Minh họa Ann Phong
Hồi tôi còn rất nhỏ, khi nắng chiều bắt đầu dịu
thì bà chị cả của cha tôi liền gọi tôi ra giũi cỏ ở sân trước.
Cỏ mọc nhanh lắm, vừa giũi xong chỗ này nó đã mọc lên chỗ khác, thành thử ngày nào cũng phải giũi. Giũi cỏ vào những ngày hanh dễ, đất khô, chép mai đưa tới đâu sạch tới đó. Nhưng vào đận mưa phùn liên miên, lúc đầu xuân hay trong mùa mưa rươi, rễ cỏ gà đã dài lại bám sâu, giũi một túm cỏ thì lôi cả vầng đất lên theo. Những ngày như thế cô tôi phẩy tay, không giũi nữa.
Không phải bà lười, không phải bà mệt, mà là bà tiếc đất. Bà lo trời còn mưa, đất bị nhổ lên theo rễ cỏ sẽ bị trôi đi. Ngay trong những ngày nắng ráo, khi giũi xong, bao giờ cô tôi cũng rũ từng nhúm cỏ cho tới khi không còn đất bám mới thôi. Cỏ khô được xếp thành đống nhỏ trong vườn rau sau nhà. Khi đốt, những đống cỏ ấy bốc lên một mùi ngai ngái. Những đống tro xám của chúng sau một trận mưa là thấm vào những luống rau.
Cô tôi bảo:
- Đất là của quý, cháu ạ. Không có đất rồi lấy
gì mà trồng, lấy gì mà ăn? Cho nên mới phải be bờ cho sân, cho vườn. Mưa nhiều,
màu trôi đi hết, có mà ăn cám!
Không phải chỉ riêng cô tôi quý đất. Không chỉ
người làng tôi, người vùng tôi, mà người ở đâu trên đất nước ta cũng vậy.
Nhà nông ở đồng bằng sông Hồng là những người
rất hiểu đất. Và yêu đất. Họ lo cho sức khoẻ của đất không khác gì lo cho người.
Sau khi thu hoạch, người ta không hối hả làm ngay vụ sau, mà để
cho đất được nghỉ ngơi rồi mới cày. Những tảng đất cày lộn được xếp chồng lên
nhau thành những bức tường dài, cao khoảng một mét, gọi là xếp ải. Đến lúc sắp
cấy mới tháo nước vào, những bức tường nọ đổ khi ấy sẽ đổ sụp xuống làm thành đất
mùn cho những giẻ mạ non.
Giữa người và đất có tình có nghĩa.
Đất không phải chỉ là những mét vuông, những
sào, những mẫu.
Đất là máu, là thịt của con người. Là con người,
phải biết yêu đất, bảo vệ đất.
2
Rừng là một mạch nguồn của sự sống. Không biết tự bao giờ nó đã mất
đi sự tôn trọng. Chủ nghĩa duy vật chỉ là chữ, nhưng nó là thứ chữ có sức mạnh
tiêu diệt mọi niềm tin. Rừng hết thiêng. Nếu như xưa kia những người sơn tràng
bước vào rừng phải tháo khăn đầu rìu, cúi thấp thắp hương xin thần rừng cho
phép rồi mới dám đốn vài cây gỗ lớn, thì nay người ta cho cưa máy chạy xoèn xoẹt
hạ bất cứ cây nào có thể bán được.
Rừng bắt đầu bị tàn phá từ thời kháng chiến chống
Pháp. Nhưng thôi, chuyện ấy không kể, nó là chuyện bất đắc dĩ, khi bộ đội thiếu
gạo ăn, chỉ trông vào sắn.
Chiến tranh qua rồi, nạn phá rừng vẫn tồn tại. Một người bạn tôi
được giao một đại đội đào binh làm nhiệm vụ vỡ hoang hai cánh rừng gỗ tếch để
trồng sắn. Thu hoạch xong vụ đầu tiên, anh toát mồ hôi: công lao của bấy nhiêu
con người cả năm trời chỉ đủ mua ba cây tếch, nhiều nhất là ba cây rưỡi.
Tôi hỏi anh đã báo cáo lên cấp trên cách anh
tính toán chưa, anh nói anh không dám. Người ta đã báo cáo thành tích khai
hoang rồi, nói thế có mà chết. Những cái đầu đất phá rừng để lấy thành tích
khai hoang chưa kịp chết thì lũ con buôn đã thế chỗ. Chúng nhân danh phát triển
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu gỗ, đốn bất cứ cây nào bán được.
