Theo phần giới thiệu ngắn kèm theo tác phẩm
đầu tay “Ru”, Kim Thuý đã từng là thợ may, thông dịch viên, luật sư, chủ tiệm
ăn, hiện nay sống ở Montreal và dành toàn thời gian để viết. Chi tiết hơn, Kim Thúy
sinh năm 1968 ở phần đất có thể gọi đúng nhất là Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1978,
chị cùng gia đình vượt biên và vượt biển đến Malaysia rồi từ đó đến vùng
Quebec, Canada, định cư ở Montreal. biên và vượt biển đến Malaysia rồi từ đó
đến Quebec, Canada, định cư ở Montreal.
Chị theo học trường Đại học Montreal,
lấy bằng cử nhân ngôn ngữ học và thông dịch rồi sau đó là bằng luật sư. Nhờ hai
văn bằng này, chị có dịp về Việt Nam cùng một đoàn chuyên gia người Canada vào
giữa thập niên 1990 với vai trò cố vấn chính quyền Việt Nam trong những bước
chập chững đầu tiên hướng đến chủ nghĩa tư bản. Sau hơn hai năm ở Bangkok, Thái
Lan, nơi chị sanh hai con trai, gia đình chị về lại Montreal. Kim Thúy mở một
tiệm ăn, việc sau này chị gọi là điên rồ, và sau năm năm theo lời khuyên của
chồng tạm nghỉ ngơi. “Ru” hình thành rất nhanh sau đó, thoạt tiên như một việc
tiêu khiển, rồi trở thành tác phẩm đầu tay của chị vào năm 2009, rồi đoạt giải
Toàn Quyền (Quebec) cho văn chương Pháp ngữ vào năm 2010. Bản dịch tiếng Anh
của “Ru” bởi Sheila Fischman phát hành vào năm 2012 được vào vòng chung kết
giải Scotiabank Giller năm 2012 và Tác phẩm đầu tay của Amazon Canada năm 2013,
rồi đoạt giải Canada Reads năm 2015. "Ru" đã được phát hành ở hai
mươi quốc gia.
Cho đến nay, tác phẩm của Kim Thúy gồm có:
Ru (2009); À toi (2011) (Gửi người), viết cùng Pascal Janovjak; Mãn (2013); Vi
(2016) Le secret des Vietnamiennes (Bí quyết của phụ nữ Việt) (2017).
Nhìn chung, lượng tác phẩm của Kim Thúy chưa nhiều, nhưng đề tài viết của
chị về những câu chuyện mang bản sắc riêng tư của người tỵ nạn/di dân Việt,
trong lối viết rất thơ với nhiều hình tượng, đã đủ để mang chị vào vòng chung
kết của giải New Academy Prize in Literature năm 2018 (1). Trả lời phỏng vấn về
sự đề cử này, Kim Thúy cho rằng cơ hội thắng giải của chị hầu như là con số
không. Đây dường như không phải là sự khiêm nhường làm dáng, cho phải phép, của
một người tranh giải, vì theo một bài của John Barber viết năm 2012 và cập nhật
năm 2018, Kim Thúy ngần ngại không muốn tự nhận là "nhà văn", vì chị
không nghĩ "viết" đồng nghĩa với "làm việc".
Vẫn còn yêu và gắn bó với văn hóa Việt, ngôn ngữ Việt, trừ một tác phẩm viết
chung với Pascal Janovjak, ba tiểu thuyết riêng của chị có đề tựa ngắn theo
tinh thần "cô đọng" Đông phương, đến mức không còn ngắn hơn được nữa:
Ru, Mãn, Vi. Cũng rất Đông phương là hình tượng trong những đề tựa này.
"Ru" gợi lên rất nhiều điều khác nhau từ lời hát, âm thanh, hình ảnh,
tâm trạng trong tiếng Việt, còn trong tiếng Pháp cổ, “ru” có nghĩa là "một
dòng nước nhỏ", rất có thể là ý tưởng và hình tượng của chính Kim Thúy và
những người Việt lưu lạc nơi xứ người, vì trước khi "Ru" ra đời, Kim
Thúy đã mở một nhà hàng ở Montreal mang tên "Ru de Nam" (Dòng chảy
Việt Nam). "Mãn", theo lời Kim Thúy, là một chữ rất đẹp vì nó gợi lên
nhiều hình tượng. "Vi" là tên nhân vật chính trong truyện, nhưng theo
Kim Thúy cũng có thể hiểu là "vie", hay “cuộc đời” trong tiếng Pháp.
