khi gặp chuyện khó
khăn, đau khổ, bất hạnh… Và sau khi được tâm sự, những muộn phiền ưu tư
sẽ nguôi ngoai… ta bỗng thấy
nhẹ lòng hơn.
Diogenes “người hoài nghi”
-- Người tri kỷ - thường người lương thiện - rất hiếm, rất khó
tìm nên ông Diogenes từng xách
đèn đi ngoài phố giữa ban ngày
tìm.
Diogenes “người hoài nghi” (tiếng
Hy Lạp: Διογένης ὁ
Κυνικός, Diogenes ho Kunikos) là một nhà triết học
Hy Lạp và là một trong
những người sáng lập nên
trường phái triết học Hoài nghi. Còn được gọi là Diogenes thành Sinope.
ông được sinh ra tại Sinope
(ngày nay là Sinop, Thổ Nhĩ Kỳ) trong năm 412 hoặc 404 TCN và qua đời tại Corinth năm 323 TCN - (Wikipedia)
Khi được hỏi làm
gì đấy, ông trả lời: “Tôi đi tìm một người lương thiện.” Tương truyền ông chỉ gặp toàn bọn bất lương và vô lại. [*]
-- Bạn tri kỷ "cùng phái tính" đã quý,
"khác phái tính" -
Hồng nhan tri kỷ, Quân tử tri âm - càng hiếm quý hơn, và thường dễ bị "vượt rào" phải không các bạn?
Có một tiền nhân (tôi quên tên) đã nói
đại khái: "Có một người vợ yêu chưa đủ, cần nên có thêm một bạn tri kỷ"; nữ càng quý (NL). Vì lập thuyết của
Nho giáo phục vụ cho chế độ
quân chủ phong kiến, "Trọng Nam Khinh Nữ", nên thường ai
cũng nghĩ "tri kỷ khác
phái" là Hồng Nhan Tri Kỷ. Sao không nghĩ là Quân Tử Tri Âm? Người nữ cũng có quyền nghĩ: "Có được người chồng yêu chưa đủ, cần nên có thêm
một bạn tri kỷ", Quân Tử Tri Âm càng tốt phải không?
Tri âm và Tri kỷ
-- Tri âm
Ai từng nghe qua
sự tích
Bá Nha - Tử Kỳ hẳn sẽ biết câu: “Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm”. Đây là đôi bạn Tri âm
Bá Nha và Tử Kỳ là
đôi bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha làm quan, Tử Kỳ làm nghề đốn củi (tiều
phu).
Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính
Ðô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Ðại Phu.
Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi.
Một hôm,
Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính
Ðô nước Sở, vào triều kiến vua Sở trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa hai nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá
Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ
tiên, thăm họ hàng,
xong vào từ biệt vua Sở trở về nước
Tấn.
Khi thuyền trở về
đến cửa sông Hán Dương, nhằm
đêm Trung Thu, gặp Tử Kỳ người
hiểu rõ tiếng đàn
mình, Bá Nha sanh lòng cảm mến nên xin kết nghĩa
anh em, để không phụ cái
nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá
Nha đi tìm chưa từng gặp.
Hai người kết làm
anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha
10 tuổi nên làm em. Khi phải chia tay, Bá Nha hẹn ước Tử Kỳ đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại nơi nầy.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, gần tới ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin
vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà
Bá Nha thu xếp hành
trang đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, nhưng không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm rằng năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ lại.
Sau khi đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây, Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt. Nhưng sao nghe trong tiếng đàn lại có hơi ai oán. Bá Nha dừng tay suy nghĩ: - Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức.
Biết ra Tử Kỳ bị bệnh mất rồi Bá Nha
khóc nức nở. Khi đến phần mộ Tử Kỳ , Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy. Lạy xong, Bá Nha gọi
mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp
bằng trên mặt đất một cách
nghiêm trang, so dây tấu lên
một khúc nhạc thiên thu tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Tấu khúc nhạc xong, Bá
Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm.
Xong Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ; đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả, rồi ca:
Dao cầm đập nát
đau lòng phượng,
Ðàn vắng Tử Kỳ, đàn
với ai?
Gió xuân
khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm
ôi khó thay!
(Viết theo Thư Viện
Việt Nam)
-- Tri kỷ
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy,
hai rằng hành vân.
Trên đồ sứ Trung Hoa ta thường thấy vẽ 7 ông
cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu, ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Ngụy (220-264). Kê Khang là một trong bảy người hiền này.
Kê Khang (223-262) là một người có khí tiết
thanh khiết, giàu lòng nghĩa hiệp và cũng là người có
biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, họa ...
