Lời nói đầu: Ðây là một câu
chuyện có thật xảy ra tại Thái Lan năm 1982. Tác giả ghi lại theo ký ức của
mình. Những đối thoại, cách nói và nhân vật đều được viết một cách trung thực
như tác giả được biết khi phụ trách việc điều tra trong vai trò một Sĩ quan An
ninh thuộc Toà Ðại sứ Hoa Kỳ ở Bangkok. Các tài liệu này thuộc loại TUYỆT MẬT
của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, nay đã được giải mật sau hơn 30 năm nên tác giả mới ghi
lại thành truyện ngắn. – VUG
(tiếp theo và hết)
Tháng 2 năm 1973 anh đã được giải
ngũ và vào làm việc cho Tòa Đại sứ Hoa Kỳ Saigon; văn phòng của anh nằm trên
đường Tự Đức, Tỉnh Tây Ninh. Ông Walter Mac Intosh là xếp trực tiếp của anh ở
Tây Ninh…
Sau khi rời nhà hàng Pháp Le Cheval,
trời Bangkok ban đêm trong veo với chút gió mát và thoang thoảng hương thơm của
hoa lan phảng phất trong gió nhẹ khiến lòng khoan khoái. Bangkok ban đêm rực rỡ
ánh đèn muôn màu sắc chớp nháy liên hồi trông thật vui mắt; Vọng Các đúng là
một thủ đô hoa lệ. Vào trong xe, ông Mac Intosh hỏi:
– Hai ông có muốn đi chơi đâu nữa
không?
– Ồ đêm nay chúng tôi còn bận phải
khai thác số tài liệu vụ Antonov 26; rất cần thiết cho việc điều tra những cán
binh VC trong chuyến bay này. Vũ nói.
– OK. Vậy tôi sẽ chở 2 ông về nhà
nhé. Ông McIntosh nói.
Xe chạy trên đường Sukhumvit tiếp
vào giao lộ Express Way Chaleum Manarakhon, quẹo trái vào đường Pluenchit, xong
quẹo trái vào đường Wireless; cứ chạy thẳng trên đường nào cho đến khi nhập vào
đường Sathorn Tai thi quẹo trái vào Soi Sukhothai, căn biệt thự thứ 3 bên trái
là nhà của Vũ. Ông Mac Intosh cho xe ngừng trước cổng nhà để Vũ và Ngân xuống
xe. Ông nói:
– Đến nhà rồi. Chúc hai ông ngủ
ngon. Tạm biệt nhé.
Vũ và Ngân cùng nói: Have good
night. Bye. Bye.
Người Thái tên Chô phụ trách làm vườn
và gác cổng chạy ra mở cổng; anh chắp hai tay trước ngực chào theo kiểu Thái:
“Sawat đi khấp hổ ná” (Dạ xin chào ông xếp). Vũ chào lại và bảo anh ta mang
hành lý của Đào Sanh Ngân vào nhà; còn Vũ cầm bao plastic đựng các tài liệu của
vụ Antonov 26 cùng đi vào nhà. Vũ dặn người Thái mang hành ly của Ngân vào
phòng ngủ phía bên trái vì Ngân sẽ ở phòng đó.
Ngân và Vũ ngồi ở phòng khách, người
nhân viên Thái mang hai chai nước lạnh ra bàn cho 2 người rồi lui ra phia sau.
Ngân hỏi Vũ:
– Nhà này có mấy phòng vậy toa?
– Có 3 phòng ngủ, chỉ có mình moa ở.
Vũ đáp.
– Toa sướng thật. Ở Bangkok có nhà
riêng rộng rãi và khang trang quá. Toa thuê hay sao?
– Đâu có, đây là nhà do Tòa Đại sứ
thuê. Moa chỉ việc ở thôi. Căn này là căn thứ 3 moa dọn đến ở. Vũ kể cho Ngân nghe,
vào năm 1981 lúc mới đến Bangkok, moa ở 1 căn biệt thự của 1 Đại tá Cảnh Sát
Hoàng Gia Thái trên đường Suthvichai thuộc quận 12. Ở đó được 3 tháng thì dọn
sang căn nhà nằm trên 1 con hẻm thuộc đường Si Phaya road gần Trường Đại Học
Chulalongkorn (25) Cách đó không xa có một ngôi chùa Phật giáo Royal Jade
Pagoda (Chùa Cẩm Thạch Hòang Gia), có 1 ông sư Việt Nam tên là Thích Thiện Dũng
ngụ trong đó. Sư Thiện Dũng (26) là giáo sư giảng dạy ở Đại học Chulalongkorn.
Vũ quen Sư Thiện Dũng vào đầu năm
1982 khi đọc những tin tứ về ông quậy tưng bừng trong Tòa Đại sứ; một hôm tình
cờ đến thăm Chùa Royal Jade Pagode và được ông ra tiếp; khi nghe ông giới thiệu
là Thích Thiện Dũng thì mừng quá nên trò chuyện với ông bằng tiếng Việt. Ông
mời Vũ vào phòng khách và đem những bài thơ ông sáng tác ra khoe Vũ… Vũ thường
đọc những bài thơ chống cộng kịch liệt của ông ký tên Thiện Dũng hoặc Thảo Bình
được đăng tải trên tờ báo Văn Nghệ Tiền Phong ở Virginia do ông Hồ Anh gửi sang
Thái tặng Vũ. Trên báo Bangkok Post cũng thường xuyên đăng tải những bài tường
thuật về nhà sư Việt này vì ông ròng rã nhiều năm tranh đấu với Tòa Đại sứ Mỹ
để được đi định cư ở Hoa Kỳ; nhưng Tòa Đại sứ từ chối cho ông vào Mỹ với lý do
ông đã được định cư hợp pháp ở Thái Lan và ông cũng đã có công ăn việc làm là
giáo sư của Đại Học Chulalongkorn. Ông nhất định không chịu và lập luận rằng
Thái Lan chỉ là nước tạm dừng chân chờ đi định cư như bao nhiêu người tị nạn
khác thuộc ba nước Việt, Miên, Lào. Cuối cùng cuối năm 1982 Sư Thiện Dũng cũng
được Mỹ cho đi định cư ở Panoma, California. Mặc dù là một nhà tu Phật giáo,
nhưng thơ ông chống cộng triệt để và lời thơ rất sắt máu, lúc nào cũng đòi chặt
đầu cộng sản. Quen với sư Thiện Dũng nên Vũ đã quen với một cô sinh viên Thái
tên là Kannika đang học năm thứ hai Đại học Chulalongkorn ở phân khoa báo chí.
Khi được sư Thiện Dũng giới thiệu Vũ là một nhà báo, nhà văn và nhà thơ của
Saigon trước năm 1975 nên cô rất thích thú, cứ bám lấy Vũ để hỏi han về kinh
nghiệm làm báo và đủ thứ chuyện liên quan đến báo chí, văn thơ v.v…. Nhân dịp
này Vũ cũng nhờ cô chỉ thêm về đàm thoại tiếng Thái để giao dịch… nhờ thế mà
tiếng Thái của Vũ tiến bộ nhiều. Còn căn nhà này moa mới dọn vào hôm tháng tư
năm 1982, cũng chưa lâu.
– Vậy là toa sướng quá rồi. Chẳng bù
với moa ở trên Trại Panat Nikhom chỉ có một phòng ngủ bằng tôn ở bân ngoài
trại, nóng khủng khiếp. Tòa Đại sứ cũng trả tiền thuê anh người Thái làm người
giúp việc cho toa hay sao?
– Đúng vậy. Anh ta chỉ phụ trách làm
vườn và canh cổng. Ban ngày còn có một cô người Thái con trẻ lo việc nấu nướng,
bếp núc.
– Trời! Đã vậy ta. Ngân xuýt xoa.
– Cái cô Thái này cũng ngộ lắm. Có
bữa mình ngán cơm, muốn ăn cháo nên bảo cô ta nấu “Khao tôm cầy” (Cháo gà), cô
ta ngày nào cũng nấu cháo gà cho ăn. Moa phải kêu thôi nấu cô ta mới chịu
ngừng. Lần trước moa muốn ăn “khao niểu cầy dang” (xôi gà nướng), cô ta cho ăn
liên tiếp 2 ngày, ngán chết bà. Moa phải cho cô ta mang về cho gia đình cổ ăn;
còn mình ra phố ăn món khác.
– Cổ còn trẻ không? Có gia đình gì
chưa?
– Cô ta mới 19 tuổi. Còn độc thân và
cũng chưa có người yêu.
– Vậy sao toa không nhào vô còn chờ
gì nữa.
Vũ cười cười nói:
– Moa đã có một cô bồ người Thái
đang là sinh viên năm thứ hai ở Đại học Chulalongkorn. Tiếng Thái là mình học
từ cô ấy. Vũ đáp. Thôi! Toa vào đi tắm rồi thay quần áo; moa cũng vào phòng
tắm, xong còn phải làm việc với mớ tài liệu của phi cơ Antonov 26 nữa kẻo khuya
quá.
Vũ và Ngân trải tất cả những giấy tờ
liên quan đến vụ phi cơ Antonov 26 của VC trên mặt bàn ăn để chuẩn bị chơi trò
puzzle, ráp nối từng mảnh giấy bị các thành viên trên chuyến bay này xé nhỏ.
Sau 3 tiếng đồng hồ ráp nối, hai người đã ráp được toàn bộ thẻ chứng minh cán
bộ và thẻ sinh hoạt đảng của 12 người; trong đó có hình từng người, tên họ và
cấp bậc, quê quán v.v… Ngoài ra Vũ còn ráp thành một tài liệu có đóng dấu mà đỏ
Tuyệt Mật là 3 trang giấy pelure mỏng đó là BÁO CÁO TÌNH TRẠNG QUÂN SỐ CỦA
CHIẾN TRƯỜNG E (Chiến trường Thái Lan do VC trực tiếp chỉ đạo với danh xưng là
Cộng Sản Bắc Thái). Đây là những tài liệu cực kỳ quan trọng sẽ giúp cho Vũ và
Ngân dễ dàng hơn trong việc điều tra.
Ngân ngáp ngắn ngáp dài, vươn vai
nói:
– Thôi đi ngủ Toa ơi! Gần 3 giờ sáng
rồi. Mai còn phải làm việc nữa.
– OK. Toa cứ vào ngủ trước đi, Moa
còn bận dán lại và chụp hình những giấy tờ này đã; xong moa sẽ đi ngủ ngay.
Vũ cầm tờ tài liệu đóng dấu TUYỆT
MẬT màu đỏ, đọc đi, đọc lại thì thấy đây là bản báo cáo tình trạng quân số mật
của cộng sản Bắc Thái do sự lãnh đạo của tên Thượng tá Nguyễn Xuyên (27); lực
lượng dưới quyền của Nguyễn Xuyên gồm có 2 Trung đoàn thiếu mang danh hiệu là
Đoàn 71 và Đoàn 72; 1 Trường tiếng Thái để dạy cho binh sĩ dưới quyền của
Xuyên; cùng một đơn vị không mang phiên hiệu mà chỉ đề là “Quân số bí mật”. Vũ
giải đoán là số can binh VC đã học xong khóa tiếng Thái, sau đó được cài cắm
vào sâu điều lắng trong những cộng đồng người Việt và Thái để hoạt động hợp
pháp.
Theo bản báo cáo, quân số của chiến
trường E hiện có 2,134 người chia ra như sau:
– 1 cấp Thượng tá (Nguyễn Xuyên)
– 5 cấp Trung tá
– 12 Thiếu tá
– 24 Đại úy
– 30 Trung úy
– 44 Thiếu úy
– 25 Chuẩn úy
– 68 Hạ sĩ quan các cấp
– 1,675 binh sĩ
– 250 người quân số ở Trường Tiếng Thái
Tổng số này bao gồm cả quân số của
Đoàn 71 và Đoàn 72 (27). Cuối bản báo cáo, Thượng tá Nguyễn Xuyên tường trình
tình trạng khẩn trương ở chiến trường E, các cơ quan nghiệp vụ của Mặt trận đã
bám trụ được các vùng có nhiều Việt kiều cư ngụ như ở tỉnh Prachinburi, Nakhon
Ratchasima, Chonburi, Ubon Ratchathani, Udon Thani, Nong Khai, Klongyai và ở
khu Samsen thuộc Bangkok. Cơ sở ta đã bám trụ được các địa bàn và cấy được
nhiều nòng cốt mật; để triển khai công tác, Mặt trận cũng xin A 40 và A 50 bổ
sung thêm quân cho chiến trường E.
Vũ chụp hình tất cả các tài liệu
(anh và Đào Sanh Ngân đã ghép và đã được dán lại) vào máy ảnh để lưu giữ. Vũ
nghĩ sáng ngày mai, trước khi đến BTL Không quân Hoàng gia Thái để thẩm vấn đám
tù thuộc chuyến bay Antonov 26, anh sẽ vào US Embassy trước để copy mớ tài liệu
này thành 3 bản: 1 cho ông Mac Intosh, 1 cho Đại tá Gary và 1 cho Vũ và Ngân;
còn bản chính sau khi hoàn tất việc điều tra sẽ phải trả lại cho bên Thái Lan.
