1.
Sau biến cố 30 tháng 4, gặp thời thất nghiệp tôi đi phụ hồ, phụ mộc, phụ chạy
ống nước… kiếm sống thì quen anh A Chúng, gốc người Quảng Đông, cũng dân học
tập cải tạo, từng ở trại hơn chục năm bởi làm bên ngành ANQĐ. Trong đám thợ đi
sửa nhà, cất nhà, anh cựu “mất dạy” là tôi khi làm thợ phụ, thợ vịn cho công
việc nào đó thì phải mất một ít thời gian mới thạo việc. Còn anh Chúng, cũng
gốc lính tráng chứ nào phải thợ thuyền nhưng đã tỏ ra là thợ chuyên nghiệp thật
sự khi chúng tôi lãnh chạy ống nước. Đó là anh đã có thể vẽ ra giấy nhanh, gọn
các sơ đồ hệ thống nước sinh hoạt sẽ làm và tính luôn ra sẽ cần bao nhiêu thước
ống nhựa với kích cỡ nào, bao nhiêu cái cút, măng-xông, rôbinê, tê… (1).
Có lần, khi cà phê cà pháo, tôi nức nở khen tài nghề của anh Chúng:
“Nhà lầu mà anh vẽ sơ đồ chạy ống một hơi ba tầng, phân minh, đâu ra đó ngon
lành thì anh đúng là ông thầy!”
Anh Chúng cười:
“Ông thầy gì, nhờ hồi trước khi vô lính, tôi có đi phụ ông chú làm thầu
khoán nên biết cái vụ chạy ống nước thôi. Còn anh, hồi trước dạy học mới đúng
là sư phụ.”
Nhân lúc rỗi rảnh, ông bạn người Hoa mới phân tích rằng theo từ điển phổ thông,
từ phụ (父)
mang nghĩa “cha, bố, người đàn ông được tôn kính” thì có nhiều từ ghép, nhiều
nghĩa khác nhau (2). Trong đó, từ ‘sư phụ’ tức ‘ông thầy’ đã nghiễm nhiên được
liệt vào hàng ‘ngũ phụ’. Anh Chúng nói rõ hơn, rằng theo dân gian người Trung
Quốc, riêng bên nam giới thì trong cuộc đời mỗi người thông thường có ‘ngũ
phụ’, coi như ‘năm ông cha’ có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng, bởi mỗi vị
này theo cách riêng mà cùng tham dự vào quá trình trưởng thành, phát triển nhân
cách của mình. nên mình phải một mực tôn kính suốt đời, cả lúc các vị ấy còn
sống lẫn khi đã qua đời. Đó là thân phụ, sư phụ, nhạc phụ, dưỡng phụ và giáo
phụ, tức: cha ruột, thầy dạy chữ/dạy nghề/dạy võ…, cha vợ, cha nuôi và vị linh
mục. Riêng giáo phụ chỉ có nơi những tín đồ Thiên Chúa giáo, từ khi tôn giáo
này xuất hiện và truyền đạo tại Trung Hoa qua các linh mục trong nhà thờ (3).
Vừa rồi, dù chẳng ai là học trò ai về một môn học văn hóa hay một nghề
nghiệp nào nhưng do mến nhau, phục nhau mà tôi và anh Chúng gọi nhau là ‘sư
phụ’ hay ‘ông thầy’. Thực tế xưa nay là người đường phố – nhất là giới giang
hồ, cũng không cần đến quan hệ thầy trò về học chữ hay học nghề, chỉ do tình
cảm nể phục kiến thức hiểu biết, tay nghề, cách cư xử… của một người là sẵn
sàng xưng tụng người đó “sư phụ”, “ông thầy”. Chẳng hạn trong một bữa nhậu, có
người nọ thật khéo tay, mở chai rượu chát chỉ với đôi đũa, cần gì tới cái xoắn
“ruột gà”, hay người kia có cách thật hay là khử tiệt mùi hôi của da con vịt
làm món gỏi bằng gừng giã tẩm rượu …, trong bàn đã có người buột miệng gọi ngay
là “Ông thầy!”, “Sư phụ!”.
2.
