(Kẻ hậu sinh cung kính lạy cụ Đồ Chiểu)
Hỡi ơi! Thuế nặng phí dày, lòng dân bải hoải.
Trăm năm công đánh giặc, chưa chắc mà nay ở ngôi cao,
Mấy đời móc túi dân, thân tuy béo tiếng tham như chó
Nhớ quân bay xưa:
Con cái nhà ai,
Ăn no dửng mỡ.
Quen thân nhung lụa, đâu biết lòng dân,
Chỉ biết chọi nhau, ở trong biệt phủ.
Việc hát, việc hò, việc đàn, việc đúm… thân vốn quen rồi,
Học ăn, học nói, học chữ, học nghề… mắt đâu thèm ngó.
Nghiệp ăn hại kết tinh từ kiếp trước, cha quan to thì con tất quan to,
Mùi tham lam đã ngấm tận cao lâu, thích hối lộ như mèo hoang thích chuột.
Đứng thấy đường xe đông như nước, muốn lập trạm thu;
Ngồi xem ngân sách cạn như chùi, muốn nâng giá điện.
Một mối lợi danh ngồn ngộn, há để ai cướp mất của ai,
Hai tầng quyền lực ngút trời, đâu dung lũ dân đen khốn khó.
Nào sợ ai đòi, ai bắt? phen này xin thỏa sức tung hoành,
Chẳng thèm biết ngượng, biết ghê, chuyến này quyết ra tay vơ vét.
Khá ngon thay:
Vốn chẳng phải quan to, quan nhỏ, khối thằng theo đóm được an tàn,
Chẳng qua là con bạc, con buôn, quan hệ tốt thiếu gì dự án.
Mười tám môn hối lộ, nào biệt thự, nào nhà,
Chín chục triệu dân đen, cứ tha hồ móc túi.
Ngoài cật đã có tờ quyết định, nào đợi dân kịp trở tay,
Trong xe chồng một đống hồ sơ, đâu cần đến lương tri, công lý.
Cửa quan đã đẻ ra cơ chế, liền sinh ra nhóm nọ nhóm kia,
Nhân danh người nhà tướng, nhà quan, chả cần vốn cũng tay không bắt giặc.
Chi nhọc thương thảo với giá này, giá nọ, lấn vườn, cướp ruộng, coi giặc cũng như dân,
Nào sợ thằng Vươn bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, dễ dàng như tập trận.
Kẻ dùi cui, người roi điện, làm cho dân lành, con nít hồn kinh,
Bọn hè trước, lũ ngõ sau, thương thay lão già gãy cẳng.
Tấm gương đạo đức đâu rồi?
Ai biết tính người vội bỏ.
Một kiếp quan trường rằng chữ lợi, ai hay quả báo nhãn tiền,
Trăm năm địa ngục ấy chữ nguy, nào đợi nhân nào quả nấy.
Núi sông mờ mịt, mà cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Thiên hạ thái bình, để già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Bên ngoài giặc cướp, Hán gian ùa tới, mà biển khơi đã chết còn dày đặc âm binh,
Bên trong quan tham, giữ ghế hành dân, mà hiệu lực nhất nhất theo kim tiền chỉ đạo.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đấc ngọn rau ơn xương máu, tài bồi cho cả nước nhà ta,
Bát cơm manh áo sống ở đời, tối mắt mấy đời cha con nó.
Vì ai khiến dân đen khốn khổ, thuế phí chồng nhau,
Vì ai xui vườn ruộng tan tành, động mồ động mả?
Sống làm quan tham lam vô đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
Chết làm ma ở chốn cửu tuyền, ngửi phân lợn, uống nước đồng, nghe càng thêm hổ.
Thà chưa thác mà đặng lòng sám hối, ăn năn may tổ phụ còn vinh;
Hơn sống dai mà chịu chữ cẩu quan, ở với nhân dân cũng ngượng.
Thôi đi thôi!
Đường quan lộ, năm năm ư một khóa, có tham lam cũng lưu lại chút tình,
Nẻo công danh, một kiếp đặng một lần, cẩn thận kẻo sa phải vòng lao lý.
Đau đớn bấy! người tình ngồi tiếc của, buổi vàng son sung sướng đâu rồi,
Não nùng thay! vợ mướp chạy nuôi chồng, con xế cũ đậu ngoài song sắt.
Ôi!
Một khóa quan tham;
Nghìn năm nhục nhã.
Giặc cướp vẫn giăng đầy đâu đó, ai làm cho bốn phía mây đen,
Ông cha ta còn gửi cốt nơi đây, ai cứu đặng mấy phường con đỏ.
Sống mà cả nước non đều hận, oan gia đầy, muôn vạn kiếp còn theo,
Thác đừng trông đền miếu để thờ, tiếng gian trải muôn đời ai cũng chửi.
Sống tạo nghiệp, thác thì trả nghiệp, linh hồn theo ám cháu con, muôn kiếp không ngóc đầu lên được,
Sống thờ giặc, thác phải thờ ma, lời Phật dạy đã rành rành, một chữ “đọa” đủ mà cảnh tỉnh.
Hỡi ơi!
Nước mắt dân lành lau chẳng ráo, thương vì hai chữ dân oan,
Cây hương liệt sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu bội nghĩa.
Hạ xuống mà hưởng!
Phạm Lưu Vũ