Sau đó Vũ cất tất cả tài liệu vào
trong tủ rồi vào phòng ngủ…
Sáng ngày hôm sau khi chiếc xe du
lịch màu trắng của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ đến nhà đón Vũ và Ngân đi sang BTL Không
quân Thái; Vũ bảo người tài xế đưa hai người vào Tòa Đại sứ trước vì anh muốn
photo copy tài liệu. Sau khi copy xong, anh chuyển cho Ông Mac Intosh 2 bản, 1
của Ông MacIntosh và 1 của Đại tá Gary. Ông Mac Intosh gọi Ngân lại cho biết
anh phải quay về Trại Panat Nikhom ngay vì hồ sơ đi Mỹ của Ngân và người bồ của
Ngân đã được sắp xếp chuyến bay sẽ đi vào ngày mốt. Ngân nói hành lý còn để ở
nhà của Vũ. Ông Mac Intosh nói sẽ chở Ngân về nhà Vũ lấy, sau đó sẽ có Trung úy
Ram Ruong, sĩ quan liên lạc Thái Lan chở Ngân về Trại Panat Nikhom. Bắt tay từ
biệt Ngân xong, Vũ ôm đống hồ sơ của những cán binh VC trong chuyến bay Antonov
26 đi đến BTL Không quân Thái Lan, rồi được Thiếu tá Vi của Phòng 2/BTL Không
quân Hoàng Gia Thái chở bằng xe pickup truck sang khu Trại giam để anh tiếp tục
thẩm vấn số cán binh VC trong phi vụ bí mật Antonov 26.
Khi đến Trại giam, Đại úy Muangsuk
chỉ huy nhà giam giao cho Vũ 1 lá thư do Nguyễn Ngọc Đại viết vào mặt trong tờ
giấy bạc lót bao thuốc lá nhờ lính canh gác trao cho Lương Xuân Chương. Nội
dung thư như sau:
“Báo cáo các đồng chí. Hôm nay tôi
gặp một tên sĩ quan Ngụy làm việc; tên này rất có trình độ chuyên môn, hắn nắm
vững lý luận chính trị Mác Lê, kết hợp với Tư Tưởng Hồ Chủ Tịch và lý thuyết
cách mạng để đấu trí và đấu lý với ta. Người yếu lý luận sẽ bị y bẻ gãy. Các đồng
chí phải cẩn thận với tên này mới được. Yêu cầu các đồng chí trung kiên, giữ
khí tiết cách mạng”
Vũ cám ơn Đại úy Muangsuk và dịch
nội dung lá thư cho Thiếu tá Vi cùng Đại úy Muangsuk biết. Điều này chứng tỏ
tên Nguyễn Ngọc Đại đã thấm đòn khi bị Vũ thẩm vấn. Anh dặn 2 vị sĩ quan Thái
Lan phải rất cẩn thận với những tên cán bộ cộng sản VN này và sau này nếu chúng
có nhờ chuyển thư từ, cứ nhận và giao lại cho Vũ.
Vũ gọi người lính Thái mang Lê Văn
Thái lên cho anh thẩm vấn. Anh đã có giấy chứng minh quân nhân của Lê Văn Thái
với cấp bậc Trung úy và đơn vị là Cục Quân Quân báo trực thuộc Tổng Cục Tham
Mưu/ Bộ Quốc Phòng Việt Nam ở Hà Nội (Trước đây Thái chỉ khai là Trung sĩ Bảo
vệ của Cục Hậu Cân thuộc cơ quan A 40 ở Phnom Penh) (**Ghi Chú**)
Người lính Thái Lan dắt Lê Văn Thái
vào phòng làm việc của Vũ. Thái đứng nghiêm chào xong ngôi xuống ghế đối diện.
Vũ hỏi:
– Sao? Hôm qua tôi cho anh về suy
nghĩ, vậy anh có suy nghĩ ra sao nói cho tôi nghe.
Thái hơi lúng túng, nhưng vẫn giữ
thái độ ngoan cố cố hữu:
– Thưa anh tôi đúng là được học
nghiệp vụ bảo vệ ạ.
Vũ đẩy tấm Giấy Chứng minh quân nhân
của Thái ra trước mặt y:
– Anh là Lê Văn Thái, Trung úy thuộc
Cục 2 (Cục Quân báo) của Bộ Bộ Tổng Tham Mưu Hà Nội. Chúng tôi có Giấy Chứng
minh quân nhân có hình của anh ở đây, sao anh dám khai man là Trung sĩ và đi
học bảo vệ 6 tháng? Nếu anh là sĩ quan của Phòng Bảo Vệ/ Cục Chính trị thì lại
là vấn đề khác. Việc anh học 6 tháng nghiệp vụ bảo vệ của Cục Chính Trị là
đúng; nhưng anh thuộc Cục Tham Mưu (Phòng Bảo vệ thuộc Cục Chính trị tương
đương như An Ninh Quân Đội của VNCH)
Mặt Thái tái xanh vì không ngờ bị Vũ
lật tẩy hết đường chối cãi. Hắn lắp bắp:
– Dạ vì em sợ khai cơ quan Quân báo
thì nguy hiểm cho bản thân anh ạ.
– Các anh ở phía cộng sản, lúc nào
cũng bị tuyên truyền nhồi sọ là nếu khai thật cơ quan anh phục vụ thì sẽ bị
nguy hiểm đến tính mạng; nhưng các anh đã lầm. Chúng tôi thuộc thể chế tự do,
luôn tôn trọng quyền con người; các anh khai man trong khi giấy tờ các anh đều
nằm trong tay chúng tôi; mọi người đều có thẻ chứng minh quân nhân có hình ảnh
và có giấy sinh hoạt đảng thì làm sao các anh man khai được? Nguyện vọng của
các anh đều xin được trả về nước, mà các anh khai man lý lịch không trùng khớp
thì làm sao các anh được chính phủ Thái Lan trả về nước?
– Dạ. Từ nay em xin khai thật hết ạ.
Xin anh giúp cho em sớm được trở về với gia đình ạ.
– Thôi được. Tôi sẽ cho anh khai lại
và nhớ là không được che giấu điều gì vì che giấu thì sẽ ảnh hưởng đến thời
gian anh bị kẹt ở Thái sẽ lâu hơn.
– Dạ em hiểu rồi ạ. Em sẽ khai tất
cả sự thật ạ. Thái trả lời, nét mặt và ánh mắt có vẻ thành thật…
Sau khi rà soát lại lý lịch của Lê
Văn Thái, Vũ bắt đầu đi vào những điểm chính trong ngành quân báo của đương sự
và đơn vị của Thái ở Cục 2/ Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam ở Hà Nội.
– Anh phục vụ ở bộ phận nào của Cục
2?
– Thưa anh em phục vụ ở Bộ Tham Mưu/
Cục 2 ạ.
– Bộ Tham Mưu/ Cục 2 cấp số tương
đương là gì?
– Dạ cấp số tương đương Quân đoàn và
trú đóng ở Đường Phạm Hùng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
– Cơ cấu tổ chức Cục Quân báo ra
sao? Có bao nhiêu cơ quan trực thuộc?
– Thưa anh. Về nhiệm vụ của Cục 2 có
2 nhiệm vụ chính là:
a/ “Lực lượng Tình báo Quốc phòng là
lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh
vực tình báo chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kĩ
thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội, thu thập và xử lý tin liên quan
đến lợi ích quan trọng, sống còn của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, góp
phần tham mưu cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối
ngoại và các chủ trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược…” (Điều 1 chương 1 của nghị định 96/CP).
b/ “Đối tượng và mục tiêu của Lực
lượng Tình báo Quốc phòng là những nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó đặc biệt chú ý đến các quốc gia,
tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài nước có âm mưu hoạt động, đe dọa
chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”
(Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP).
Về tổ chức của Cục Quận báo (Cục 2)
Nhân sự lãnh đạo Cục 2 gồm có 1 Cục trưởng: Trung tướng Phan Bình bí danh Ba
Hùng, 1 Chính ủy và 5 Cục phó cùng 1 phó Chính ủy. Các cơ quan chuyên ngành thì
có:
a/ Bộ Tham Mưu
b/ Khối Chính Trị cấp Quân đoàn
c/ Khối Hậu Cần cấp Sư đoàn
d/ Khối Kỹ Thuật cấp Sư đoàn
e/ Khối 11 trú đóng ở Thành phố Đà Nẵng
f/ Khối 12 trú đóng tại 18D – Cộng Hòa, Phường 4, Quận Tân Bình, Thành phố Hồ
Chí Minh
g/ Khối 16
h/ Khối 25
i/ Phòng B
j/ Phòng C
k/ Phòng D
l/ Phòng E
m/ Phòng F
n/ Học Viện Khoa Học Quân Sự trú đóng tại số 322, đường Lê Trọng Tấn, phường
Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội
o/ Trường Cao Đẳng Trinh Sát
p/ Viện Cơ Cấu Chiến Lược
q/ Viện nghiên cứu chiến lược kỹ thuật thông tin viễn thông.
r/ Viện B 26
s/ Viện 70
t/ Viện 78
u/ Trung tâm 75 trú đóng ở Lai Xá, Xã Kim Chung, Huyện Hoài Đức, Thành phố Hà
Nội.
v/ Trung tâm 701 trú đóng ở phường Liên Mạc/ quận Bắc Từ Liêm/ thành phố Hà
Nội.
x/ Lữ đoàn K 3
y/ Lữ đoàn 74 trú đóng ở Đà Nẵng.
Những điệp viên do Cục Quân Báo (Ghi
chú: Cục 2, sau năm 1995 trở thành Tổng Cục 2) cài cắm trong chính quyền VNCH
đáng kể gồm có:
1/ Phạm Xuân Ẩn tên thật là Phạm Văn
Thành, biệt danh khác là Hai Thành. Ông từng là nhà báo và phóng viên cho
Reuters, tạp chí TIME, New York Herald Tribune, The Christian Science
Monitor.., bí danh Trần Văn Trung hay Hai Trung, mật danh X 6. Năm 1990, Ẩn
được phong cấp Thiếu tướng. Đã qua đời. (sinh ngày 12 tháng 9 năm 1927; chết
ngày 20 tháng 9 năm 2006 tại Saigon)
2/ Vũ Ngọc Nhạ thật là Vũ Xuân Nhã,
sinh 30 tháng 3 năm 1928 tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (quê cha)
nhưng từ nhỏ sống tại quê mẹ – Giáo xứ Phát Diệm, Ninh Bình. Nhạ còn có các tên
khác và bí danh như Pièrre Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Ngọc Nhã, Hoàng Đức Nhã,
Vũ Đình Long (còn gọi là Hai Long), hay như bí danh Lê Quang Kép. Vũ Ngọc Nhạ
là nhân vật chủ chốt trong vụ án cụm tình báo A.22 làm rung động chính trường
Sài Gòn vào cuối năm 1969. Năm 1988, CSVN đã phong cho Nhạ cấp bậc Thiếu tướng.
Nhạ đã qua đời năm 2002 tại Saigon.
3/ Đặng Trần Đức, sinh tại Thanh
Trì, Hà Nội; bí danh Ba Quốc – 3Q, Nguyễn Văn Tá. Ba Quốc hoạt động trong cơ sở
tình báo số H.67. Từ năm 1963, Ba Quốc được cài vào làm một trong những phụ tá
của Bác sĩ Trần Kim Tuyến tại bộ phận tình báo trong nước thuộc Phủ Đặc ủy
Trung ương Tình báo Việt Nam Cộng hòa (CIO) do Trần Kim Tuyến đứng đầu. Đặng
Trần Đức được CSVN phong cấp bậc Thiếu tướng và đã từng giữ chức vụ Trưởng Khối
12/ Cục Quân báo (Cục 2). Đức đã qua đới 26 tháng 3 năm 2004 tại Saigon.
4/ Phạm Ngọc Thảo còn có tên là
Albert Phạm Ngọc Thảo, hay Albert Thảo. Mọi người thường gọi là Chín Thảo. sinh
năm 1922 tại Sài Gòn (nguyên quán Vĩnh Long). Phạm Ngọc Thảo là Đại tá trong
Quân đội VNCH . Phạm Ngọc Thảo là một đảng viên cộng sản và hoạt động đơn tuyến
trong hàng ngũ QĐVNCH. Thảo bị phục kích chết năm 1965 sau khi bỏ trốn vì tham
gia cuộc đảo chánh bất thành của Thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá Bùi Dzinh,
Trung tá Lê Hoàng Thao vào ngày 19 tháng 2 năm 1965. Sau năm 1975, CSVN đã
phong Phạm Ngọc Thảo là Đại tá CSVN.
5/ Lê Hữu Thúy sinh năm 1926 tại
Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Năm Thúy hay Thắng, hoặc bí danh Lê Thụy, mật danh A.25.
Khi viết báo, ông còn sử dụng nhiều bút danh như Khánh Hà, Nhị Hà, Nhị Hồ,… Lê
Hữu Thúy hoạt động cho Việt Minh từ năm 1947 và được kết nạp vào đảng cộng sản
năm 1949 và sau đó hoạt động ở Hà Nội. Năm 1954, CSVN bố trí cho ông di cư vào
Miền Nam để điều lắng chờ hoạt động. Ông viết báo cho tờ Đời Mới của Trần Văn
Ân; sau đó do sự giới thiệu củ Linh mục Bửu Dưỡng, giáo sư của Thúy khi ở Hà
Nội, Thúy viết báo Tinh Thần của Nha Tuyên úy Công giáo; thời gian này Lê Hữu
Thúy tham gia Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và tiếpo theo được kết nạp vào Đảng
Cần Lao Nhân Vị của Ngô Đình Nhu. Năm 1956 Thúy được làm chủ nhiệm Tuần báo
Sinh Lực của ông Vỏ Văn Trưng, Dân biểu Quốc Hội, đồng thời là một Ủy viên
Trung Ương Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia. Thúy được giới thiệu với Đại tá Đỗ
Mậu, Giám đốc Nha An Ninh Quân đội để tuyển Thúy thành Chuẩn úy đồng hóa phục
vụ trong Nha An Ninh Quân Đội VNCH. Năm 1958, Thúy bị một Hồi Chánh viên tên là
Nguyễn Gia tố giác Thúy là cán bộ cộng sản nên bị Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn
Mật Vụ Công Tác Miền Trung bắt giữ ở Miền Trung và năm 1960 Lê Hữu Thúy bị giải
giao về giam giữ ở Tòa Khâm, Huế. Sau cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm tháng 11 năm
1963, hồ sơ của Đoàn Mật Vụ Công tác Miền Trung bị đốt sạch, Thúy đượ ra khỏi
nhà tù và trở về Saigon tiếp tục công tác với Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng
trong Cụm Tình báo A.22. Khi vụ án A 22 bị phát giác, Thúy bị đưa ra Tòa và bi
đầy ra Trại giam Côn Đảo. Thúy được trao trả cho CSBV vào tháng 7 năm 1973.