Tôi vốn không tin những con số thống kê ở nước ta. Chúng được
các viên chức chững chạc tạo ra ở các bàn giấy và chẳng bao giờ cho ta một hình
dung tương đối đúng.
Chẳng hạn, con số ước chừng của mấy người bạn
xót xa rừng bị phá cho biết diện tích rừng ngày nay ở nước ta so với 20 năm trước
chỉ còn lối 25 phần trăm. Tôi từng nghĩ con số này được thổi phồng. Chỉ tới khi
được nhìn tận mắt những bản đồ rừng bị tàn phá, được xem phim quay từ vệ tinh tại
trạm khí tượng tỉnh Strassbourg (Pháp), tôi mới tin nó có thật.
Hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ qua bến
Trung Hà là đã tới rừng, vượt qua vùng bưởi Đoan Hùng là đã gặp rừng nguyên
sinh, vậy mà nay lên tới tận Tuyên Quang vẫn còn là trung du. Diện tích rừng so
với bây giờ chắc chắn còn bị thu hẹp nhiều hơn nữa.
Và tốc độ tàn sát rừng chưa có dấu hiệu giảm.
Hết rồi rừng vàng, hết rồi biển bạc, hết luôn những trang tự sướng từng được viết
nắn nót trong sách giáo khoa.
Rừng ăn đời ở kiếp với người, nuôi sống con người, đã bị con người
khai thác đến kiệt quệ.
Giờ đây, nó hấp hối.
3
Đầu Công nguyên, dân số toàn thế giới ước tính
có khoảng 170 triệu người. Đến năm 2016, dân số thế giới đã là 7,4 tỷ người.
Người đông lên, nhưng diện tích đất thì vẫn nguyên đấy.
Có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người cầm quyền thế hệ tôi,
tôi hiểu được cách nghĩ của họ. Trong quá khứ, lúc khởi đầu, họ là những chiến
sĩ cách mạng đáng trọng, xuất thân từ những tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng
không phải là những người uyên bác. Cách mạng đặt họ vào những vị trí họ không
bao giờ nghĩ tới là quản trị một xã hội. Ngồi bàn giấy bóng lộn, , máy điều nhiệt
êm ru, được chỉ đạo bằng thứ lý thuyết mơ hồ, họ không biết làm việc gì khác ngoài
việc sản xuất các nghị quyết. Khi thì “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chiếu
cố thích đáng công nghiệp nhẹ”, khi thì ngược lại, “ưu tiên phát triển công
nghiệp nhẹ, chú trọng xây dựng nền móng công nghiệp nặng”… Những nghị quyết được
đúc trong cùng một lò, cái này na ná cái kia, những câu chữ sang trọng được các
thư ký chấp bút nhào lộn thành thạo như làm xiếc.
Cơn mê công nghiệp hoá chiếm lĩnh toàn bộ ý
nghĩ của nhà cầm quyền. Thảng hoặc có nói tới nông nghiệp người ta thì cũng chỉ
lớt phớt, những từ ngữ chính trị đều hướng về chuyện cải tạo quan hệ sản xuất.
Lê Duẩn, người được ca tụng có trí tuệ sáng như ”ngọn đèn 200
bu-gi” đã phát biểu tại Đại hội Đảng III, tháng 9/1960 như sau: “Công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa là nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ
nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong đó mấu chốt là cải biến chế
độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành
các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sức sản
xuất phát triển”(nguyên văn).
Người nông dân với mảnh ruộng của mình được
coi là chế độ sở hữu tư liệu không xã hội chủ nghĩa, cần được nhanh chóng cải tạo
thành sở hữu xã hội chủ nghĩa.
“Cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở
hữu xã hội chủ nghĩa” của ngọn đèn sáng chói nọ đã đem lại kết quả thế nào thì
người không cần sáng mắt cũng thấy. Để rồi sau những thất bại, những người bắt
người khác phải làm theo những sáng tạo của họ không một chút ngượng ngùng vỗ
ngực bồm bộp khoe họ đã tài tình và sáng suốt “cởi trói” cho cái bị chính họ
trói.
Trong cải cách ruộng đất, Trường Chinh giảng
giải: “Cải cách ruộng đất về cơ bản là một cuộc đấu tranh chính trị”.