Xa xưa, bắt đầu từ thời Pháp thuộc, không chỉ dùng để gọi người làm nghề dạy
chữ, dạy nghề, tiếng “thầy” còn được dùng cả với người đáng kính trọng bởi có
học thức hay làm nghề đòi hỏi chữ nghĩa, đặc biệt là tiếng Pháp một thời, cả
những viên hạ sĩ quan quân đội thuộc địa, như: thầy phán, thầy thông (ngôn),
thầy ký, thầy cai, thầy đội…
Người làm một số nghề nghiệp đáng trọng nễ khác, thuộc thành phần trí thức
thời hiện đại hay nho sĩ thời “Nhất sĩ, nhì nông” xa xưa trong xã hội ta cũng
được đại chúng, thay vì gọi bằng tiếng Hán Việt trịnh trọng, thường gọi nôm na
“thầy” cho gọn và dễ hiểu hơn, như: thầy thuốc (bác sĩ/y sĩ), thầy cãi, thầy
kiện (luật sư/trạng sư), thầy võ (võ sư), thầy lang (lương y), thầy thuốc bắc/
thầy thuốc nam (đông y sĩ / y sĩ y học cổ truyền), thầy mằn (đông y sĩ chữa tổn
thương ở xương khớp) và thầy đồ (nho sĩ /nho sư).
Riêng‘thầy đồ’ là các thư sinh môn đồ Nho học, chỉ đỗ bậc Tú tài trong kỳ
thi Hương, còn thất bại trong các kỳ thi cao hơn là thi Hội, thi Đình (mà ra
làm quan), thì thưpờng lui về quê nhà làm thầy dạy chữ Nho cho lớp trẻ hậu bối,
điển hình như thầy đồ Nguyễn Đình Chiểu/ Đồ Chiểu (1822-1888), nhà thơ lớn nhất
của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19, tác giả truyện ‘Lục Vân Tiên’.
Bên cạnh đó, vài nghề không chính thức có tên trong danh sách các ngành, nghề
của Bộ Xã hội, như: thầy chùa, thầy pháp, thầy bói, thầy (xem) tử vi, thầy
(xem) tướng, thầy (xem) phong thủy, thầy tụng, thầy cúng cũng được người mình
gọi là “thầy” do những công việc họ làm được đại chúng coi là uy nghiêm, cao
đạo bởi liên quan đến lãnh vực tín ngưỡng, tâm linh.
Có điều là, nhắm vào lòng tin của bà con trong các tín ngưỡng dân gian –
nhất là của giới bình dân, học vấn hạn chế – một số thầy trong danh sách nêu
trên đã mưu đồ trục lợi, dựng lên các chuyện mạng số, đại hạn xui rủi, hồn vong
theo ám.v.v… để khuyến dụ gia chủ bỏ ra tiền bạc, ngân lượng đưa quí thầy đứng
ra cầu xin với thánh thần hay người khuất mặt, hay vẽ tá lả những lá bùa đuổi
tà, giải nạn!
Điển hình như trong “Nghêu Sò Ốc Hến”, một tích tuồng dân gian rất nổi
tiếng, nhân vật thầy bói Ngao lúc nào miệng lưỡi điêu ngoa, xảo ngôn, như trò
gieo quẻ chỉ hướng cho tên Ốc đi ăn trộm nhà trùm Sò…
Cùng có ý chế diễu, có ý khinh rẻ như tuồng tích trên, có từ ‘thầy dùi’ được
dân gian dùng để gọi những người có tật thích làm “quân sư quạt mo”, tức hay
đưa ra ý kiến chỉ dẫn cho ai đó một cách không-đáng-tin-cậy về mọi lãnh vực.
Đến cách gọi một ai đó ‘thầy tớ’ thì đã lộ rõ sự khinh rẻ, ví dụ: “Học như
mày lớn lên chỉ có làm thầy tớ thiên hạ!”. Có điều là cách dùng từ ‘thầy tớ’ ở
đây là không chính xác bởi từ ghép ‘thầy tớ’ nguyên chỉ dùng để chỉ một cặp
nhân vật thường đi đôi với nhau, gồm một người bề trên, chủ nhân (thầy) và một
người vai vế thấp (tớ) tức người làm công, đi theo hầu hạ, chịu sự sai biểu của
người ‘thầy’; còn có ý khinh rẻ thì cần phải dùng một từ khác, đó là ‘đầy tớ’.
Còn từ ghép ‘thầy phú-lít’ thì hàm ý khôi hài, trêu chọc khi chỉ những viên
cảnh sát (tiếng Pháp: police) chuyên rượt bắt dân bán hàng rong ngoài đường
phố, tém dẹp dân lang thang, ăn xin, ngủ vỉa hè… Đồng nghĩa là một từ khá xưa,
đó là ‘mã-tà’ hay ‘ma-tà’, chỉ lính cảnh sát thời Pháp thuộc.
3.