Thúy được CSVN phong cấp bậc Thượng úy Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đến năm
1990, sau khi được xác minh hoạt động gián điệp cài cắm vào VNCH, Lê Hữu Thúy
được phong vượt cấp thành Đại tá.
6/ Đinh Văn Đệ (Đại tá QĐVNCH, Phó
Chủ tịch Hạ Nghị Viện VNCH) sinh năm 1924 (Giáp Tý) tại xã Long Thuận – trước
thuộc huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc trong một gia đình đạo Cao Đài có. Sớm mồ
côi cha năm 15 tuổi, gia cảnh mẹ góa con côi rất khó khăn nhưng nhờ được bà con
giúp đỡ nên ông đã học hết trung học đệ nhất cấp rồi đi dạy học. Sau tháng 8-
1945, khi Đinh Văn Đệ theo cách mạng được vài tháng thì thực dân Pháp quay trở
lại và ông bị bắt giam một thời gian, sau đó được Pháp thả, ông liền dọn lên
Saigon sinh sống bằng nghề bán sách. Năm 1952 Đệ bị động viên vào Trường Sĩ
Quan Trừ Bị Thủ Đức. Khi mãn Khóa Đệ đệu hạng 6 nên được bổ sung về làm Văn
phòng Tham Mưu Trưởng Đệ Nhất Quân Khu. Sau đảo chính 1 tháng 11 năm 1963, Đệ
mang cấp bậc Trung tá Thị trưởng Thành phố Đà Lạt và Tỉnh trưởng Tuyên Đức. Năm
1966, Đinh Văn Đệ thăng cấp Đại tá và giữ chức Tỉnh trưởng Bình Thuận. Năm
1967, Đệ từ chức Tỉnh trưởng Bình Thuận và ứng cử Hạ Nghi Viện ở Đà Lạt và đã
đắc cử để trở thành Phó Chủ tịch Hạ Nghị Viện kiêm phó Trưởng Khối Đối Lập Hạ
Nghị Viện. Do sự móc nối bởi hai vợ chồng người em ruột của Đệ là Đinh Văn Huệ,
một sĩ quan tình báo của VC (sau này Đinh Văn Huệ là Cụm trưởng Cụm Tình báo
VD2 mang cấp bậc Đại tá); Đệ trở thành cơ sở nội tuyến của Đoàn 22 Tình báo
chiến lược thuộc Bộ Chỉ Huy Miến và Đệ được phong hàm Thượng úy Quân Giải Phóng
Miền Nam. Với cương vị là Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH kiêm Phó Trưởng khối đối
lập Hạ Nghi Viện VNCH, Đệ có nhiều cơ hội tiếp xúc với các tài liệu bí mật quốc
gia để cung cấp cho VC.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đệ
không bị đi cải tạo nhưng vẫn không được chính quyền mới chấp nhận nên sinh ra
chán nản bỏ đi tu trong Thánh thất Cao Đài. Theo bài viết của Trần Ngọc Long-
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam về Đệ như sau:
(Trích): Sau ngày miền Nam giải
phóng, Ba Đệ có tên trong danh sách phải đi học tập cải tạo. Song nhờ có người
bảo lãnh nên được tại ngoại. Tuy nhiên, lúc bấy giờ người ta đối xử với ông như
đối với một công chức cao cấp của chế độ Việt Nam cộng hòa. Nhiều lúc buồn tủi
và ấm ức trong lòng mà không biết giải bày cùng ai. Kể cả mấy năm sau đó Ba Đệ
được “minh oan” và được phiên sang hưởng lương cán sự 6 cũng không làm ông vui
hơn. Ba Đệ không mặn mà gì cái chức “cán sự 6” khi mà xung quanh ông còn nhiều
ánh mắt nghi kỵ. Buồn vì sự đời trớ trêu, Ba Đệ quyết định xuất gia. 16 năm
phụng sự nghiệp đạo nơi Thánh thất, mọi kỷ niệm buồn vui của người chiến sĩ
tình báo, ông đều chôn chặt đáy lòng. (Hết trích)
Thái đã xác nhận chuyến bay Antonov
26 bay từ Pochentong, Nam Vang sang Thái Lan là một phi vụ đặc biệt nhằm bổ
sung người cho Mặt Trận E (28) (Mặt trận Thái Lan do Thượng tá Nguyễn Xuyên chỉ
huy dưới danh nghĩa là cộng sản Bắc Thái của người Thái). Chuyến bay được lệnh
sẽ thả dù 10 quân nhân gồm 1 người thuộc Tổng cục 2 Quân báo (Lê Văn Thái),
Phòng Tình báo chiến lược thuộc Cục Tham Mưu/ A 40 (Đoàn Văn Mễ và Cục Chính
trị/A 50 (Nguyễn Ngọc Đại và Nguyễn Văn Thịnh) cùng 6 người khác (thuộc Cục
Tham Mưu A 50 ở Nam Vang) trong Toán mang cấp bậc Trung sĩ hoặc Thượng sĩ xuống
vùng rừng rập giáp ranh giới Lào và tỉnh Udon Thani của Thái Lan; nhưng phi cơ
bị trục trặc nên Đại úy Lương Xuân Chương đã phải đáp khẩn cấp xuống vùng
Sakaeo (sâu vào đất Thái 60 Kms)
Vũ cũng hỏi Lê Văn Thái về cơ cấu tổ
chức của Cục Quân Báo và các Cục trực thuộc như Cục Tham Mưu, Cục Chính Trị và
Cục Hậu Cần và các đơn vị yểm trợ như Pháo Binh, Công Binh, Truyền tin, Phòng
không v.v… Riêng về tài liệu TUYỆT MẬT của Thượng tá Nguyễn Xuyên báo cáo tình
trạng quân số của đơn vị Mặt trận E; sau khi Lê Đức Anh đã duyệt nên Lê Văn
Thái mang sang để trao lại cho Thượng tá Xuyên. Lê Đức Anh có chuyển lời cho
Thượng tá Nguyễn Xuyên (qua Nguyễn Ngọc Đại) sẽ duyệt cấp thêm kinh phí cho Mặt
trận E. Điều này đã chứng tỏ Đảng cộng sản Thái Lan thực chất là con đẻ của
cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh đã thành lập khi đích thâm HCM sang Thái Lan
từ năm 1929 để thực thi kế hoạch của Quốc Tế Cộng Sản khi kết hợp hai nhóm cộng
sản Hoa kiều và Việt kiều trên đất Thái. Đảng cộng sản Thái đã chính thức được
thành lập vào năm 1942. (28)
Năm 1979 Việt nam đưa quân sang
Campuchia rồi xung đột với Thái Lan dẫn đến chính quyền cộng sản Lào cấm Đảng
Cộng sản Thái Lan sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến. Quan hệ
ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan – Trung cộng được tái lập. Năm 1980 chính
phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên Đảng Cộng
sản Thái Lan về chiêu hồi. Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được
đàm phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận giải giáp trước khi bắt đầu đàm
phán. Tháng 10/1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên bố cuộc chiến chống các
lực lượng cộng sản Thái Lan đã kết thúc. Năm 1982, Thủ tướng Thái Prem
Tinsulanonda ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các du kích cộng sản
Thái Lan còn lại kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ
trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái
Lan suy sụp nhanh chóng. Trong thời gian này hai lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng
sản Thái Lan bị quân đội chính phủ bắt giữ khiến tổ chức Đảng Cộng sản Thái Lan
chính thức tan rã. CSVN đã cố gắng gây dựng lại Đảng cộng sản Thái bằng cách
tung 2 Trung đoàn 71 và 72 dưới sự lãnh đạo của Thượng tá Nguyễn Xuyên hoạt
động ở vùng Đông Bắc Thái Lan.
Vũ hỏi
– Liệu anh có còn cơ hội gặp cô Phan
Thị Sen không?
Thái trả lời:
– Em hy vọng sau khi được chính
quyền Thái Lan trả về VN, em sẽ xin tiếp tục đi công tác sang bên Thái để gặp
lại Phan Thị Sen, người yêu của em. Đó là lý do trước đây khi em đang phục vụ ở
Cục Quân Báo ở Hà Nội, em đã tình nguyện đi sang chiến trường E để gặp lại
người yêu Phan Thị Sen. Nếu Sen vẫn còn tình cảm với em và chưa có người khác;
em sẽ xin tổ chức xét duyệt để tụi em được kết hợp thành vợ chồng anh ạ.
Vũ bắt tay Thái và chúc anh sẽ được
toại nguyện điểu mong muốn; sau đó cho Thái trở về phòng giam và kêu lính mang
Đại úy Lương Xuân Chương lên cho anh làm việc.
Lương Xuân Chương được người lính
Thái Lan dẫn vào phòng làm việc của Vũ; y đứng nghiêm cúi đầu chào Vũ rồi ngồi
vào chiếc ghế đối diện với bàn làm việc của Vũ. Chương là một người cao khoảng
1 mét 68, mặt vuông, thân hình lực lưỡng do tập luyện thường xuyên nên trông
rắn chắc và cơ bắp cuồn cuộn. Nhìn mặt mũi của Chương, Vũ đoán anh ta phải là
người miền núi, không biết thuộc sắc tộc nào. Vũ nói:
– Chào anh Lương Xuân Chương. Anh có
khỏe không?
– Xin chào auh. Vâng cám ơn anh, tôi
khỏe ạ.
– Tôi là anh Ba, kể từ hôm nay tôi
sẽ làm việc với anh. Tôi đã xem hồ sơ của anh từ khi ở Aranyaprathet cho đến
khi đến Bộ Tư Lệnh Không quân Hoàng gia Thái Lan và những lời khai của anh ngày
hôm qua với anh Hai (Đào Sanh Ngân); tôi nhận thấy những lời khai của ngoài tên
tuổi, quê quán và chức vụ là thật, còn lại tất cả đều là man khai và giấu diếm
hình tích của cá nhân và tập thể. Ngay về chuyến bay anh cũng đã không nói sự
thật. Chúng tôi nắm được đầy đủ tài liệu của từng cá nhân các anh và cả Lệnh
Bay anh và Nguyễn Văn Minh nhận để chấp hành công tác; nhưng cho đến bây giờ
anh vẫn một mực khai là chuyến bay của anh có nhiệm vụ bay từ phi trường
Pochentong, Nam Vang về phi trường Tân Sơn Nhất; sau khi cất cánh thì bị lạc…
Vũ đẩy tấm Lệnh bay trong đó ghi phi
cơ Antonov 26 cất cánh ở Tân Sơn Nhất đến Nam Vang; sau đó từ Nam Vang đến tọa
độ xxxxxxxx. Và cả Giấy Chứng Minh quân nhân có hình của Chương cùng một thẻ cơ
trưởng của phi cơ Antonov 26.
– Anh coi đây: Tấm Lệnh Bay đã nói
lên đường bay và nơi đến là Tọa độ xxxxxxx thì đó là điểm bí mật mà anh phải
thả những người khách trong chuyến bay này nhảy dù xuống đất. Hơn nữa anh Lê
Văn Thái Trung úy Quân báo (Cục 2) đã khai hết sự thật về chuyến bay này thì
anh còn gì phải khai man? Nếu anh muốn sớm được trở về VN đoàn tụ với vợ con
thì anh phải khai thật từ lý lịch bản thân đến quá trình công tác và mục đích
của chuyến bay thì chúng tôi mới cứu xét trả các anh về quê hương được.
Nét mặt người dân tộc chất phác của
Chương có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Vũ ngồi quan sát diễn tiến trên ánh mắt của
Chương đang biểu hiện sự đấu tranh tư tưởng giữa lòng trung kiên giữ khí tiết
cách mạng với Đảng hay nghe lời nói của Vũ về việc nếu không khai thật sẽ là
trở ngại lớn trong việc được trao trả về VN… Bất chợt Chương ngẩng mặt nhìn Vũ
nói giọng khẩn thiết:
– Thưa anh tôi xin khai lại toàn bộ
lý lịch và quá trình công tác; cũng xin anh giúp cho tôi được đoàn tụ với vợ
con ạ.
– Anh quyết định như vậy là đúng đắn
lắm, vì chỉ có sự thành thật khai báo mới là con đường ngắn nhất để đưa các anh
trở về quê hương. Nếu các cơ quan an ninh điều tra họ chưa tìm được sự thật thì
họ cứ giam các anh ở đây để tiếp tục điều tra. Thôi được. Tôi sẽ làm lại hồ sơ
cho anh nhé.
– Vâng. Xin nhờ anh giúp cho.
– Tên anh là Lương Xuân Chương đúng
không? Có bí danh gì không?
– Thưa không có ạ.
Anh sinh năm nào? Tại đâu?