Thì ra các “lãnh tụ” đâu có muốn sửa đổi tình trạng bất bình đẳng
trong sở hữu đất đai . Họ muốn cái khác kia. Cho nên chưa chia lại ruộng thì phải
đấu tố cái đã. Dưới khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp địa chủ” là cả một phong trào
vu cáo để tàn sát những người đã ủng hộ Cách mạng Tháng Tám trong chính quyền
thôn xã, những người ngây thơ và cả tin rằng có cách mạng là có bình đẳng giữa
những đồng chí thề hy sinh tất cả vì độc lập, vì tự do. Cần phải diệt cho bằng
hết những kẻ bất mãn với tôn ti trật tự mới được du nhập từ Trung Quốc vĩ đại -
đó mới là mục đích của Trường Chinh trong cái gọi là cải cách ruộng đất.
Có bao nhiêu người không tên tuổi đã mất mạng
trong cuộc giết chóc vĩ đại nhất trong lịch sử?
4
Khẩu hiệu: “Chính trị là thống soái” vay mượn của các thầy Tàu được
đặt lên hàng đầu trong một thời gian dài. Các nhà khoa học, các chuyên gia được
đưa về nông thôn, vào các xưởng máy, không phải để nghiên cứu cái gì, mà để học
tập tinh thần lao động. Mao Trạch Đông đã dạy: “Trí thức không bằng cục cứt”.
Những người nắm quyền lực trong tay không mơ
thấy gì khác ngoài những nhà máy nhả khói lên trời và những ô tô chạy băng băng
trên “đường ta rộng thênh thang tám thước” (thơ Tố Hữu). Đầu óc tủn mủn, giấc
mơ cũng tủn mủn.
Chúng tôi được ăn no nê bo bo cùng với những
nghị quyết không cho phép cãi lại về một phương thức sản xuất tiên tiến hứa hẹn
một thiên đường mai sẽ có.
Đó là chuyện đã xưa. Chỉ có thể tự an ủi rằng
ít nhất thì cái “Chính trị là thống soái” được tuyên bố ra miệng cũng còn đỡ dơ
dáy hơn cái “Tiền là thống soái” không nói ra sau này.
Những nghiên cứu khoa học trước kia cho ta biết:
Ở nước ta nhiệt độ trung bình trong năm từ 22ºC đến 27ºC , Bây giờ nhiệt độ cao
hơn rất nhiều do hậu quả của nạn phá rừng, chặn sông, lấp hồ.
Cũng những nghiên cứu khoa học cho biết: hàng
năm có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm
không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ, nhiệt bức xạ
trung bình năm 100kcal/cm². Nhìn chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một
mùa tương đối lạnh, mưa ít. Do ảnh hưởng gió mùa, địa hình phức tạp, khí hậu nước
ta luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi
khác (từ Bắc xuống Nam và từ thấp lên cao). Nhưng chính vị trí địa lý và sự đa
dạng về địa hình lại là điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng về chủng loại thực vật.
Sự đa dạng ấy dần mất đi do những nghị quyết “nuôi con gì, trồng cây gì” nảy ra
trong những cái đầu ngu ngốc.
Nước ta là một nước nông nghiệp. Nó được
thiên nhiên cho con người những điều kiện tốt nhất để làm nông. Thay vì chú trọng
công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu
thì những thế hệ cầm quyền nối tiếp nhau ra sức làm cái khác: công nghiệp hoá
theo cách những nước không được thiên nhiên ưu đãi làm nông nghiệp.
Người ta hối hả mời tư bản nước ngoài vào để sản
xuất ô tô, thực chất là bán sức lao động tại chỗ trong việc lắp ráp. Nền công
nghiệp được tạo ra bằng nghị quyết và khẩu hiệu không làm ra được cái đinh ốc
cho ra hồn. Được chính quyền bảo kê, những nhà tư bản nội địa cướp đất của dân,
đẩy hàng vạn người suốt đời làm nông nghiệp ra khỏi mảnh đất cha ông, bắt họ phải
sống vật vã trong cảnh bần cùng.
Có cần phải đưa dẫn chứng không?
Không.