Tuy không tự nhận là nhà văn, Kim Thúy minh định văn chương của chị là
"văn chương người tỵ nạn" không phải "văn chương di dân".
Sau đây là ba đoạn trích trong ba tác phẩm của Kim Thúy từ ba cuốn sách Ru,
Vi và Mãn.
1. RU
Tôi sinh ra dưới bầu trời trang hoàng với pháo bông, những vòng ánh sáng,
bắn lỗ chỗ đạn pháo. Mục đích chào đời của tôi là thay vào những cuộc sống đã
bị mất đi. Bổn phận cuộc đời tôi là nối tiếp cuộc đời của mẹ tôi.
Tôi tên Nguyễn An Tịnh, mẹ tôi tên Nguyễn An Tĩnh. Tên tôi chỉ là một biến hoá
của tên bà, vì dấu nặng dưới chữ i đã phân chia, dị biệt, tách rời tôi với bà.
Tôi là phần nối kết của bà, ngay cả trong tên tiếng Việt của tôi, tên bà có
nghĩa "không gian an bình" và tên tôi có nghĩa "nội tại an
bình". Với hai cái tên gần như có thể hoán đổi, mẹ tôi minh định rằng tôi
là phần nối tiếp của bà, rằng tôi sẽ tiếp tục câu chuyện của bà.
Lịch sử Việt Nam, với chữ lịch sử viết hoa, phá hỏng những dự định của mẹ tôi.
Lịch sử quăng dấu nặng dấu ngã trong tên chúng tôi xuống nước khi đưa chúng tôi
qua Vịnh Xiêm la ba mươi năm trước. Lịch sử Việt Nam cũng tước bỏ ý nghĩa của
tên chúng tôi, rút cạn chúng thành những âm lạ tai, nhất là lạ với tiếng Pháp.
Quan trọng hơn cả là, khi tôi mười tuổi, Lịch sử Việt Nam chấm dứt vai trò của
tôi là phần nối tiếp của mẹ tôi.
Vì chúng tôi tha hương, con tôi không hề là phần nối tiếp của tôi, của lịch sử
đời tôi. Tên chúng là Pascal và Henri, và chúng nhìn không giống tôi. Tóc chúng
nhạt hơn tóc tôi, da trắng, lông mi dầy. Tôi không cảm thấy những cảm xúc mẫu
tử tự nhiên tôi chờ đợi khi tôi ghì chúng vào ngực vào giữa đêm lúc ba giờ
sáng. Bản năng người mẹ đến với tôi rất lâu sau đó, qua những đêm mất ngủ,
những chiếc tã dơ, những nụ cười không ngờ, những niềm vui bất chợt.
Chỉ đến khi ấy tôi mới hiểu tình thương của bà mẹ ngồi đối diện tôi trong lòng
tàu, đầu đứa con nhỏ trong tay bà đầy ghẻ lở hôi hám. Hình ảnh ấy ở trước mắt
tôi trong nhiều ngày và có lẽ nhiều đêm. Ngọn đèn nhỏ treo trên sợi dây kim
loại nối với một cái đinh han rỉ tỏa ra một ánh sáng yếu ớt không đổi. Sâu
trong lòng tàu, ngày và đêm cũng như nhau. Nguồn ánh sáng thường trực che chở chúng
tôi khỏi biển trời mênh mông chung quanh. Những người ngồi trên boong tàu bảo
chúng tôi không có ranh giới giữa màu xanh của trời và màu xanh của biển. Không
ai biết chúng tôi đang đi đến thiên đường hay rơi vào lòng biển sâu. Thiên
đường và địa ngục ôm ấp nhau trong lòng tàu. Thiên đường hứa hẹn một bước ngoặt
trong cuộc đời chúng tôi, một tương lai mới, một lịch sử mới. Còn địa ngục phơi
bày những nỗi sợ của chúng tôi: sợ cướp biển, sợ đói, sợ bị ngộ độc vì những
chiếc bánh quy tẩm dầu máy, sợ hết nước, sợ không đứng lên nổi, sợ phải đi tiểu
vào cái hũ màu đỏ chuyền từ tay này sang tay khác, sợ ghẻ lở trên đầu đứa bé dễ
lây, sợ không bao giờ đặt chân lên đất liền nữa, sợ không bao giờ còn nhìn thấy
mặt cha mẹ chúng tôi đang ngồi trong bóng tối giữa hai trăm người khác.