– Dạ. Tôi sinh ngày 6 tháng 5 năm
1945 tại xóm Nà Lũng, Xã Cần Yên, Huyện Thông Nông, Tỉnh Cao Bằng. (29)
– Xã Cần Yên có gần Xã Vị Quang và
Lương Thông không?
– Dạ. Bắc giáp Quảng Tây của Trung
quốc, Đông giáp với xã Vị Quang, Nam giáp với xã Lương Thông và Tây giáp với xã
Cần Nông.
– Xã Cần Yên có đông dân không và
Huyện nữa nói chung là dân số bao nhiêu?
– Thưa anh, ở Cao Bằng đất rộng dân
thưa vì toàn là rừng với núi. Dân số toàn xã chỉ trên dưới 1,200 người.
– Vậy anh là người dân tộc?
– Dạ tôi là dân tộc Nùng ạ.
– Vậy là anh biết nói tiếng Quảng
Đông phải không?
– Vâng. Người Nùng nào cũng nói được
tiếng Quảng Đông.
– Ở Cao Bằng có Thác Bản Giốc đẹp
nổi tiếng, có Động Ngườm Ngao còn được gọi là Hang Hổ thuộc xã Đầm Thủy, Huyện
Trùng Khánh, có Núi Thang Hen ở Huyện Trà Lĩnh và đặc biệt là có Hang Pắc Bó
chỗ ông Hồ Chí Minh từ Trung Hoa về đặt căn cứ. Anh đã đến những nơi này chưa?
Anh có nhớ bài thơ ông Hồ Chí Minh làm khi ở Hang Pắc Bó như sau không?:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thiệt là sang”
– Dạ lúc còn là học sinh cấp 2 tôi
đã được các giáo viên dẫn đi tham quan các nơi ấy rồi ạ. Còn bài thơ của Bác
thì tất cả học sinh đều phải học thuộc ạ. Anh biết nhiều về Cao Bằng quê tôi cứ
như là người Cao Bằng vậy. Chương nghĩ thầm: “Lạ thật cái ông này rành rẽ
quê hương Cao Bằng đến từng xã, huyện. Sao lại có người giỏi thế không biết?”
– Anh nhập ngũ năm nào?
– Dạ năm 1965, tôi đăng ký học
Trường Lục Quân Sơn Tây ở Hà Nội và trúng tuyển, học 6 tháng thì tốt nghiệp với
cấp bậc Chuẩn úy. Sau đó tôi lại trúng tuyển vào Trung Tâm Huấn Luyện Hàng
Không ở sân bay Cát Bi, Thành phố Hải Phòng (nhiều năm sau Trường đổi tên thành
Trường Sĩ quan Không Quân). Thời gian này Trung Tâm Huấn Luyện Hàng Không đã sơ
tán sang Trung quốc hết; tôi ở phi trường Cát Bi để chờ phương tiện sang Trung
quốc thì năm 1966 lại được nhận sang Nga để học về lái phi cơ vận tải cánh quạt
loại Antonov 10 Cat, rồi Antonov 22 và cuối cùng là Antonov 26. Chương trình
học là 2 năm lý thuyết; sau khi vượt qua các kỳ thi lý thuyết mới được vào học
trong khoang lái và ra bay. Tổng cộng thời gian huấn luyện là 3 năm rưỡi thì
tốt nghiệp. Trong năm 1967, khi còn đang học về lý thuyết thì được thăng cấp
Thiếu úy. Khi tôi về nước là giữa năm 1969; thời gian này Bộ Tư Lệnh Không Quân
đã được thành lập vào tháng 3 năm 1967 gồm các binh chủng: Không quân tiêm
kích, Không quân tiêm kích bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát, Trung
đoàn Huấn Luyện,… Tôi được thăng cấp Trung úy và được điều về Trung đoàn Vận
Tải 918 (còn được gọi là Đoàn Hồng Hà) trực thuộc Sư đoàn 317 Không quân, trú
đóng ở phi trường Gia Lâm, Hà Nội làm lái phó tổ lái Antonov 22. Công việc
chính của Trung đoàn Vận tải lúc bấy giờ chỉ làm công tác vận chuyển lương thực
và đạn dược cung cấp cho đường dây 559 (30) bên Lào, thả hàng xuống vùng Hạ Lào
theo đường Hồ Chí Minh.
– Khi nào anh mới thuyên chuyển vào
Miền Nam?
– Năm 1976, sau khi chiếm được Miền
Nam, toàn bộ Trung đoàn Vận tải 918 được điều về Miền Nam và trú đóng ở Phi
trường Biên Hòa. Tôi được thăng cấp Thượng úy và làm lái chính của Antonov 26.
Từ ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập 2 Trung đoàn
trực thăng 916 và 917, và 2 Trung đoàn máy bay chiến đấu 935 và 937. Các Trung
đoàn 935 và 937 được trang bị các máy bay chiến lợi phẩm của Không lực Việt Nam
Cộng hòa và tham chiến ở chiến trường biên giới Tây Nam. (Trong Chiến dịch Mùa
xuân năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu được 877 máy bay quân sự các
loại, trong số đó có 41 chiếc F- 5 Freedom Fighter và 95 chiếc A- 37. Trong số
này, có một số chiếc còn rất tốt, có thể dùng để chiến đấu được ngay, số còn
lại được để trong kho bảo quản hoặc chờ sửa chữa)
Bên cạnh đó, trước nguy cơ xung đột
với, quốc gia láng giềng đồng thời là đồng minh cũ: Trung quốc, Việt Nam tìm
cách tăng cường hiện đại hóa lực lượng quân sự, kể cả không quân với sự giúp đỡ
của Liên Xô. Ngày 16 tháng 5 năm 1977, Quân chủng Không quân được thành lập,
bao gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích bom, Không
quân vận tải, Không quân trinh sát,… theo mô hình của Liên Xô. Năm 1979, Việt
Nam được Liên Xô viện trợ một số máy bay tiêm kích bom hiện đại Su- 22M. Số máy
bay này được chuyển giao cho Trung đoàn 923.
Ngày 25 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn
Không quân tiêm kích 929 được thành lập, với nòng cốt cán bộ, phi công từ các
Trung đoàn 935, 937 chuyển sang.
– Sư đoàn 317 Không quân có những
Trung đoàn nào? Vũ hỏi.
– Dạ Sư đoàn 317 Không quân tức là
Đoàn Thăng Long, có 6 Trung đoàn là:
1- Trung đoàn 921 Tiềm kích (còn gọi
là Đòan Sao Đỏ) đóng ở Nội Bài, Hà Nội gồm có Mig Su 22.
2- Trung đoànTiềm Kích bom 923 (hay là Đoàn Yên Thế) đóng ở Thọ Xuân, gồm có
Su- 22M- 4/UM- 3K .
3- Trung đoàn Tiềm kích 927 (Đoàn Lam Sơn) đóng ở Kép, gồm có MiG- 21bis/UM.
4- Trung đoàn Tiềm kích 931 đóng ở Yên Bái, gồm có Mig 21
5- Trung đoàn trực thăng 916 (Đoàn Ba Vì) gồm có các loại: Mi 6, Mi 8, Mi 24D,
Mi 171.
6- Trung đoàn Vận Tải 918 (Đoàn Hồng Hà) đóng ở Gia Lâm, gồm có các loại An- 2,
An- 26, An- 30, M- 28.
– Khi nào anh được thăng cấp bậc Đại
úy? Vũ hỏi.
– Nhân ngày truyền thống của Không
quân 20 tháng 8 (năm 1959), tôi cũng được thăng cấp Đại úy vào đúng ngày 20
tháng 8 năm 1980. Và vẫn phục vụ trong Tổ lái của phi cơ vận tải Antonov 26
(viết tắt là An- 26). Tôi vẫn là lái chính và vẫn phục vụ ở Trung đoàn 918 vận
tải trú đóng ở phi trường Biên Hòa.
– Ngày nào anh nhận lệnh bay phi cơ
vận tải An- 26 từ phi trường Tân Sơn Nhất sang phi trường Pochentong, Nam Vang?
– Ngày 20 tháng 6 năm 1982, tôi nhận
Lệnh bay từ phi trường Biên Hòa về Tân Sơn Nhất chở theo một số quân dụng giao
cho Tân Sơn Nhất; Tổ lái gồm có 4 người: tôi là lái chính, lái phụ là Thiếu úy
Nguyễn Văn Minh, Dẫn đường là Trung úy Hoàng Văn Chính và cơ khí là Hạ sĩ
Nguyễn Văn Khải; sau đó đón 1 người khách là Trung úy Lê Văn Thái và một số
quân dụng giao cho A 40 ở Nam Vang để bay sang phi trường Pochentong, Nam Vang.
Khi đến Nam Vang, Trung úy Thái sẽ vào A 40 khoảng hơn 1 tiếng; chúng tôi cũng
giao quân dụng cho A 40 ngay tại sân bay, rồi chờ ở đó để chở 1 đoàn khách từ A
40 để bay đến tọa độ xxxxxxx thuộc địa phận tỉnh Udon Thani (Thái Lan) thì thả
những người khách gồm 9 người trong đó có Đại úy Nguyễn Ngọc Đại, Trưởng đoàn.
Chuyến bay khi đến vùng biên giới Thái Miên ở Battambang thì phát hiện bị trục
trặc máy nên tôi phải đáp khẩn cấp xuống ruộng và chúng tôi bị bắt về cơ quan
an ninh Thái Lan ạ.
– Như vậy anh xác nhận với tôi đây
là một phi vụ bí mật để thả người xuống vùng Đông Bắc Thái đúng không?
– Dạ đúng như thế ạ.
Thôi được anh tạm nghỉ một chút nhé.
Nói xong, Vũ đưa cho Chương bao thuốc lá Samit và gọi người lính Thái vào dặn
anh ta ngồi coi Chương vì anh phải đi ra ngoài 1 chút.
Vũ gọi điện thoại báo cho ông Mac
Intosh về kết quả sơ khởi, rồi quay trở lại làm việc với Lương Xuân Chương. Vũ
cầm 2 chai nước lạnh vào phòng làm việc, trao cho Lương Xuân Chương 1 chai và
anh giữ 1 chai. Ngồi vào ghế, Vũ nói:
– Nãy giờ làm việc liên tục anh có
cảm thấy mệt không?
– Dạ thưa không ạ.
– Như thế thì tốt; vì anh có thể lực
khỏe, chắc do tập luyện đều đặn?
– Vâng, từ khi còn trẻ tôi đã siêng
năng tập luyện thể lực; hơn nữa Cao Bằng là vùng núi non cứ trèo đèo lội suối
nên thân thể cũng khỏe và dẻo dai hơn.
– Là một đảng viên đảng cộng sản thì
anh thấy con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa như đảng chủ trương suốt từ năm
1930 (khi đảng cộng sản VN ra đời) cho đến nay (1982) là 52 năm đã đạt được
những gì? Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thành công không? Mục tiêu tiến lên
thế giới đại đồng có thể đạt được không?
– Theo như sự học tập thì đảng lúc
nào cũng nói là đã thành công trên con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa; nhưng
theo sự nhận xét của cá nhân tôi thì thực tế chưa đi đến đâu; con đường tiến
lên chủ nghĩa xã hội còn vô vàn khó khăn như thế thì làm sao có thể tiến đến
thế giới đại đồng được? Nền kinh tế tập trung với các công, nông trường và hợp
tác xã chỉ làm trì trệ thêm tiến trình tiến triển. Người dân bị buộc phải vào
các hợp tác xã nên “cha chung không ai khóc”, họ chỉ làm việc cầm chừng và tìm
cách phá hoại các công cụ sản xuất vì có làm cũng chỉ được hưởng chế độ tem
phiếu ít ỏi. Đời sống người dân thiếu thốn trăm bề; cái bụng không đủ no thì
làm sao có tinh thần làm việc đạt năng xuất cao? Thế nhưng trong các báo cáo từ
trung ương cho đến địa phương thì lúc nào cũng đạt hoặc vượt chỉ tiêu…
Trước khi giải phóng Miền Nam thì
đảng nói là phải thắt lưng buộc bụng để chi viện cho Miền Nam; nhưng từ khi
giải phóng Miền Nam năm 1975, chúng tôi vào Nam và thấy là đảng đã hoàn toàn
tuyên truyền dối trá nào là dân Miền Nam bị mấy tầng áp bức, bóc lột sống nghèo
đói, cơm không có để ăn v.v…; nhưng khi chúng tôi vào Nam thì nhìn thấy mọi
điều không như đảng nói, đảng tuyên truyền. Người dân Miền Nam có 1 đời sống ấm
no, hạnh phúc, cơm no áo ấm và gia đình sung túc chứ không đói khổ như ở Miền
Bắc; còn chính quyền Miền Nam đã tiếp cận với đời sống văn minh tiến bộ của thế
giới nên đã xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, nhà của, phố xá khang trang và
xã hội thì tự do.
– Anh nhận xét như vậy rất là chính
xác. Từ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, người dân Miền Nam có một đời sống cao
so với các nước trong vùng Đông Nam Á. Họ chẳng bao giờ phải sống lệ thuộc vào
chế độ tem phiếu; vì thế chẳng bao giờ họ phải ăn độn ngô khoai sắn, bo bo… Với
nền kinh tế tự do, họ có quyền tư hữu nên việc kinh doanh buôn bán được nhiều
thuận lợi, người dân cũng được sống một cách thoải mái, bữa cơm nào cũng có thịt
cá… chứ không phải chỉ là mơ ước như Lê Duẫn sau khi chiếm được Miền Nam đã nói
là chỉ cần vài năm nữa nhân dân cả nước sẽ có đủ nước mắm để ăn.