Đất ruộng bị cướp, rừng bị phá tan hoang, chỉ
để xây dựng những thứ không nhất thiết phải có ngay lập tức - những khu công
nghiệp hoành tráng của nước ngoài, những ngôi nhà chọc trời, làm những khu nghỉ
dưỡng sang trọng, những sân gôn mênh mông. Hậu quả nhỡn tiền là lũ lụt triền
miên, ô nhiễm lan tràn từ Nam chí Bắc, khí hậu biến đổi. Việt Nam từ một nước
bình thường trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Nông dân ngày xưa không biết đến các thứ phân bón hoá học, các hứ
thuốc trừ sâu. Ngày xưa người nông dân xem trời xem đất biết khi nào nên gieo mạ,
khi nào cấy, không chờ những chỉ thị “phấn đấu cấy cho hết diện tích vào ngày A
hay ngày B”. Cũng ngày xưa ấy có nhiều giống lúa, rất đa dạng và thích hợp với từng
cánh đồng, từng chân ruộng. Gạo cho những bữa cơm cũng nhiều thứ. Cho dù năng
suất không cao, gạo tám thơm mà thế hệ tôi được ăn là thứ gạo tuyệt ngon, con
cháu bây giờ không biết mặt mũi nó thế nào. Thứ tám thơm hạt dài, nấu cơm ở cuối
ngõ, đầu ngõ nghe thấy hương bay ngào ngạt. Cái cũng mang danh tám thơm mà các
cửa hàng đặc sản ngày nay dọn cho khách sẵn tiền là cũng là thứ gạo hạt dài, đẹp
mã, giỏi lắm cũng chỉ là bà con xa của thứ tám thơm đã tuyệt chủng.
Bây giờ thì thiên hạ mơ ước “bao giờ cho đến
ngày xưa”. Người rủng rỉnh tiền mới được ăn các thứ rau quả giá đắt từ các cửa
hàng bio đang mọc lên như nấm, chỉ ở đó mới có những thứ trời sinh người dưỡng.
Người nghèo thì đành ra chợ nhắm mắt mua về những thứ được tẩm đẫm hoá chất độc
hại nhập cảng từ đất nước “bạn vàng”. Hậu quả của cuộc chạy đua theo lợi nhuận
là sự huỷ hoại tâm hồn những người nông dân hiền lành, biến họ thành những sát
thủ giấu mặt.
Đường là do người đi lại nhiều mà thành. Đó là
thuận theo tự nhiên. Những con đường được vẽ ra trong đầu những người tự xưng
“lãnh đạo” không dẫn tới phồn vinh mà dẫn tới đói nghèo.
May thay cho các dân tộc không có những nhà
lãnh đạo tự xưng như ta có.
Tôi có anh bạn Nga giám đốc một công ty du lịch.
Công ty của anh khá phát đạt. Anh cho biết: “Du khách của tôi có hai loại. Một
là loại thích xem di tích lịch sử. Một loại thích tìm đến thiên nhiên hoang dã.
Loại thứ hai ngày một đông. Người ta không đến nước Nga để xem các nhà máy mới
xây dựng. Họ muốn được chiêm ngưỡng những gì còn lại của thiên nhiên chưa bị huỷ
hoại”.
Nhiều quốc gia trở nên giàu có nhờ du lịch.
Người ta không đến Tây Nguyên để ngắm những công trình bằng bê tông cao ngất, để
ngủ trong những căn phòng sang trọng của những khách sạn 5 sao. Người ta muốn
được xem những nhà sàn, nhà rông, những tượng gỗ mốc meo ở những nhà mồ, được
lang thang trong những rừng già nguyên sinh.
Những thứ đó không còn nữa.
Một câu hỏi bất giác nảy ra trong tôi: “Liệu
tiền của kiếm được từ những nhà máy làm ô tô, những công xưởng người nước ngoài
được mời gọi đặt ở nước ta so với cái thu được từ du lịch sinh thái sẵn có rồi
cái nào sẽ lớn hơn”?
5
Bây giờ có người đã tỉnh ra, nói: “Lỗi ở chúng
ta. Chúng ta đã không thuận theo thiên nhiên”.
Tôi không thể nói như thế.
Từ “chúng ta” bị lạm phát vô tội vạ. Dân
chúng, tức là chúng ta, từ lâu đã mất hết mọi quyền, kể cả quyền có lỗi. Người
không được làm theo ý mình thì sao có thể gây ra lỗi?
Lỗi ở kẻ khác.
Lỗi ở kẻ nắm quyền cai trị đất nước, kẻ tự
tung tự tác, muốn làm gì thì làm, dân chỉ có việc nghe theo, vì chúng vĩnh viễn
“duy nhất đúng” và “vô cùng sáng suốt”, chỉ có chúng mới xứng đáng để dẫn dắt
bá tính.
Bây giờ, một lần nữa, chúng lại xưng đúng khi
mang đất đai của tổ tiên ra bán từng phần.
Trước khi chúng sắn tay áo bán tất!
Vũ Thư Hiên