Trước khi tàu nhổ neo trên bờ biển Rạch Giá vào giữa đêm, đa số hành khách chỉ
có một nỗi sợ: sợ Cộng sản, lý do khiến họ trốn chạy. Nhưng lúc con tàu bị bao
quanh, vây bọc bởi đường chân trời cùng một màu xanh, nỗi sợ hoá thành quái thú
trăm mặt cưa cụt chân chúng tôi và khiến chúng tôi không còn cảm thấy sự tê
cứng trong những bắp thịt không cử động của mình. Chúng tôi đông cứng trong sợ
hãi, vì sợ hãi. Chúng tôi không còn nhắm mắt khi nước tiểu của đứa bé trai ghẻ
lở bắn vào chúng tôi. Chúng tôi không còn bịt mũi vì người bên cạnh nôn mửa.
Chúng tôi tê dại, trong vòng giam giữ của vai người này, chân người kia, nỗi sợ
của tất cả. Chúng tôi tê liệt.
Chuyện một cô bé đi ven thành tàu bị mất thăng bằng và chìm vào biển truyền đi
trong lòng tàu hôi hám như thuốc mê hoặc thuốc tê, biến ngọn đèn độc nhất thành
ngôi sao bắc đẩu và những cái bánh tẩm dầu máy thành bánh quy bơ. Vị dầu máy
trong cổ họng chúng tôi, trên lưỡi chúng tôi, trong trí chúng tôi đưa chúng tôi
vào giấc ngủ như bài hát ru người đàn bà bên cạnh tôi hát.
Cha tôi đã dự tính, nếu gia đình tôi bị Cộng sản hay cướp biển bắt, sẽ đưa
chúng tôi vào giấc ngủ miên viễn, như nàng Công chúa ngủ trong rừng, với những
viên cyanide. Trong một thời gian rất lâu, tôi muốn hỏi ông tại sao ông không
nghĩ đến việc cho chúng tôi lựa chọn, tại sao ông muốn tước đi khả năng chúng
tôi có thể sống sót. Tôi không tự hỏi mình câu hỏi ấy nữa khi tôi làm mẹ, khi
bác sĩ Vinh, một bác sĩ giải phẫu có tiếng ở Sài Gòn, kể cho tôi nghe ông đã
lần lượt đưa năm người con của ông, từ cậu con trai mười hai tuổi đến cô con
gái năm tuổi, một mình đi trên năm chiếc tàu khác nhau, trong năm lần khác
nhau, ra biển cả, xa rời những cáo buộc của chính quyền Cộng sản vẫn lơ lửng
trên đầu ông. Ông đã chắc ông sẽ chết trong trại giam vì ông đã bị buộc tội
giết chết vài đồng chí Cộng sản khi ông giải phẫu cho họ, dù họ chưa từng đặt
chân đến bệnh viện của ông. Ông hy vọng cứu được một hai người con bằng cách
gửi họ ra biển như thế. Tôi gặp bác sĩ Vinh trên mấy bậc thềm nhà thờ, những
bậc thềm ông dọn tuyết trong mùa đông và quét sạch trong mùa hè để cám ơn vị tu
sĩ Ki-tô giáo đã đóng vai người cha cho các con ông, lần lượt nuôi cả năm người
cho đến lớn, cho đến khi ông ra tù.
Tôi không khóc, cũng không cười, khi tôi nghe rằng con trai Henri của tôi là tù
nhân trong thế giới riêng của nó, khi người ta xác nhận nó là một trong những
đứa trẻ không nghe thấy chúng ta, không nói với chúng ta, dù chúng không câm
không điếc. Nó cũng là một trong những đứa trẻ chúng ta phải yêu thương qua
khoảng cách, không đụng chạm chúng, không hôn hít chúng, không cười với chúng
vì tất cả cảm quan của chúng sẽ bị bạo hành với mùi da thịt của chúng ta, cường
độ giọng nói của chúng ta, kết cấu những sợi tóc của chúng ta, nhịp đập trái
tim của chúng ta. Có lẽ nó sẽ không bao giờ âu yếm gọi tôi là maman (2), dù nó
có thể phát âm từ poire (3) với tất cả sự tròn trịa và gợi cảm của âm oi (4).