Sau khi chia đôi đất nước năm 1954
qua Hiệp định Genève, tại sao hơn 1 triệu người dân Miền Bắc phải lìa bỏ quê
cha đất tổ tị nạn vào Nam sống? Tại vì họ biết không thể sống với sự cai trị
tàn bạo của cộng sản nên phải tìm nơi có tự do và quyền làm người để sống. Rồi
sau khi chiếm được Miền Nam năm 1975, tại sao hàng mấy trăm ngàn người liều
chết vượt biển trên những con thuyền mong manh mặc cho sóng gió bão bùng, họ
đánh đổi sinh mạng để tìm chút hơi thở tự do ở các nước khác; mà không phải chỉ
người dân Miền Nam mới trốn chạy cộng sản bỏ nước ra đi, Rất nhiều người dân
Miền Bắc cũng đã trốn chạy cộng sản đẩ đến các xứ tự do sinh sống. Anh có thấy
có bất kỳ người dân xứ tự do nào chạy đến các nước cộng sản để xin tị nạn hay
không? Điều này đả chứng tỏ chế độ cộng sản không phải là điều mơ ước của những
người có nhận thức và có suy nghĩ và lựa chọn nơi sống của mình.
Chương lắng nghe sự giải thích của
Vũ, anh chợt lên tiếng hỏi:
– Dạ thưa anh, như trường hợp của
tôi có thể xin tị nạn được không ạ?
– Dĩ nhiên là được. Thế giới tự do
lúc nào cũng giang tay đón những người trong hàng ngũ cộng sản quay sang vùng đất
tự do để sinh sống.
– Nhưng tôi còn kẹt vợ và 2 con còn
đang sống ở Biên Hòa anh ạ. Nếu anh có cách nào giúp cho vợ và con của tôi được
sang bên này thì tôi xin tị nạn ngay.
– Được rồi, để tôi sẽ hỏi vấn đề này
với các quan chức cao hơn giúp cho anh nhé. Thôi buổi làm việc với anh hôm nay
tạm dừng ở đây. Anh trở về phòng nghỉ ngơi, tôi sẽ cho anh biết kết quả sau
nghe. Anh nhớ cầm gói thuốc là Samit tôi đưa lúc nãy về mà hút.
Vũ bấm chuông gọi người lính Thái
mang Chương về phòng giam và dặn anh ta mang Nguyễn Ngọc Đại lên cho anh thẫm
vấn vì anh có một số vấn đề cần Đại xác minh lại.
Đại úy Nguyễn Ngọc Đại được người
lính Thái dắt vào phòng làm việc của Vũ, Đại gật đều chào Vũ xong ngồi xuống
chiếc ghế đối diện bàn làm việc của Vũ. Anh hỏi Đại:
– Sao anh Đại, có khỏe không? Hôm
qua sau khi làm việc với tôi về anh đã viết thư báo cho các đồng chí của anh
phải đề phòng tôi phải không? Tôi đâu có ghê gớm như anh nghĩ. Thôi! Bỏ qua
chuyện đó đi; bây giờ tôi cần xác minh lại một số vấn đề quan trọng về lý lịch
của cá nhân và quá trình hoạt động của anh. Các anh Lương Xuân Chương và Lê Văn
Thái đã khai thật tất cả về chuyến công tác của các anh; hơn nữa các tài liệu
mà các anh định xé bỏ để tiêu hủy chứng cứ đã được chúng tôi phục hồi lại, nên
chúng tôi đã nắm rõ từng người các anh và mục đích của chuyến bay… Tôi yêu cầu
anh nên khai lại toàn bộ để chúng tôi có cơ sở thiết lập hồ sơ cho việc trao
trả các anh về Việt Nam thể theo nguyện vọng chung của các anh. Anh nghĩ như
thế nào?
Vũ đã biết đánh vào điểm yếu của
những cán binh VC trên chuyến bay Antonov 26 là mong muốn trở về VN, nên anh
đánh ngay vào yếu điểm này để họ phải chao đảo. Ngẫm nghĩ một lát, Đại trả lời:
– Vâng thưa anh, tôi sẽ khai lại sự
thật, mong anh giúp cho sớm được trở về Việt Nam ạ.
– Tốt. Có như vậy hồ sơ mới trùng
khớp với hồ sơ của phía VN thì các cơ quan an ninh chúng tôi mới có cơ sở để
cứu xét việc trao trả các anh cho Việt Nam được. Như hôm qua anh đã khai lại
với tôi về lý lịch và quá trình hoạt động của anh cho đến năm 1979 khi anh được
thuyên chuyển về cơ quan A.40 ở Nam Vang do Lê Đức Anh (31) làm Tổng chỉ huy
mặt trận đánh sang Kampuchia. Tổ chức của Cơ quan A 50 ra sao?
– Thưa anh, thực ra ngay sau khi
giải phóng Miền Nam vào năm 1975, chính quyền cộng sản Pon Pot ở Kampuchia đã
gây hấn dọc biên giới Việt Miên như chiếm đảo Thổ Châu giết 500 dân lành, sau
đó lại tấn công Hà Tiên và Phú Quốc… Trung Ương đảng cộng sản VN đã mở chiến
dịch đánh sang Kampuchia và Tư lệnh chiến dịch là Thượng tướng Lê Trọng Tấn với
các lực lượng:
a/ Quân đoàn 2 do Thiếu tướng Nguyễn
Hữu An làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lê Linh làm Chính ủy, gồm các Sư đoàn 304,
325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên (An Giang – Hà Tiên)
đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9 đánh về Phnom Penh, chiếm
Kampot và vùng duyên hải Đông Nam Campuchia.
b/ Quân đoàn 3 của Thiếu tướng
Nguyễn Kim Tuấn (32), gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ sung Sư đoàn 302,
đánh từ Tây Ninh, vượt qua tỉnh Kampong Cham đến sông Mê Kông và vùng lãnh thổ
đông bắc Campuchia.
c/ Quân đoàn 4 của Thiếu tướng Hoàng
Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2, cùng Lữ đoàn 22
thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh và 3 tiểu đoàn Khmer của
Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) do VC đào tạo và huấn
luyện thân Việt Nam, hướng tấn công từ hướng tây và tây nam Tây Ninh, sau khi
đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, theo đường 1 qua tỉnh Svay Riêng
nhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong để đến Phnom Penh.
d/ Quân khu 5 của Thiếu tướng Đoàn
Khuê: gồm hai Sư đoàn 307, 309 và Lữ đoàn đặc công 198, đánh từ Pleiku theo
đường 19 về hướng Tây để tiêu diệt quân Khmer Đỏ ở đông bắc Campuchia.
e/ Quân khu 7 của Trung tướng Lê Đức
Anh: gồm các Sư đoàn 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm
một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những Trung đoàn chủ
lực các tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn
26 thiết giáp, Trung đoàn công binh E25 QK7 (gồm các Tiểu đoàn D739 cầu đường
trong đó Tiểu đoàn D739 gồm các Đại đội C10, C11, C12, D278 bom mìn, D98 xe
máy, D741 cầu phà), 3 Tiểu đoàn Khmer UFNSK từ phía bắc Tây Ninh và khu căn cứ
của UFNSK quanh Snuol tiến quân dọc theo Quốc lộ 13 và Quốc lộ 7 đánh chiếm
Kratié và Kampong Cham.
f/ Quân khu 9 của Thiếu tướng Nguyễn
Chánh: gồm các Sư đoàn 4, 330, 339 tấn công từ khu vực Tịnh Biên ở hướng Bắc,
qua tỉnh Ta Keo, hướng về Phnom Penh.
g/ Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ
đoàn 126 và Lữ đoàn 101 hải quân đánh bộ đổ bộ vào vùng duyên hải đông nam
Campuchia để chiếm Ream và cảng Sihanoukville trên bán đảo Kampong Som.
h/ Đoàn 901 không quân: gồm Sư đoàn
không quân 372 được trang bị máy bay tiêm kích F- 5, máy bay cường kích A- 37,
máy bay trực thăng UH- 1, Mi- 24, máy bay vận tải C- 130, C- 119, C- 47 và 1
phân đội MiG- 21 từ Trung đoàn 921.
Tổng quân số ước tính: 250.000
người, gồm 18 Sư đoàn bộ binh, nhiều Trung đoàn, Lữ đoàn binh chủng và đội địa
phương. Về trang bị vũ khí có 600 tăng thiết giáp, hơn 400 khẩu pháo cỡ lớn và
139 máy bay chiến đấu, máy bay vận tải, 10.000 xe ô tô.
Để thống nhất chỉ huy các lực lượng
võ trang ( LLVT) đang chiến đấu tại mặt trận biên giới Tây Nam, ngày 19- 7-
1978, Quân ủy Trung ương ban hành Quyết định số 69/QĐ- QUTW về việc thành lập
Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng tại phía Nam, trụ sở đặt trong khu vực sân
bay Tân Sơn Nhất. Tư lệnh Quân khu 7 Lê Đức Anh được chỉ định kiêm Chỉ huy
trưởng Cơ quan tiền phương Bộ Quốc phòng. Thực hiện Hiệp ước hòa bình, hữu nghị
và hợp tác Việt Nam- Campuchia (ngày 18- 2- 1979), ngày 18- 5- 1981, Quân ủy
Trung ương ban hành Nghị quyết số 36/QUTW về việc tổ chức Quân tình nguyện Việt
Nam tại Campuchia và thành lập Bộ tư lệnh Quân tình nguyện (phiên hiệu Bộ tư
lệnh là 719) do Lê Đức Anh làm Tư lệnh.
Cơ quan A 50 là mật danh của Bộ Tư
Lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia do Thượng tướng Lê Đức Anh bí danh
Sáu Nam, Tư Lệnh Quân khu 7 trực tiếp chỉ đạo được thành lập ngày 19- 7- 1978,
Quân ủy Trung ương ban hành Quyết định số 69/QĐ- QUTW về việc thành lập Cơ quan
tiền phương Bộ Quốc phòng tại phía Nam, trụ sở đặt trong khu vực sân bay Tân
Sơn Nhất. Tư lệnh Quân khu 7 Lê Đức Anh được chỉ định kiêm Chỉ huy trưởng Cơ
quan tiền phương Bộ Quốc phòng.. Tổ chức của A 50 gồm có:
a/ Thành phần lãnh đạo: Trung tướng
Lê Đức Anh được chỉ định làm Thủ trưởng. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền và Thiếu
tướng Hoàng Cầm làm Chỉ huy phó. Bộ phận tiền phương của Bộ Tổng Tham mưu, Tổng
cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Xây dựng kinh tế
căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của mình, có trách nhiệm phục vụ bộ phận Tiền
phương Bộ Quốc phòng hoàn thành các nhiệm vụ theo quy định của Bộ.
b/ Bộ Tham Mưu
c/ Cục Chính trị.
d/ Cục Hậu cần.
e/ Cục Kỹ Thuật
f/ Cục Xây dựng.
g/ Các đơn vị trực thuộc: 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân
đoàn 4 do tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
– Vậy khi được thuyên chuyển từ Bộ
Tư Lệnh Phòng Không Không Quân sang A 50 thì anh được bố trí làm nhiệm vụ gì?
– Dạ tôi được bổ sung về Phòng Bảo
Vệ thuộc Cục Chính Trị/ Cơ quan A 40 (Phòng Bảo Vệ tức là Phòng An Ninh có nhiệm
vụ như An Ninh Quân Đội của VNCH)
– Anh giữ chức vụ gì ở Phòng Bảo vệ?
– Dạ tôi được giao làm Phó Chính Trị
viên của Phòng Bảo vệ ạ.
– Trong chuyến công tác đặc biệt kỳ
này, nhiệm vụ của anh là gì?
– Dạ, tôi được đích thân đồng chí
Sáu Nam (Lê Đức Anh) giao nhiệm vụ sang chiến trường E để kiểm tra thực tế về
Bản Báo Cáo Quân Số của Mặt Trận E và truyền đạt lệnh miệng của đồng chí Sáu
Nam là A 50 đã chuẩn thuận thêm kinh phí cho Mặt Trận E, sẽ được giải ngân
trong một thời gian ngắn nhất. Đồng chí Sáu Nam không nói chính xác là khi nào
và bao nhiêu nên tôi không biết.
– Anh có biết tại sao Trung Ương
(TW) đảng lại mở Mặt Trận E trong khi đã có Đảng cộng sản Bắc Thái do đích thân
ông Hồ Chí Minh thành lập từ năm 1929 rồi?
– Dạ thưa anh, từ năm 1980 Đảng cộng
sản Thái đã bị chính quyền Thái Lan của Thủ tướng Prem Tinsulanonda dùng giải
pháp mua chuộc, cấp nhà cấp đất và cho nhiều quyền lợi về vật chất nên đa số
đảng viên và cán bộ lãnh đạo đã hồi chánh đầu hàng; đảng cộng sản Thái hầu như
tan rã chỉ còn một số rất nhỏ ẩn náu trốn tránh trong rừng sâu; vì lý do đó
đảng cộng sản VN gửi quân sang để tái lập lại đảng cộng sản Thái Lan.
Vũ nghĩ thầm: “Điều này thì Đại đã
khai giống lời khai của Trung úy Lê Văn Thái, sĩ quan Quân báo đã khai với anh
ngày hôm qua”
– Nguyện vọng của anh bây giờ là gì?
– Dạ thưa anh, tôi chỉ có một nguyện
vọng duy nhất là sớm được chính quyền Thái trao trả chúng tôi về Việt Nam đoàn
tụ với vợ con ạ.