Nhân đây, vì phụ nữ chiếm đến hơn kém ½ dân số thế giới nên không thể không bàn
đến mối quan hệ nhất định của nữ giới với danh xưng ‘thầy’ cùng các nghề nghiệp
liên quan, nhất là nghề dạy chữ.
Xa xưa, xã hội thời phong kiến Trung Quốc đã không cho phụ nữ học hành, nên
rất hiếm phụ nữ biết chữ (Nho) cùng kinh, sử Nho giáo… Mà đã không có ‘sư phụ’
(dạy chữ Nho) thì bộ ‘ngũ phụ’ không tính được cho phụ nữ cũng như khả năng làm
‘thầy dạy chữ’ của nữ giới cũng bị tước bỏ (trừ việc các bà có thể dạy nữ công
gia chánh hay một số nghề thủ công).
Cũng do vậy, các phân tích ở phần trên cho thấy tiếng ‘thầy’ hầu như luôn áp
dụng cho hay đi liền với nam giới – từ Hán Việt‘sư phụ’ dẫn thẳng tới phiên
nghĩa nôm na là ‘ông thầy’. Vậy về từ ‘sư mẫu’ vào thời xưa cũng thịnh hành thì
sao, có cách gọi nôm na ‘bà thầy’ tương ứng không? Hay thời nay, trường hợp
người thầy (dạy chữ, dạy võ, dạy nghề…) là nữ giới, hay phụ nữ làm một số nghề
nghiệp trí thức, đáng nễ trọng (các ‘sĩ’ – như bác sĩ, hay các‘sư’ – như luật
sư) thì cách gọi nôm na, đại chúng như thế nào?
Trước hết, về tiếng xưng Hán Việt ‘sư mẫu’,những ai mê truyện kiếm hiệp
Trung Quốc của văn hào Kim Dung (Hồng Kông) ngày trước hẳn không khỏi nhớ tới
hai nhân vật chính, cùng giữ vai ‘sư mẫu’ hết sức gây ấn tượng về số phận và
tính cách. Một là Tiểu Long Nữ, chưởng môn phái Cổ Mộ trong truyện ‘Thần điêu
hiệp lữ’, ban đầu nhận Dương Quá (nhỏ tuổi hơn nàng) làm đệ tử duy nhất, để rồi
bằng một tình yêu thuần khiết, nàng đã vượt bao khổ đau, chia cách để nên phu
thê với họ Dương, để suốt đời cùng nhau hành hiệp giang hồ… Kế đến Nhạc Linh
San, con gái cưng của chưởng môn phái Hoa Sơn trong truyện ‘Tiếu ngạo giang
hồ’, ban đầu yêu sư huynh Lệnh Hồ Xung, nhưng khi gã tiểu tử Lâm Bình Chi gia
nhập phái Hoa Sơn thì từ chỗ xem Lâm Bình Chi như để tử, lần hồi nàng đã quên
sư huynh mà yêu và lấy họ Lâm làm chồng, để rồi số phận nàng chỉ còn toàn những
khổ đau khi chồng và cha ruột âm mưu tranh giành Tịch Tà kiếm phổ; nàng đã bỏ
đi tu nhưng cuối cùng cũng bị gã chồng nhẫn tâm giết chết…
Nếu đem so với ngôn ngữ thời nay, tiếng xưng các ‘sư mẫu’ dạy võ thuật, kiếm
pháp của Kim Dung như trên sẽ tương đương với ‘nữ võ sư’ hay ‘nữ huấn luyện
viên võ thuật/kiếm thuật’, tương tự các chức danh tiếng Hán Việt đã phái tính
hóa khác, như: nữ giáo sư, nữ bác sĩ, nữ giảng viên, nữ chuyên gia…, Còn tiếng
xưng nôm na “bà thầy” tuy rất ít thông dụng nhưng vẫn tồn tại, như các câu nói
kiểu: “Phải đi xin điểm bà thầy Anh văn thôi!”, hay “Ở Gò Vấp có bà thầy thuốc
nam trị bịnh con nít hay lắm!”…
Riêng người viết bài đã có lần nghe danh xưng ‘thầy’ được dùng một cách rất
cá biệt tại tịnh xá Ngọc Phương (đường Lê Quang Định, Q. Gò Vấp) từ câu trả lời
của một ni cô: “Ý chú muốn gởi hủ cốt người thân tại chùa? Vậy để cô vào báo
lại cho thầy trước đã!”- ‘thầy’ ở đây chỉ vị ni sư viện phó của tịnh xá.
4.
Để kết thúc loạt bài MỘT TIẾNG KÊU ‘THẦY’này, xin phép viết thêm một đoạn tự sự
ngắn.