Kê Khang vốn họ
Khuê, người đất Thượng Ngu,
huyện Cối Kê (nay là huyện
Thiện Hưng, tỉnh Chiết Giang). Vì một sự thù oán nên ông dời
về ở ẩn huyện Hoa Dương, tỉnh An Huy. Gần chỗ ông ở có núi Kê Sơn nên lấy núi Kê làm họ.
Kê Khang
cũng như 6 người bạn kia đều thích
an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão. Có kẻ nói: "Ba ngày không đọc "Đạo Đức kinh" thì miệng thấy hôi".
Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan để hưởng cảnh nhàn lúc về già. Từ quan, Kê Khang sống một
cuộc đời ẩn dật, ngày ngày ngao du sơn thủy, hái thuốc, vui say với
vần thơ điệu đàn.
Lúc ấy ở huyện Đông
Bình có người tên Lữ An, vì ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang nên tìm đến ra mắt. Hai người gặp nhau tâm đồng ý hiệp nên trở thành bạn tâm
giao, tri kỷ.
Thời bấy giờ nhà Ngụy suy vi, Tư Mã Chiêu có ý muốn soán ngôi nên tìm mọi cách để trừ khử những kẻ không theo mình. Lữ Tốn vốn là bộ hạ thân tín của Tư Mã Chiêu, cũng là anh họ của Lữ An, thấy vợ của Lữ An xinh đẹp nên
y có ý muốn chiếm đoạt. Y bắt Lữ An
hạ ngục. Vì tình bạn tri kỷ,
Kê Khang không sợ lụy thân,
đứng ra minh oan. Nhưng rồi cuối cùng Kê Khang cũng bị bọn quyền thần bắt giam, dựng tội phản loạn, kết án tử hình chém ngay giữa chợ. Kê Khang chết vì bạn tâm giao, tri kỷ.
Kê Khang đàn rất hay, khúc "Quảng Lăng" do ông sáng tác khi đánh lên
khúc đàn nghe lưu loát, thảnh thoát
như nước chảy (lưu thủy), mây
bay (hành vân).
Trong "Đoạn
trường tân thanh" của cụ
Nguyễn Du, đoạn tả tiếng đàn của Kiều khi nàng gẩy cho
Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ, có câu:
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy,
hai rằng hành vân.
(Viết theo Nguyễn Tử Quang)
Mỗi lần nghe đến
cụm từ "khúc Quảng
Lăng" là ta sẽ nhớ đến Kê
Khang, một người chân chính,
hết lòng vì nghĩa bạn bè, chết vì người tri kỷ.
@. Theo Nguyên Lạc
tôi, Bá Nha -Tử Kỳ chỉ là
một truyền thuyết về tình bạn thông qua thẩm âm, hiểu lòng qua tiếng nhạc; tình bạn loại nầy so với tình hết lòng vì "nghĩa bạn
bè" của Kê Khang
- cư xử nhau hết tình, hết nghĩa, xem nhẹ cả mạng sống riêng
mình - tôi trọng những người như Kê Khang hơn.
Tri Âm đã khó kiếm,
Tri Kỷ càng khó tìm.
5. Việc
giao tiếp
Xin được ghi ra đây
ý nghĩ riêng của tôi về việc giao tiếp:
Trong việc giao
tiếp ở đời, nên đối xử nhau bằng
"Tình đáp tình", đừng
xem nhau ta / địch: - Trao tha
nhân ân tình thì sẽ nhận lại được ân
tình. Giống như quả bóng ném
vào bức tường sẽ dội ngược lại, ném
mạnh thì dội mạnh. Ném sân si vào "bức tường đời" thì nhận lại được sân si thôi!, nhân nào
quả nấy như nhà Phật đã nói. Trân trọng yêu thương cuộc đời thì đời sẽ trân trọng yêu
thương lại ta.
BÀI THƠ
TIỄN BẠN
Bài thơ tiễn
bạn của Cao Thích: BIỆT ĐỔNG ĐẠI kỳ 2
1. Tiểu
sử
Cao Thích
là nhà thơ thời Thịnh Đường ở Trung
Quốc. Ông cùng với Sầm Than,
Vương Xương Linh, là ba gương mặt tiêu biểu trong phái
thơ biên tái - Thơ Biên tái: có thể
hiểu nôm na đó là những bài
thơ sáng tác trong hoàn cảnh chiến
tranh, loạn lạc. khi mà những
người chiến sĩ ra trận, tâm trạng của họ nhớ về quê hương, nhớ về người thân hay những
ý chí sục sôi quyết lập công nơi biên ái.