– Thế anh không sợ khi bị trả về với
một chế độ chuyên chính, sắt máu như đảng cộng sản VN thì tương lai các anh sẽ
rất đen tối vì các anh không hoàn thành được công tác bí mật đã giao, lại còn
làm lộ bí mật của đảng thì sinh mệnh chính trị của các anh sẽ gặp rất nhiều
phiền phức, rắc rối…
– Dạ tôi cũng nghĩ về sẽ bị kỷ luật
đảng, nhưng dù sao chúng tôi cũng còn được gặp lại vợ con.
– Thôi được. Các anh muốn như thế
thì chúng tôi sẽ hoàn tất hồ sơ càng sớm càng tốt để các cơ quan cấp cao hơn sẽ
cứu xét việc trao trả các anh cho chính quyền Việt Nam. Bây giờ anh về nghỉ
nhé.
Vũ đưa tay xem đồng hồ, thấy đã là 3
giờ chiều, anh cũng cảm thấy mệt nên ra về sớm để đúc kết hồ sơ viết thành bản
báo cáo, số người còn lại ngày mai sẽ tính tiếp. Anh thu dọn hồ sơ, lấy máy
cassette gắn dưới bàn bỏ vào cặp, chuẩn bị gọi cho tài xế ở Tòa Đại sứ đến đón
anh sớm hơn dự định. Công việc chính thì đã gần hoàn tất, những nhân vật chủ
chốt đều đã khai sự thật về Phi Vụ Bí Mật Trên Đất Thái, các nhân vật khác như
Trung úy Hoàng Văn Chính, dẫn đường hoặc Đoàn Văn Mễ hay Nguyễn Văn Thịnh anh
đã nắm Thẻ chứng minh quân nhân của từng người thì không còn quan trọng để
tranh thủ và đấu trí với họ nữa; nếu có làm việc thì cũng chỉ để bổ túc hồ sơ
lý lịch mà thôi.. .
Khi Thiếu tá Vi chở Vũ về đến Bộ Tư
Lệnh Không Quân Hoàng Gia, thì có sĩ quan tùy viên của Ðại tá Ratanokorn, Tham
Mưu Trưởng kiêm Trưởng Phòng 2 BTL Không Quân Hoàng Gia Thái ra nói là mời Vũ
lên Phòng gặp Đại tá. Vũ theo viên sĩ quan tùy viên đến văn phòng Đại tá Tham
Mưu Trưởng cách đó không xa.
Bước vào phòng, Vũ giơ tay chào ông
theo kiểu nhà binh và được ông mời ngồi xuống ghế sa lông. Ông nói:
– Rất vui gặp lại Thiếu tá. Sao ông
làm việc có mệt lắm không?
– Cám ơn Đại tá. Công việc chuyên
môn của chúng tôi nên không cảm thấy mệt mỏi gì và còn nhiều lý thú nữa. Vũ
biết ông ta chỉ muốn gặp anh để dò hỏi xem anh có phát giác ra diều gì không,
vì cơ quan của ông đã không tìm được tin tức gi của đám cán binh cộng sản đó.
Vũ tiếp tục nói:
– Thưa Đại tá, Tôi đã tìm ra những
bí mật mà số cán binh cộng sản VN này muốn giấu diếm, tất cả những điều đó tôi
sẽ đúc kết thành một báo cáo trong đêm nay và sẽ sao cho ông 1 copy.
– Nhưng ông có thể bật mí cho chúng
tôi biết 1 chút gì không?
– Ồ chuyện đó thì không sao. Tóm
lại, về lý lịch bản thân, tất cả các lời khai của bọn họ đều khai man, che giấu
hình tích và quá trình hoạt động. Thí dụ Đại úy Nguyễn Ngọc Đại đã khai là giáo
viên cấp 3 và mới nhập ngũ năm 1975, khi vào quân đội thì được mang lon Đại úy
ngay và được bố trí làm giáo viên văn sử ở Ban Binh khí của đơn vị Phòng Không
Không quân… Thực ra anh ta đã nhập ngũ từ năm 1960 và làm việc ở ngành chính
trị. Với Đại úy Lương Xuân Chương, anh ta khai là đi học bay ở Nga từ 1965 và
đến 1975 anh ta được trở về nước, sau đó làm huấn luyện viên phi cơ C 130 của
Mỹ ở phi trường Biên Hòa. Quá vô lý phải không Đại tá? Học máy bay Nga làm sao
có thể làm huấn luyện viên máy may của Mỹ được? Sự thật là anh ta sinh năm
1945, nhập ngũ vào Trường Lục Quân Sơn Tây và tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy,
sau đó anh ta được nhận vào Không quân và lên đường sang Nga học bay phi cơ
Antonov năm 1966. Anh tốt nghiệp và về nước năm 1969 và hoạt động trong vai trò
là hoa tiêu của phi cơ Antonov… Hay Lê Văn Thái, cấp bậc Trung úy và phục vụ ở
Cục Quân báo ở Hà Nội; nhưng y chỉ khai là Trung sĩ bảo vệ của Hậu cần A 50
v.v…
Còn về chuyến bay Antonov 26, họ thú
nhận với tôi đó là một phi vụ bí mật nhằm thả người của họ xuống vùng rừng núi
của Tỉnh Udon Thani để hoạt động… Ngày mai tôi sẽ cho ông một copy chi tiết thì
ông sẽ rõ nhiều hơn.
Đại tá Ratanokorn nói:
– Trời đất! Vậy mà ông Tướng tư lệnh
Không quân của tôi nghĩ là anh ta thành thật nên đã mới anh ta đi ăn nhà hàng,
đi vũ trường và đưa anh ta về nhà ngủ nữa. Thật nguy hiểm vô cùng.
– Ồ! Không thể như vậy được. Rất
nguy hiểm thưa Đại tá.
– Xin cám ơn Thiếu tá. Ông quả là
một sĩ quan điều tra xuất sắc. Chỉ cần 2 ngày, ông đã tìm ra lời giải đáp bí ẩn
này.
Vũ giấu nhẹm chuyện Lương Xuân
Chương có ý xin tị nạn chính trị vì đó là đầu mối để bên CIA có thể gài làm
nhân viên bí mật trong lòng địch sau này. Nghề của CIA lúc nào cũng là nuôi đầu
mối để móc nối gây cơ sở hoặc phăng ra hệ thống hàng ngang, hàng dọc của đối
tượng. Trong chiến tranh Việt Nam trước năm 1975, cũng chính vì người Mỹ nuôi
những đầu mối mà các cơ quan tình báo Việt Nam đã bị vuột mất nhiều đối tượng
quan trọng vì chúng phát hiện bị theo dõi đã lẳng lặng trốn thoát ra khu.
Vũ đứng dậy chào Đại tá Ratanokorn
và bắt tay ông rồi ra xe về Tòa Đại sứ để họp với ông McIntosh và Đại tá Gary.
Vũ bước vào thang máy đi lên lầu 2
để đến văn phòng làm việc của ông Walter McIntosh. Sau màn chào hỏi xã giao,
ông đã gọi điện thoại cho Đại tá Gary sang phòng ông để họp với Vũ.
Vũ thuyết trình về diễn tiến mới
trong ngày làm việc thứ hai với các cán binh VC trong phi vụ Antonov 26. Chuyến
bay này mục đích chính để thả 9 cán bộ, chiến sĩ VC xuống vùng Đông Bắc Thái
công tác ở Mặt Trận E. Đặc biệt vụ Lương Xuân Chương ngỏ ý muốn xin tị nạn và
anh muốn chúng ta tìm cách mang vợ con anh ra khỏi Việt Nam. Vũ cũng cho biết
đêm nay anh sẽ đúc kết thành một bản báo cáo với đầy đủ các chi tiết cần thiết
và sáng ngày hôm sau sẽ giao cho ông McIntosh.
Sau khi chia tay với ông McIntosh và
Đại tá Gary, Vũ rời Tòa Đại sứ Hoa Kỳ để được người tài xế đưa về nhà.
Vũ cất cặp hồ sơ trong tủ có khóa và
thay quần áo bước vào phòng tắm. Anh dự định tắm xong cho người thoải mái sẽ ra
nhà hàng ở đầu đường ăn tối; nhưng khi thay bộ quần áo thể thao định bước ra
khỏi nhà thì Ỏi, cô Thái người làm phụ trách dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn đã bày 1
bàn thức ăn thơm phức và mời anh vào ăn. Cô đon đả tươi cười mời anh dùng cơm
và giới thiệu món ăn chiều nay có “Tôm dằm pla” (canh chua cá), “som tam” (gỏi
salad đu đủ), “mủ ping” (thịt heo xỏ xâu nướng than) và tráng miệng bằng “khao
niểu mà muông” (cơm nếp xoài). Vũ thấy hấp dẫn quá nên ngồi vào bàn ăn, cô Ỏi
kéo ghế cho Vũ và lấy chén bới cơm cho anh. Vũ nói với cô:
– Khọp cun ma khấp! (Cám ơn cô nhé)
Cô Ỏi vừa chắp tay lên gần miệng
theo lối lễ phép của người Thái, vừa nói:
– Khọp cun ma kha! Mai bê lai hổ ná.
(Xin cám ơn nhiều. Không sao đâu ông xếp). Trong tiếng Thái chữ Khấp ở cuối câu
dành cho đàn ông, còn phụ nữ thì cuối câu là kha.
Cô Ỏi lăng xăng bên bàn ăn, và luôn
tay múc canh vào chén riêng để ăn canh đưa cho anh hoặc gắp thịt nướng hoặc gỏi
sôm tằm cho Vũ, miệng cô lúc nào cũng cười tươi. Vũ nói:
– Hà ròi ma! (Ngon lắm). Phổm chóp
ma ma (Tôi thích lắm). Ỏi suổi ma (Cô Ỏi đẹp lắm).
Nghe được Vũ khen, cô Ỏi cười tít
mắt, hai má đỏ hồng, cô trả lời:
– Khọp cun ma kha!
Ở Thái Lan, những người phụ nữ Thái
rất thích làm quen và cặp bồ với những người ngoại quốc vì họ đều mong muốn được
đi nước ngoài một cách hợp pháp.
Sau khi ăn xong, Vũ nói cám ơn cô Ỏi
một lần nữa rồi ngồi vào bàn giấy làm bản báo cáo về vụ phi cơ Antonov 26.
Trong khi đó cô Ỏi lo dọn dẹp và rửa chén. Cô đã quen với tính của ông chủ,
những thức ăn còn lại cô chia 1 phần cho anh Chô, người coi cổng và làm vườn;
số còn lại cô mang hết về nhà cho các em cô ăn.
Vũ làm việc đến 2 giờ sáng thì hoàn
tất bản báo cáo, anh gom hồ sơ cất vào trong tủ có khóa xong lên giường ngủ để
sáng ngày hôm sau còn tiếp tục đi làm việc.
Buổi sáng khi Vũ thức dậy anh vào
“hồng nám” (phòng tắm) để làm vệ sinh cá nhân, xong xuôi thay quần áo và bước
ra phòng khách; nhìn sang bàn ăn, anh đã thấy cô Ỏi chuẩn bị thức ăn sáng sẵn
sàng. Vũ ngồi xuống bàn thấy một tô “cuối tiểu” (Hủ tiếu) và 2 bánh dàu cháo
quảy cùng 1 ly cà phê sữa để sẵn ở chỗ anh ngồi; tất cả vẫn còn bốc khói, chứng
tỏ cô nhân viên mới dọn ra bàn cho Vũ, xong cô ta đã đi chợ để mua thức ăn cho
ngày hôm nay. Vũ thầm khen cô người làm chu đáo trong việc nấu ăn phục vụ chủ
nhân.
Ăn xong thì người tài xế cũng đã lái
xe vào cổng, Vũ xách cặp ra leo lên xe, đi vào Tòa Đại Sứ. Khi gặp ông McIntosh
Vũ được ông cho hay đêm qua chính phủ Thái Lan đã cho những cán binh VC trong
chuyến bay Antonov 26 được trở về VN thể theo sự can thiệp của Bộ Ngoại Giao VN
với Bộ Ngoại Giao Thái Lan và đích thân Thủ tướng Prem Tinsulanonda đã ra lệnh
thả họ về VN.
Chính quyền Thái Lan từ năm 1978 đã
dung chứa lực lượng lưu vong của Pon Pot ở dọc biên giới Thái Miên, họ còn
khoảng 20,000 cán binh ẩn náu trong rừng trên đất Thái Lan, với sự hỗ trợ của
Trung cộng. Lực lượng của CSVN trú đóng dọc biên giới Thái Miên hàng chục Sư
đoàn bộ binh có thiết giáp, pháo binh, công binh và đặc công hỗ trợ; lúc nào
cũng đe dọa trực tiếp an ninh của Thái; chính vì thế chính phủ Thái phải nhượng
bộ CSVN trả những cán binh VC trong vụ Antonov 26 về nước. Vũ nói:
– May quá! Tôi đã hoàn tất cuộc điều
tra và tìm ra được những sự thật của chuyến bay này. Nếu họ trả sớm 1 ngày thì
tôi đành chịu thua.
– Mình thật là may mắn. Một lát tôi
sẽ gửi bản báo cáo này về cho Whasington DC để tùy họ thẩm định.
Rời Tòa Đại sứ Hoa kỳ trở về nhà, Vũ
thấy lòng nhẹ nhõm vì không còn bị áp lực của công việc đè nặng nữa. Anh nghĩ
mình phải nghỉ một ngày thật trọn vẹn để đi rong chơi ở Thủ đô hoa lệ của Thái
Lan cho nó đã trước khi phải quay trở lại công việc hàng ngày.