Nó sẽ không bao giờ hiểu tại sao tôi khóc lần đầu tiên nó cười. Nó sẽ không
biết, nhờ nó, mỗi tia sáng của niềm vui đã trở thành ơn phước, và tôi sẽ luôn
tranh đấu với căn bệnh tự kỷ, dù tôi đã biết không thắng nổi nó. Tôi đã bại
trận, bị lột trần, đánh gục.
(1) Giải mới được lập ra thay thế giải Nobel Văn chương 2018 bị hủy bỏ vì
những lùm xùm trong đoàn giám khảo. Người đoạt giải là Maryse Condé, xuất thân
từ vùng Guadeloupe thuộc Pháp, quần đảo Leeward ở Carribean, học giả và giáo sư
đại học văn chương Pháp, đã đoạt nhiều giải thưởng văn chương. Bà đã viết hơn
mười tiểu thuyết, thường với chủ đề nô lệ, chế độ thuộc địa và sự bóc lột.
(2) Tiếng gọi mẹ trong tiếng Pháp
(3) Trái lê trong tiếng Pháp
(4) Một âm trong tiếng Pháp
2. VI
Khi tôi tám tuổi, căn nhà bị ném vào im lặng.
Dưới cái quạt phụ gắn trên tường màu ngà của phòng ăn, một miếng giấy bồi cứng
màu đỏ tươi mang một khối ba trăm sáu mươi lăm tờ giấy. Trên mỗi tờ ghi tháng,
thứ trong tuần, và hai ngày: một theo dương lịch, một theo âm lịch. Ngay khi
tôi có thể trèo lên một cái ghế, tôi được dành niềm vui xé một trang khi tôi
thức dậy. Tôi là người canh giữ thời gian. Đặc quyền ấy bị lấy đi khi hai anh
tôi, Long và Lộc, mười bảy tuổi. Bắt đầu vào ngày sinh nhật ấy, ngày chúng tôi
không ăn mừng, mẹ tôi khóc mỗi sáng trước cuốn lịch. Tôi có cảm tưởng bà đang
tự xé chính mình cùng lúc bà xé tờ lịch của ngày hôm ấy. Tiếng tíc tắc của đồng
hồ thường khi ru ngủ chúng tôi vào giờ chợp mắt buổi trưa bỗng nghe như một quả
bom nổ chậm.
Tôi là con út trong nhà, cô em gái duy nhất của ba người anh, được mọi người
bảo vệ như những lọ nước hoa quý sau tủ kính bày hàng. Mặc dù tôi không được
biết nỗi bận tâm của gia đình do còn nhỏ tuổi, tôi biết hai người con trai lớn
sẽ phải đi vào trận mạc ngày họ mười tám tuổi. Dù họ được gửi đi Cam Bốt đánh
Pol Pot hay ra biên giới Trung Quốc, cả hai điểm đến sằn dành cho họ cùng một số
phận, cùng một cái chết.
Ông nội tôi đã tốt nghiệp ban Luật ở trường Đại học Hà Nội, với diện học sinh
bản xứ. Pháp quốc phụ trách việc đào tạo thần dân của mình nhưng không ban cùng
giá trị cho những bằng cấp phát ở những thuộc địa. Có thể Pháp đã đúng khi làm
thế vì thực tế đời sống ở Đông dương hoàn toàn không giống thực tế đời sống ở
Pháp. Mặt khác, yêu cầu của trường và những câu hỏi bài thi thì giống nhau. Ông
nội tôi thường kể cho chúng tôi nghe rằng sau những kỳ thi viết là một chuỗi kỳ
thi vấn đáp để lấy được mảnh bằng. Trong lớp Pháp văn, ông phải phiên dịch
trước mặt các giáo sư một bài thơ tiếng Việt sang tiếng Pháp và một bài khác từ
tiếng Pháp sang tiếng Việt. Những bài toán cũng phải được giải miệng. Thử thách
cuối cùng là đương đầu với sự thù địch của những người sắp quyết định số phận
của ông mà không bị mất bình tĩnh.