Cao Thích 高適 (702-765) tự Đạt Phu 達夫,
người Thương Châu (nay
là tỉnh Hà Bắc,Trung Quốc), trong một gia đình
nghèo. Năm Khai Nguyên thứ 22
(đời Đường Huyền Tông), ông theo giúp Tín An Vương lên biên tái đánh giặc Khiết Đan, sau đó lại đi du ngoạn ở vùng Hà Nam. Cho đến năm 40 tuổi, Cao Thích còn lận đận, sống đời áo vải lang thang đây đó. Sau đó được người cất nhắc, thi đỗ hữu đạo quan và
được lên làm quan ở Trường An. Ông được giữ chức huyện uý. Tâm tính ông
không hợp với chức này,
thường làm thơ than thở. Sau đó thăng Tiết độ sứ ở Hà Tây. Khi An Lộc Sơn nổi loạn, ông tắt đường đến với Huyền Tông ở Hà Trì, dâng thư nói về nguyên nhân thất bại ở cửa ải Đồng Quan được làm
Gián nghị đại phu. Sau có
công đánh dẹp Vĩnh Vương Lý
Lân, được Đường Túc
Tông thăng tước hầu ở Bột Hải.
[Wikipedia]
2. Nguyên tác bài thơ:
別董大其二
千里黃雲白日曛,
北風吹雁雪紛紛。
莫愁前路無知己,
天下誰人不識君。
.
BIỆT ĐỔNG ĐẠI
kỳ 2
Thiên lý
hoàng vân bạch nhật huân
Bắc phong xuy nhạn
tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô
tri kỷ
Thiên hạ hà nhân bất thức quân?
(Cao Thích)
3. Dịch
nghĩa
Chia tay Đổng-Đại
kỳ 2
Ngàn dặm mây vàng, mặt trời đã xế chiều
Gió bấc thổi, tuyết rơi tả tơi, chim nhạn bay
đi lệch phương hướng
Chớ buồn con đường
phía trước, nơi đất khách không có người tri kỷ
Vì trong
thiên hạ hỏi xem có ai là người không biết bạn?
Ý thơ:
– Tiển bạn ra đi trong một chiều,
có mây vàng sáng rực - mây vàng trời gió, mây đỏ là mưa - Dự báo thời
tiết khắc nghiệt - Y chang, tuyết rơi và gió bấc lạnh thổi về rất
mạnh,lòng e ngại . Nhạn còn bay chệch đường huống chi người nghệ sĩ
như anh . Liếc nhìn ta hiểu
bạn không lo vì thời tiết, nhưng sợ cô đơn nới xứ người – Ta bảo đừng
lo trên đường đi đến đích (hướng
phía trước) không có
người tri kỷ tri âm ,bởi người trong thiên hạ ai mà người không biêt
đến tên bạn (ý Laiquangnam)
4. Dịch
thơ
Chia tay Đổng-Đại
Mười dặm vàng
pha bóng nhật vân,
Nhạn xuôi
gió bấc tuyết bay nhanh
Chớ buồn nẻo trước
không tri kỷ!
Thiên hạ ai người chẳng biết anh!
(Bản dịch của Tản
Đà)
Nguyên Lạc phóng
dịch
Tương biệt với
Đổng Đại
Tiễn bạn mây
vàng chiều cay mắt
Bấc cuồng tuyết đồ
nhạn lệch phương
Buồn chi hướng
trước không tri kỷ?
Thiên hạ tên người đã tỏa hương![*]
...........
[*] hữu xạ tự nhiên hương
***
Qua trên ta thấy
tình bạn rất đẹp của các
thi nhân, đầy nhân bản.
Nguyên Lạc
.....................
Tham khảo: Thư Viện
Việt Nam, Nguyễn Tử Quang, Laiquangnam, Thi Viện, Vũ Thị Minh Huyền,
Wikipedia...
Ghi chú:
[2] Theo sử gia
Plutarch, khi Alexander Đại Đế tới Corinth, những người đứng đầu thành
phố và các triết gia đã lũ lượt kéo nhau tới yết kiến Alexander, chỉ riêng Diogenes vắng mặt. Alexander bèn đích thân đi
tìm Diogenes, và thấy ông này
đang nằm dài sưởi nắng bên cái thùng ông dùng làm chỗ ngủ. Khi Alexander Đại Đế hỏi: “Hỡi nhà
hiền triết, ngươi có muốn ta làm gì giúp ngươi không?”,
Diogenes đã trả lời: “Ngài
hãy đứng tránh sang một bên để khỏi che lấp ánh mặt trời của tôi.” Các triết gia và đám tùy tùng của Alexander Đại Đế nghe vậy cười phá lên,
trong khi chính Alexander Đại Đế nói:
“Nếu ta không phải là Alexander thì ta đã là
Diogenes.” (theo Đỗ Đình
Đăng)