Vũ Uyên Giang
Khởi viết ở Georgia năm 2016 và hoàn tất Tháng 1 năm 2020
GHI CHÚ:
(1) Lái chính: (tiếng Việt cộng gọi
pilot) Hoa tiêu chính và lái phụ (co- pilot)
(2) Dẫn đường: Nevigator.
(3) Cơ quan A.40 tại Nam Vang là cơ
quan lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam do Lê Ðức Thọ trực tiếp lãnh đạo để
chỉ đạo chiến trường Campuchia. Một thứ quan Thái thú cai trị phần đất bảo hộ.
Thành phần cán bộ cao cấp thuộc Bộ Chính trị Trung Ương Ðảng trong A 40 gồm có:
Lê Ðức Thọ, Phạm Hùng, Trần Xuân Bách, Chu Huy Mân và Lê Ðức Anh. Cơ quan A 50
là chỉ huy quân sự của CSVN trên chiến trường Kampuchia do Lê Đức Anh bí danh
Sáu Nam lãnh đạo.
(4) Cục Quân Báo O.2 và Cục Tình Báo
Chiến Lược O.22 trực thuộc Tổng cục Tham Mưu của quân đội cộng sản Việt Nam. Cơ
cấu tổ chức của quân đội CSVN gồm có 3 Tổng cục: Tổng Tham Mưu, Tổng Cục Chính
Trị và Tổng cục Hậu cần. Trong Tổng cục Tham Mưu gồm có 22 Cục từ O.1 đến O.22,
trong đó O.1 là Cục Quân lực, O.2 là Cục Quân báo, O.3 là Cục Tác chiến v.v…
Cục Bảo Vệ cơ quan trực thuộc Tổng cục Chính trị (có nhiệm vụ tương tự như An
Ninh Quân Ðội của VNCH. – Military Security Services viết tắt là MSS). Thời
gian năm 1982, Cục trưởng Cục Quân báo là Trung tướng Phan Bình (sinh năm 1934,
chết năm 1987). Đến năm 1995 Cục Quân Báo được nâng cấp thành Tổng Cục Tình báo
hay Tổng Cục 2 (do sự sáp nhập Cục Quân Báo và Cục Tình Báo Chiến Lược mà
thành). Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2 là Trung tướng Đặng Vũ Chính (từ 1995 đến 2002;
sau đó là Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh (từ 2002 đến 2009). Tổng Cục 2 được trực
thuộc Bộ Quốc Phòng Viêt Nam. Tổng cục Tình báo Quốc phòng hay Tổng cục 2 thuộc
Bộ Quốc phòng Việt Nam được thành lập trên cơ sở Cục Tình báo (Cục 2), Bộ Quốc
phòng năm 1995 và hoạt động theo Pháp lệnh tình báo do Chủ tịch Quốc hội Nông
Đức Mạnh ký ngày 14 tháng 12 năm 1996 và nghị định 96/CP do Thủ tướng Võ Văn
Kiệt ký ngày 11 tháng 9 năm 1997.
(**Ghi Chú**) Tổng Cục 2 Quân báo khác với Tổng cục Tình báo (hay Tổng cục 5
trực thuộc Bộ Công an/ CSVN)
(5) Mặt Trận E (tức Mặt trận Thái
Lan) gồm có 2 Ðoàn E 71 và Ðoàn E 72 là hai đơn vị chiến đấu của VC trong đất
Thái ngụy danh là Cộng sản Bắc Thái. Cấp bộ tương đương Trung đoàn thiếu. Hai
đơn vị này hoàn toàn là cộng sản Bắc Việt đội lốt là cộng sản Thái Lan… Chỉ huy
Mặt Trận Thái Lan ngụy danh là cộng sản Bắc Thái là Thương tá Nguyễn Xuyên. Tên
Nguyễn Xuyên đã được thăng cấp Đại tá từ sau năm 1983.
(6) Angkor là kinh đô cũ của Vương
quốc Cao Miên dưới triều đại Angkorian. Angkor Wat có nghĩa là Chùa Angkor (hay
có thể gọi là Chùa Kinh đô vì Angkor là kinh đô và Wat là chùa) được xây dựng
dưới triều đại của Vua Suryavarman II (1113- 1150). Chùa cũng là nơi đã tổ chức
tang lễ nhà Vua và là lăng tẩm của Vua nên các mặt tượng Avelokitesvara được
chạm trổ phảng phất giống mặt Vua.
(7) Quân đội Thái trú đóng ở biên
giới Thái – Miên thường dùng loại xe pickup truck loại nhỏ làm phương tiện di
chuyển.
(8) Quận lỵ Aranya Prathet (tiếng
Thái อรัญประเทศ đọc là A Răng da pra thét nhưng người Thái phát âm chữ răng
thành lăng nên họ nói A lăng da pra thét. Hay như chữ Hà ròi ma có nghĩa là
ngon thì họ phát âm thành hà lòi ma) trước thuộc Tỉnh Prachinburi, khi tỉnh
Sakaeo được thành lập năm 1993, quận này đã sát nhập vào Sakaeo. Quận lỵ Aranya
Prathet cách biên giới Thái- Miên chừng 5.5 kms đường chim bay.
(9) Ðại tá Tong Ðen đã được nhắc đến
trong Tập truyện ngắn Trên Ðường Biên Giới của tác giả xuất bản năm 2000. Ông
ta là người đã giam giữ Trung úy Pilot Lê Văn Tống tại nhà giam Aranya Prathet
(tức Lý Tống người đã 2 lần rải truyền đơn ở Việt Nam bằng phi cơ). Nhà giam
này thường được người Việt tị nạn biết đến dưới tên nhà giam Aran, nơi giam giữ
những binh sĩ VC bị bắt hoặc ra đầu hàng ở dọc biên giới Thái Miên.
(10) Ðơn vị 506 Tình báo biên giới
trực thuộc Biệt đội 309 Quân báo/Bộ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Hoàng Gia Thái Lan,
do Thiếu tướng Sud Sai làm Biệt đội trưởng. Căn cứ của Biệt đội 309 Quân báo
đặt tại Bangkok
(11) Ca sĩ Thái Thanh bị đình hoãn
chuyến bay mãi mấy tháng sau mới sang đến Thái. Chị hiện định cư ở Nam
California.
(12) Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn định cư
ở Nam California và đã qua đời năm 2004.
(13) Nhà văn Hà Thúc Sinh, tác giả
Ðại Học Máu hiện cư ngụ tại thành phố Houston, Texas.
(14) Nhạc sĩ Phạm Duy cư ngụ tại
thành phố Midway City, California và đã qua đời ở Saigon, Việt Nam năm 2013.
(15) Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã
được sang định cư ở Virginia; sau đó dọn về Nam California và qua đời ngày
2/10/2012.
(16) Thạch Thom, cựu Ðại úy, Sĩ quan
liên lạc cạnh đơn vị đồng minh ở Ðà Nẵng. Anh sang Hoa kỳ định cư cuối năm 1982
và cư ngụ ở Seattle, Washington; đã chết vì bệnh.
(17) Ðào Sanh Ngân, Ðại úy pilot
trực thăng ở đơn vị Không Quân VNCH tại Nha Trang (cùng phi đoàn với Thiếu tá
Nguyễn Kim Huờn tức Nguyễn Kim (bí danh khi hoạt động ở Thái là Kim Komori),
Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại của MTQGTNGPVN ngày nay đã lột xác thành Ðảng
Việt Tân); Ngân hiện cư ngụ ở San Jose, California và là chủ nhân một cây xăng.
Tôn Thất Hồng, Thiếu úy pilot trực thăng hiện đang làm cho hãng máy bay Boeing
tại Seattle, WA. Nguyễn Hoàng Châu, tức Châu Ẹo cựu Thông dịch viên của Hoa kỳ,
hiện đang cư ngụ ở Los Angeles, CA. Bùi Minh Ngọc, Thiếu úy KQVNCH hiện đang cư
ngụ ở Jersey City, New Jersey và là chủ nhân của Văn phòng dịch vụ bán vé máy
bay, phiên dịch giấy tờ v.v…, Trương Long, cựu Thông dịch viên của Hoa kỳ hiện
đang cư ngụ tại Chicago, Illinois; Long làm cán sự xã hội cho Hội Traveller
Immigration Aid (TIA); nhưng đã nghỉ và mở một văn phòng dịch vụ di trú ở
Chicago, Illinois.
(18) Khun tiếng Thái có nghĩa là Ông
và Chanas Michay cũng có nghĩa là Victor (chiến thắng)
(19) Sathorn Nua là đường Sathorn
phía Nam. Sathorn Tai là đường Sathorn phía Bắc
(20) Thanon Vithayu (tiếng Thái đọc
là Tha nỏn Vi tha dú). Thanon có nghĩa là đường lộ, Vithayu có nghĩa là vô
tuyến điện nên còn được gọi là Wireless Street.
(21) Tướng Thaklaeo Susillavorn Tư
Lệnh Không Quân Hoàng Gia Thái (1981- 1983).
(22) Tỉnh Lai Châu nằm ở cực bắc của
Miền Bắc VN. Bắc giáp Trung cộng; Nam giáp tỉnh Điện Biên và Sơn La; Đông giáp
Lào Cai và Yên Bái; Tây giáp tỉnh Điện Biên. Cấu trúc của Tỉnh gồm Thành phố
Lai Châu và 7 Huyện: Mường Tè, Nậm Nhùn, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Tân
Uyên, Than Uyên.
(23) Chiến dịch Nguyễn Huệ được VC
khai diễn trong năm 1972 mà ta thường gọi là Mùa Hè Ðỏ Lửa dựa theo một tác
phẩm cùng tên của Phan Nhật Nam. Trong chiến dịch này được chỉ đạo của Bộ Chính
Trị Trung Ương Ðảng CSVN với khẩu hiệu “Khí thế như Mậu thân, Ra quân như
Nguyễn Huệ, Thực hiện di chúc Hồ chủ tịch giành thắng lợi cuối cùng bằng quân
sự để giải phóng Miền Nam”
(24) Tỉnh Thái Bình gồm có 7 Huyện:
Huyện Vũ Thư, Huyện Kiến Xương, Huyện Tiền Hải, Huyện Thái Thụy, Huyện Đông
Hưng, Huyện Quỳnh Phụ, Huyện Hưng Hà và 1 Thị Xã Thái Binh. Huyện Vũ Thư có 29
xã là các xã: Hồng Lý, Đồng Thanh, Xuân Hòa, Hiệp Hòa, Phúc Thành, Song Lãng,
Tân Hòa, xã Việt Hùng, xã Minh Lãng, xã Minh Khai, xã Dũng Nghĩa, xã Minh
Quang, xã Tam Quang, xã Tân Lập, Bình Thuận, Tự Tân, Song Am, Trung An, Vũ Hội,
Hòa Bình, Nguyên Xá, Việt Thuận, Vũ Vinh, Vũ Đoài, Vũ Tiên, Vũ Vân, Duy Nhất,
Hồng Phong và Thị Trấn Vũ Thư.
(25) Đại Học Chulalongkorn là một
trường lớn ở Bangkok, tọa lạc trong khu tứ giác phía Bắc là đường Rama I, phía
Nam là đường Rama IV, phía Tây là đường Bunthat Thong, phía Đông là đường
Ratchadamri. Ở goác đường Rama IV và Rachadamri có một bệnh viện lớn nhiều tầng
mang tên Chulalongkorn Hospital.
(26) Sư Thiện Dũng trước năm 1975 tu
ở Di cư vào Sài Gòn sau ngày 20 tháng 7 năm 1954, ngày học nghề và tối học chữ.
– Năm 1962, tu học tại Chùa Pháp
Quang, Gia Định.
– Năm 1967, tốt nghiệp Phật Học tại Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
– Đầu năm 1971, tu học tại Chùa Hoàng Gia Cẩm Thạch ở Bangkok, Thái Lan. Tốt
nghiệp ưu hạng Triết Học Abhidhamma tại Jotika College thuộc Đại Học
Chalalongkornrauavidyalay tại Bangkok.
– Từ năm 1976 tới 1982, Giáo sư Triết Học Abhidhamma tại Jotika College ở
Bangkok, thành viên Ban Xuất Giải Đề Thi.
– Năm 1987, đoạt giải nhì trong cuộc thi Phật học do Hội Phật Giáo Liên Hữu Thế
Giới tổ chức.
– Năm 1979, Giáo sư Việt Ngữ tại Trung Tâm Trao Dồi Sinh Ngữ Đông Nam Á Châu,
Phân Khoa Cao Học Văn Khoa, Đại Học Y Khoa Mahidol tại Bangkok, Giáo Sư Trường
Sinh Ngữ Quân Đội tại Trung Tâm Bảo Vệ An Ninh Quốc Gia Thái Lan, được mời đảm
nhiệm chức vụ Giám Đốc Việt Khoa.
– Năm 1981, đậu thủ khoa về Đệ Nhất Giảng Sư Thượng Cấp Triết Học Abhidhamma
tại Đại Học Chulalongkornrauavidyalay, Bangkok.
– Cuối năm 1982, qua cư ngụ tại Chùa Pháp Vân, Pomona, California, Hoa Kỳ.
– Ngày 28- 10- 1984, thành lập Đoàn Phật Tử Sakyamuni và ngày 2- 7- 1986, thành
lập Trung Tâm Việt Ngữ Pomona tại Pomona.
– Năm 1987, tham gia vận động thành lập Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ
Miền Nam California, và được mời đảm nhiệm chức vụ cố vấn.
– Năm 1986, in và phát 3,000 cuốn Chữ Việt Học Mau cho các em và các nơi cần
dùng cùng các thư viện.
– Ngày 25- 2- 1988, tham gia vận động thành lập Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam
Nam California.