Sự khe khắt của những ông thầy không làm các trò ngạc nhiên vì thứ bậc xã hội
đặt những người trí thức trên đỉnh kim tự tháp. Họ ngồi đó làm những nhà thông
thái và sau khi được lên chức sẽ mang danh vị “giáo sư” trọn đời. Không ai dám
nghĩ đến việc hạch hỏi những điều họ nói vì họ sở hữu sự thật hiển nhiên. Đó là
lý do ông nội tôi không hề phản đối khi các thầy của ông cho ông một cái tên
Pháp. Vì thiếu kiến thức, hay để chống đối, cha mẹ ông đã không làm thế. Vậy
nên, trong những lớp học, năm này qua năm khác, ông có cái tên mới. Henri Lê
Văn An, Philippe Lê Văn An, Pascal Lê Văn An...Trong những cái tên này, ông giữ
lại tên Antoine và biến Lê Văn An thành tên họ.
Trở về lại Sài Gòn, ông nội tôi trở thành một thẩm phán được kính nể và một chủ
điền giàu khó ngờ. Ông bày tỏ niềm kiêu hãnh vì đã cùng một lúc tạo dựng cơ
ngơi và danh tiếng, bằng cách cho con cái mang tên ông. Therese Lê Văn An,
Jeanne Lê Văn An, Marie Lê Văn An...và cha tôi, Jean Lê Văn An. Ngược với tôi,
ba tôi là con trai duy nhất, trong một gia đình có sáu người con gái. Cũng như
tôi, ba tôi đến cuối cùng, khi mọi người đã hết hy vọng có con cháu nối dòng.
Sự ra đời của ba tôi biến đổi cuộc đời của bà tôi, cho đến khi ấy phải ngày
ngày chịu đựng những lời ác mó vì không thể sinh con nối dõi. Bà đã bị giằng xé
giữa ước muốn làm vợ duy nhất của ba tôi và bổn phận của ông phải chọn vợ lẽ.
May mắn cho bà, chồng bà là một trong những người theo mô hình chồng một vợ một
của Pháp. Hoặc có thể đơn giản chỉ là ông rất yêu bà, một người phụ nữ nổi
tiếng khắp Nam phần vì sắc đẹp thanh lịch và sự gợi cảm.
Bà nội tôi gặp ông nội lần đầu vào một buổi sáng tinh mơ ở chợ nổi Cái Bè, một
quận nửa đất nửa nước trên một nhánh sông Cửu Long. Mỗi ngày từ năm 1732,
thương lái đã mang rau quả thu được đến vùng châu thổ ấy để bán cho những nhà
buôn sỉ. Từ xa, màu gỗ hoà lẫn với màu nâu của làn nước đất sét tạo cảm giác
rằng những trái dưa, trái thơm, trái bưởi, trái bí đang tự mình trôi đến những
người đàn ông đã đợi trên bến từ bình minh để chờ chụp bắt chúng. Cho đến ngày
hôm nay, họ chuyền rau quả bằng tay, như thể chúng được trao gửi chứ không phải
là bán cho họ. Bà nội tôi đứng trên bến phà mê say nhìn những cử động trùng lặp
nhịp nhàng này khi ông nội tôi chú ý đến bà. Thoạt tiên ông bị mặt trời chói
mắt, rồi sững sờ vì cô gái với những đường cong đầy đặn nổi bật lên trong chiếc
áo dài Việt Nam không dung thứ bất kỳ chuyển động thừa thãi nào và trên hết,
bất kỳ ý định sỗ sàng nào. Những nút bấm dọc theo bên phải thân hình khép lại
chiếc áo nhưng không bao giờ thực sự cài chặt. Kết quả là, một chuyển động đột
ngột hoặc giang rộng sẽ khiến chiếc áo mở tung ra. Vì lý do này, những nữ sinh
phải mặc áo lót để tránh sự lộ liễu bất ngờ. Mặt khác, không điều gì có thể
ngăn hai tà áo dài vờn theo hơi thở của làn gió và chiếm lấy những trái tim khó
cưỡng lại vẻ đẹp.
Ông nội tôi rơi vào cái bẫy ấy. Lóa mắt vì chuyển động dịu dàng, lắt lay của
hai tà áo, ông nói với người đồng sự rằng ông sẽ không rời Cái Bè mà không có
người phụ nữ ấy. Ông phải làm xấu mặt một cô gái trẻ khác đã hứa hôn cho ông và
khiến bậc trưởng thượng trong gia đình ghét bỏ trước khi ông có thể chạm vào
bàn tay của bà nội tôi. Một số người tin rằng ông yêu đôi mắt mi dài hình hạnh
nhân của bà, những người khác cho là đôi môi mọng của bà, và những người khác
nữa chắc mẩm rằng ông bị phần hông đầy đặn của bà quyến rũ. Không ai chú ý đến
những ngón tay thuôn dài ép một cuốn tập vào ngực ngoại trừ ông nội tôi, người
tả chúng mãi suốt mấy mươi năm. Ông tiếp tục gợi nhớ chúng rất lâu sau khi tuổi
tác đã biến những ngón tay thuôn nuột nà ấy thành một huyền thoại không tưởng,
hoặc ít nhất cũng là chuyện kể của tình nhân.