Bấy lâu nay, cả trong những lúc quẩn bách, khó khăn nhất, lúc nào tôi cũng
thầm nhớ ơn hai đấng sinh thành đã cho mình ăn học đàng hoàng từ thuở nhỏ đến
tuổi trưởng thành mà có chút đỉnh chữ nghĩa để biết cách sống, cư xử ở đời. Có
điều là ngoài nghề ‘thầy giáo’ dạy các môn Văn, Sử Địa (sau năm 1970, tốt
nghiệp và cả khi vào lính), trong đời tôi lại lơ mơ dính vào 2 – 3 kiểu làm
‘thầy’ nữa.
Đầu tiên, trước khi ra trường tôi có đi làm thêm bán thời gian với nghề
‘thầy cò’ (cò: đọc theo âm đầu của từ tiếng Pháp correcteur), là công việc sửa
bản in thử (morasse) từng trang tại nhà in cho một số nhật báo, tuần báo ở Sài
Gòn xa xưa. Và sau khi ra trường, mùa hè đỏ lửa 1972 tôi đã nhập ngũ rổi nhận
sự vụ lịnh về trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, thì ngoài chức vụ chính thức
là “sĩ quan giáo sư văn hóa vụ” tại trường, có lúc tôi còn là thầy dạy khiêu vũ
(không dám xưng là vũ sư), dạy vài bước Slow, Chachacha, Bebop, Tango… căn bản
cho vài đồng nghiệp nam ở trường.
Còn sau tháng 4-75, như đã kể, tôi đã từng được làm
thầy-giáo-phụ-chạy-ống-nước!
Đã 70 năm trôi qua, nhìn lại những bận làm ‘thầy’ này nọ, trừ làm ‘thầy
giáo’ ra thì các trường hợp còn lại là “nghề chọn người” chứ không phải “người
chọn nghề”. Nhưng dù run rủi thế nào, ít nhiều tôi đã làm được đúng theo tâm
niệm trong đời, rằng hễ đã làm việc gì, tham gia vào nghề gì cũng ráng làm cho
tốt, cho thạo, cho chuyên, chứ không nghiệp dư, miễn cưỡng.
Một điều nữa, đúng như người xưa đã có câu “Muốn làm thầy cứ làm trò trước
đã!”, rất có ý nghĩa nhân sinh là những lúc tôi làm học trò học một số nghề
nghiệp hay công việc.
Như trước khi tốt nghiệp ra trường, kiếm được việc làm thêm là ‘thầy cò’ thì
vào nhà in, lập tức tôi phải học cách sửa bản morasse, học thuộc cách đánh các
dấu hiệu theo qui ước (signes, cho cả báo tiếng Việt lẫn báo tiếng Pháp), sao
cho thợ sửa bản in có thể nhận ra các chỗ sai hay thiếu chữ, chữ sai dấu hỏi
ngã, chỗ xuống dòng, dấu chấm, dấu gạch nối không đúng..v.v…
Như trong trại học tập cải tạo, tôi được đổ nhiều mồ hôi học nấu ăn ở bếp
tập thể và gánh phân bắc hay phân bác (từ hố xí 2 ngăn của trại viên), hòa với
nước đường mương đem tưới, bón cho rau muống khô trồng “tăng gia sản xuất” dưới
hàng rào kẻm gai…
Như sau khi học tập cải tạo về, phải đi nông trường ở Củ Chi, dù cũng mệt mề
nhưng rất thú vị, bổ ích cho một người dân thành thị, chuyên lao động trí óc là
tôi khi được học toàn bộ từ A đến Z cách người nông dân cất một căn nhà lá ở
vùng thôn quê, từ cách cầm/buộc sợi lạt từ tre lồ ô chẻ mỏng ra, cách tính toán
làm bộ vì kèo, hiểu cây trính, con sẻ nằm ở đâu, cách lợp mái bằng lá chầm hay
lá xé, cách đắp vách đất sét trộn rơm vào sườn khung tre gồm cây mầm và cây
trỉ, cách sửa mái lá đưng hay lá tranh bị dột mưa…
Phạm Nga
(Mùa đông Sydney)
(1) Phụ tùng làm hệ thống ống nước, gọi theo âm và nghĩa tiếng Pháp: coude (cái nối hình chữ L), manchon (cái nối thẳng), robinet (vòi nước) và cái nối ống thẳng góc nhau theo hình chữ ‘T’.
(2) Tự điển Hán Nôm: nói về chữ phụ 父.
(3) Tôn giáo tại Trung Quốc, Wikipedia.