– Các chức vụ đảm nhiệm từ năm 1968 tới 1990: Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già
Nguyên Thủy Việt Nam, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt Miền
Trung 1970 và Kiều Bào Lánh Nạn từ Cao Miên trở về Tây Ninh năm 1970, Thành
Viên Danh Dự của Ủy Ban Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do, …
Hòa thượng Thích Thiện Dũng đã viên
tịch ngày Thứ Năm, 26 tháng 1 năm 2012. Hưởng thọ 75 tuổi.
(27) Thượng tá Nguyễn Xuyên đã được
thăng cấp Đại tá vào năm 1983. Đoàn 71 và 72 tương đương cấp Trung đoàn thiếu.
(28) Theo đài RFA: Đảng Cộng sản
Thái Lan (Tiếng Thái: พรรคคอมมิวนิสต์แห่งประเทศไทย) hay còn gọi là đảng CPT, hậu thân của Đảng Cộng sản Xiêm
là một trong những chính đảng lớn đã từng tồn tại trong Lịch sử Thái Lan. Thành
lập vào 1 tháng 10 năm 1942 và phát triển mạnh trong những năm của Chiến tranh
Lạnh. Đảng Cộng sản Thái Lan từng là đảng cộng sản mạnh thứ nhì Đông Nam Á sau
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đảng này đã dần
tan rã và không còn tồn tại trên đất nước Thái Lan vào những năm 1990, tuy
nhiên một nhóm nhỏ của đảng này vẫn còn hoạt động và địa bàn của nhóm này chủ
yếu ở khu vực biên giới giữa Lào và Campuchia. Các cựu thành viên của Đảng Cộng
sản Thái Lan tiếp tục hoạt động chính trị trong tổ chức Chung tay Xây dựng và
Phát triển Dân tộc Thái, tham gia các đảng chính trị và quốc hội Thái Lan.
Năm 1929, Hồ Chí Minh thừa lệnh Quốc
tế Cộng sản thực hiện hợp nhất hai tổ chức cộng sản của người Hoa và người Việt
tại Thái Lan thành Đảng Cộng sản Xiêm. Đảng này hoạt động bí mật với chủ trương
lật đổ hoàng gia Thái bằng bạo lực. Đảng phát triển nhanh chóng và lôi kéo được
thành phần dân nghèo nhưng bị chính quyền khủng bố và đàn áp gắt gao. Để đối
phó, lãnh đạo đảng cộng sản Xiêm quyết định đào tạo một thế hệ lãnh đạo mới rồi
thành lập Đảng Cộng sản Thái Lan vào ngày 1/12/1942. Năm 1948, Đảng Cộng sản
Thái Lan có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân
nghèo. Đảng Cộng sản Thái Lan theo chủ nghĩa Marx- Lenin và tư tưởng Mao Trạch
Đông. Đảng Cộng sản Xiêm được Quốc tế Cộng sản tài trợ, sau này Đảng Cộng sản
Thái Lan được cộng sản Trung Quốc và Việt Nam viện trợ bằng tiền và vũ khí,
thông qua các đảng cộng sản từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia…
Năm 1960, Đảng Cộng sản Thái Lan
tham dự đại hội toàn quốc lần hai của đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia cuộc
họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Moskva. Tại hội nghị
này, khi xảy ra mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung cộng thì Đảng Cộng sản Thái Lan
đã ngả theo Trung cộng. Thời điểm này, số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ
của Đảng Cộng sản Thái Lan tương đối lớn. Các tổ chức của đảng này đã có mặt ở
hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô
Bangkok.
Năm 1965, Quân đội giải phóng nhân
dân Thái Lan do Đảng Cộng sản Thái Lan được thành lập. Đấu tranh vũ trang trở
thành phương cách đấu tranh chính thức với sự yểm trợ của các nước cộng sản
trong khu vực. Năm 1969 đảng này thành lập Mặt trận yêu nước Thái Lan. Năm
1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã thành lập Liên minh các tổ chức đấu tranh cho
dân chủ và tự do của Thái Lan với Quân đội giải phóng nhân dân Thái Lan là nòng
cốt. Đây là giai đoạn mạnh nhất của Đảng Cộng sản Thái Lan. Họ được sự ủng hộ
của rất đông dân chúng và học sinh sinh viên nhất là sau hai vụ bạo động của
sinh viên ở thủ đô Bangkok bị chính quyền Thái Lan đàn áp đẫm máu vào các ngày
14/10/1976 và 6/10/1979. Ước tính số đảng viên cộng sản và du kích của đảng
Cộng sản Thái Lan gần một vạn người và khoảng một triệu người ủng hộ. Một nửa
các thành phố Thái Lan có tổ chức đảng cộng sản.
(29) Tỉnh Cao Bằng là một tỉnh có
rừng và núi chiếm 90% diện tích, ở phía Bắc VN; Bắc giáp Quảng Tây của Trung
cộng có đường biên giới hơn 333 Kms; Tây giáp tỉnh Hà Giang; Tây Nam giáp tỉnh
Tuyên Quang; Nam giáp Bắc Kạn và Lạng Sơn. Cao Bằng có 2 con sông lớn chảy qua
là sông Gấm ở phía tây và sông Bằng ở trung tâm (thường đực gọi là Bằng Giang);
ngoài ra còn có các sông nhỏ như sông Quay Sơn, sông Bắc Vọng, Sông Nho Quế,
sông Năng, Sông Neo và sông Hiến. Cao Bằng có 12 Huyện và 1 Thành phố đó là:
a/ Thành phố Cao Bằng
b/ Huyện Bảo Lâm.
c/ Huyện Bảo Lạc.
d/ Huyện Nguyên Bình.
e/ Huyện Thông Nông
f/ Huyện Hà Quảng.
g/ Huyện Trà Lĩnh.
h/ Huyện Hòa An.
i/ Huyện Thạch An.
j/ Huyện Phục Hòa.
k/ Huyện Quảng Uyên.
l/ Huyện Hạ Lang
m/ Huyện Trùng Khánh.
(30) Binh đoàn Trường Sơn hay Đoàn
559 được thành lập vào năm 1959 để xây dựng hệ thống đường Trường Sơn với lực
lượng gồm một Tiểu đoàn giao liên D 301 với 440 người. Đoàn trưởng là Thượng tá
(sau là Thiếu tướng) Võ Bẩm. Sau đó, đoàn 559 chuyển các tuyến giao thông của
mình sang sườn Tây của dãy Trường Sơn. Một năm sau, đoàn 559 đã đạt được quân
số 6.000 người với hai trung đoàn 70 và 71. Có 5 khu căn cứ lớn trong vùng cán
xoong của Lào. Căn cứ 604 là trung tâm hậu cần chính; từ đó, quân và quân nhu
được điều phối vào Vùng 1 chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa và các căn cứ khác
xa hơn ở phía Nam. Căn cứ 611 hỗ trợ vận tải từ căn cứ 604 tới căn cứ 609; cung
cấp xăng dầu và đạn dược cho căn cứ 607 và tới tận thung lũng A Sao ở Thừa
Thiên. Căn cứ 612 được dành để hỗ trợ Mặt trận B3 tại Tây Nguyên. Căn cứ 614
nằm giữa Chavane (Lào) và Khâm Đức (Nam Việt Nam) vận chuyển quân và hàng hóa
vào Vùng 2 chiến thuật và Mặt trận B3. Căn cứ 609 giữ vai trò quan trọng, do
mạng lưới đường ở đây có thể dùng để vận chuyển quân nhu trong mùa mưa. Ban
đầu, hàng hóa được vận chuyển bằng xe đạp thồ, xe bò. Đến tháng 12 năm 1961,
Đoàn vận tải số 3 của Cục Hậu cần đã trở thành đơn vị vận tải sử dụng xe cơ
giới đầu tiên của QĐNDVN phục vụ trên đường Trường Sơn. Từ đây, vận tải cơ giới
tăng lên nhanh chóng.
Có hai loại đơn vị thuộc Đoàn 559,
các binh trạm và các đơn vị giao liên. Một binh trạm tương đương với một trung
tâm hậu cần cấp Trung đoàn, có trách nhiệm bảo vệ một đoạn đường. Trong khi các
đơn vị độc lập chịu trách nhiệm an ninh, công binh, và các chức năng đánh tín
hiệu, Binh trạm cung cấp các nhu yếu phẩm hậu cần. Các trạm giao liên thường
đóng cách nhau một ngày đường đi bộ, có trách nhiệm cung cấp lương thực, chỗ
trú, y tế, và dẫn đường tới trạm tiếp theo. Đến tháng 4 năm 1965, chỉ huy Đoàn
559 là Tướng Phan Trọng Tuệ, quân số gồm 24.000 người, bố trí trong 6 tiểu đoàn
vận tải bằng xe tải, 2 tiểu đoàn vận tải xe đạp thồ, một tiểu đoàn vận tải
đường thủy, 8 tiểu đoàn công binh, và 45 trạm giao liên. Khẩu hiệu của Đoàn 559
khi đó là “Đánh địch mà tiến, mở đường mà đi”.
Hệ thống đường Trường Sơn phát triển
thành một mạng lưới phức tạp của các con đường đất (một số nơi rải đá hoặc lót
ván gỗ) rộng khoảng 5.5 m, đường cho người đi bộ và xe đạp thồ, bãi đỗ xe tải.
Còn có kho chứa, bãi chứa hàng, doanh trại, bệnh viện, và các cơ sở vật chất
khác. Tất cả được che giấu khỏi quan sát từ trên không bằng một hệ thống ngụy
trang tự nhiên và nhân tạo không ngừng được mở rộng và củng cố.
Thời tiết ở vùng Đông Nam Lào đóng
vai trò quan trọng cả trong nỗ lực hậu cần và cả trong cố gắng của quân Mỹ và
Việt Nam Cộng hòa nhằm phá đường. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, trong
thời gian này, trời luôn nhiều mây, mưa nhiều, nhiệt độ cao. Mùa khô kéo dài từ
tháng 10 đến tháng 3, khí hậu tương đối khô hơn và nhiệt độ thấp hơn. Do mạng
lưới đường chủ yếu là đường đất, khối lượng vận chuyển chủ yếu (và các hoạt
động quân sự mà nó hỗ trợ) được thực hiện vào mùa khô. Về sau, hệ thống đường
được bổ sung bởi vận tải đường sông, kiểu vận tải này cho phép chuyển các khối
lượng lớn quân nhu ngay cả trong mùa mưa. Đến ngày 1 tháng 1 năm 1967 Đại tá
Đồng Sỹ Nguyên (tên thật là Nguyễn Hữu Vũ sinh năm 1923 cấp bậc cuối cùng của
Đồng Sỹ Nguyên là Trung tướng năm 1974) được bố trí làm Tư Lệnh Trường Sơn cho
đến khi Đoàn 559 kết thúc nhiệm vụ vào năm 1976.
(31) Lê Văn Giác, chính là tên khai
sinh của Lê Đức Anh, vào ngày 1 tháng 12 năm 1920 tại làng Trường Hà, huyện Phú
Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm 1937, 17 tuổi, Lê Đức Anh bắt đầu tham gia các
hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp. Tháng 5 năm 1938, Lê Đức Anh gia nhập
đảng Cộng sản Việt Nam.
(32) Thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn tên
thật là Nguyễn Công Tiến, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1926 tại xã Tân Ước, Huyện
Thanh Oai, Hà Nội; Tư lệnh Sư đoàn 320 hoạt động ở Vùng Pleiku, Kontum từ 1970
đến 1975. Sau đó làm Tư lệnh Quân đoàn 3. Kim Tuấn đã bị lực lượng Pon Pot phục
kích giết chết ngày 17 tháng 3 năm 1979 ở phía Bắc Battambang. Tướng Kim Tuấn
có con cũng phục vụ trong quân đội là:
Con gái: Nguyễn Thị Thanh Hà, Thiếu
tướng, Chính ủy Viện Y học Cổ truyền Quân đội.
Con trai: Nguyễn Công Hiếu, Đại tá, Tùy viên Quân sự Việt Nam tại Indonesia
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
– Báo Bangkok Post ấn hành ở Thủ đô
Bangkok, Thaland tháng 6 và 7 năm 1982.
– QUÂN TÌNH NGUYỆN VÀ CHUYÊN GIA
QUÂN SỰ VIỆT NAM GIÚP CÁCH MẠNG CAMPUCHIA GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC KHỎI CHẾ ĐỘ DIỆT
CHỦNG, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1978- 1980)
– Trang web Dựng Nước và Giữ Nước.
– Chiến trường K: Chiến dịch Oudong
– Nhiệm vụ bí mật của quân tình nguyện Việt Nam – Trang Soha.
– Không quân Nhân dân Việt Nam – Tài
liệu VC
– Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn.
(hay là Binh Đoàn 12, hậu thân của Đoàn 559) – Tài liệu VC
– Đường Trường Sơn – Tài liệu VC
– Military History Institute of
Vietnam, Victory in Vietnam: The Official History of the People’s Army of
Vietnam, 1954- 1975.
– Robert J. Hanyok, Spartans in
Darkness. Washington, D.C.: Center for Cryptographic History, NSA, 2002
– Brig. Gen. Soutchay Vongsavanh,
RLG Operations and Activities in the Laotian Panhandle. Washington DC: US Army
Center of Military History, 1980.
– David Fulghum, Terrence Maitland,
et al, South Vietnam on Trial, Boston: Boston Publishing Company, 1984
– John T. Correll, The Ho Chi Minh
Trail, Airforce Magazine Online, November 2005, Vol. 88, No. 11.
– Bài viết của Trần Ngọc Long- Phó
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam về Đinh Văn Đệ – Tài liệu VC