Trích đoạn Vi (2016) của Kim Thúy
Hồ Như chuyển ngữ từ bản tiếng Anh của Sheila Fischman và tham khảo bản
chính tiếng Pháp
3. MÃN
Maman và tôi nhìn không giống nhau. Bà thấp
người, tôi cao. Da bà nâu, da tôi như da con búp bê Pháp. Bà có một lỗ hổng ở
bắp chân và tôi có một lỗ hổng trong tim.
Người mẹ đầu tiên của tôi, người cưu mang và sinh ra tôi, có một lỗ hổng ở đầu.
Bà lúc ấy còn trẻ hoặc có lẽ còn bé, vì không có người phụ nữ Việt Nam nào dám
mang thai trừ phi người ấy có một chiếc nhẫn trên ngón tay.
Người mẹ thứ nhì của tôi, người nhặt lấy tôi từ một vườn rau giữa những cây đậu
bắp, có một lỗ hổng trong niềm tin. Bà không còn tin con người, nhất là khi họ
nói. Và như thế bà ẩn cư trong một túp lều tranh, xa những nhánh sông Cửu Long
mạnh mẽ để tụng kinh bằng tiếng Phạn.
Người mẹ thứ ba của tôi, người dõi theo những bước đầu tập đi của tôi, trở
thành Maman, Maman của tôi. Buổi sáng hôm ấy, bà muốn mở vòng tay trở lại. Và
thế là bà mở những khung cửa chớp trong phòng ngủ của bà vẫn luôn đóng kín
trước đó. Xa xa, trong ánh sáng ấm áp, bà nhìn thấy tôi, và tôi trở thành con
gái của bà. Bà cho tôi lần sinh ra thứ nhì bằng cách mang tôi đến một thành phố
lớn, một chốn khác vô danh, phía sau một sân trường, chung quanh là những trẻ
nhỏ ganh tỵ với tôi vì tôi có người mẹ dạy ở trường và bán chuối lạnh.
Mỗi sáng lúc còn rất sớm, trước khi lớp học bắt đầu, chúng tôi đi chợ, Chúng
tôi khởi đi từ người đàn bà bán dừa già, cùi dầy nước ít. Người đàn bà nạo nửa
trái dừa đầu tiên với một nắp chai nước ngọt đóng đinh vào đầu một khúc gậy
dẹt. Những sợi dừa dài rơi xuống xoắn vòng xinh xắn, như những dây ruy băng,
lên lớp lá chuối trải trên sạp. Bà hàng nói không ngớt miệng và hỏi mãi Maman
cùng một câu hỏi: "Bà cho con bé ăn cái gì mà môi nó đỏ thế?" Để
tránh câu hỏi ấy, tôi tập thói quen mím môi, nhưng tôi quá mê mải vì bà nạo nửa
quả dừa thứ nhì đến nỗi tôi cứ há miệng theo dõi. Bà đặt một chân lên thanh kim
loại dài màu đen nằm một phần trên một chiếc ghế gỗ nhỏ. Không nhìn những chiếc
răng nhọn ở đầu tròn của thanh kim loại, bà nạo vụn cùi dừa nhanh như máy.
Những mảnh dừa bào rơi qua lỗ tròn của thanh kim loại chắc hẳn giống cảnh tuyết
rơi ở xứ ông già Noel, Maman vẫn nói thế, thực ra là điều mẹ của bà vẫn nói. Bà
nói những lời của mẹ để nghe giọng mẹ lần nữa. Và khi nào bà nhìn thấy lũ con
trai chơi đá banh với một lon rỗng, bà không thể không thì thầm “londi” như mẹ
bà.
Đó là từ tiếng Pháp đầu tiên của tôi: “londi”. Trong tiếng Việt, lon có nghĩa
là "cái lon" và đi là "đi khỏi". Trong tiếng Pháp, hai âm
này cùng nhau tạo thành “lundi” trong tai của người phụ nữ Việt. Theo ví dụ của
mẹ bà, bà dạy tôi từ tiếng Pháp ấy bằng cách bảo tôi chỉ cái lon rồi vừa đá nó,
vừa nói “londi” cho lundi. Ngày thứ hai của tuần lễ là ngày đẹp nhất vì mẹ bà
đã qua đời trước khi dạy bà cách phát âm những ngày khác. Chỉ có lundi gắn liền
với một hình ảnh rõ nét không thể nào quên. Sáu ngày còn lại không có sự liên
tưởng nào, vì thế giống nhau hết. Đó là lý do mẹ tôi thường lẫn lộn mardi (1)
với jeudi (2) và đôi khi đảo ngược samedi (3) và mercredi (4).
Tuy thế, trước khi mẹ của bà qua đời, bà đã có đủ thời gian để học cách làm
nước cốt dừa bằng cách ép những mảnh dừa nạo đẫm nước. Những bà mẹ dạy con gái
nấu nướng nói nhỏ giọng, thì thầm để láng giềng không thể trộm những công thức
nấu nướng rồi có thể sẽ rù quến chồng họ cũng bằng những món ấy. Những truyền
thống nấu nướng được truyền lại trong bí mật, như những trò ảo thuật giữa thầy
và trò, mỗi lần một cử động, theo nhịp của từng ngày. Theo quy luật tự nhiên,
các cô gái học cách đo mực nước nấu cơm với đốt đầu tiên của ngón tay trỏ, cắt
ớt hiểm với mũi dao để biến chúng thành những đóa hoa vô hại, gọt vỏ xoài từ
cuống đến ngọn để không đi ngược sớ xơ...
Đó là cách tôi học từ mẹ rằng trong hàng chục giống chuối bán ngoài chợ, chỉ có
chuối xiêm có thể được ép mỏng mà không bị nát và có thể để đông lạnh mà không
bị thâm. Khi tôi mới đến Montréal, tôi làm món ấy cho chồng tôi, người đã không
ăn nó hai mươi năm. Tôi muốn anh nếm lại cuộc phối ngẫu điển hình của đậu phọng
và dừa, hai nguyên liệu ở miền nam Việt Nam có mặt trong món tráng miệng cũng
nhiều như món điểm tâm, Tôi hy vọng có thể phục vụ và bầu bạn chồng tôi mà
không quấy động bất cứ điều gì, hơi giống những mùi vị hầu như không được nhận
biết vì chúng luôn luôn hiện diện.
Mẹ gửi gấm tôi cho người đàn ông này vì tình mẫu tử, cũng như sư cô, người mẹ
thứ nhì của tôi, đã trao tôi cho bà vì nghĩ đến tương lai của tôi. Vì Maman
đang chuẩn bị cho cái chết của bà, bà tìm cho tôi một người chồng có những phẩm
chất của người cha. Một trong những người bạn của bà, đóng vai bà mối, mang anh
đến thăm chúng tôi vào một buổi chiều. Maman sai tôi mời trà, chỉ có thế. Tôi
không nhìn khuôn mặt của người đàn ông ngay cả khi tôi đặt chiếc tách xuống
trước mặt anh. Cái nhìn của tôi không cần thiết, quan trọng là cái nhìn của
anh.
Anh đã đến từ xa và không có nhiều thời gian. Nhiều gia đình đang đợi để giới
thiệu anh cho con gái mình. Anh là người Sài Gòn nhưng đã rời Việt Nam năm hai
mươi tuổi, bằng tàu, trong số những boat people (5). Anh đã sống nhiều năm
trong một trại tỵ nạn ở Thái Lan trước khi đến Montreal, nơi anh tìm được việc
làm nhưng không phải là đất nước. Anh là một trong những người đã sống quá lâu
ở Việt Nam nên không thể trở thành người Canada. Và ngược lại, người đã ở quá
lâu ở Canada nên không thể trở lại là người Việt.
Trích đoạn Mãn (2013) của Kim Thúy
Hồ Như chuyển ngữ từ bản tiếng Anh của Sheila Fischman và tham khảo bản chính tiếng Pháp
(1) Mardi: ngày thứ BaHồ Như chuyển ngữ từ bản tiếng Anh của Sheila Fischman và tham khảo bản chính tiếng Pháp
(2) Jeudi: ngày thứ Năm
(3) Samedi: ngày thứ Bảy
(4) Mercredi: ngày thứ Tư
(5) Boat people: thuyền nhân tỵ nạn Việt