So với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C. tương đối nhẹ. Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên, tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát lên đại học bốn năm.
Một niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ
rộng mở thênh thang, thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall
2000 tôi đã ghi danh lớp History 274 “U.S. and Vietnam”. Tôi “lấy” lớp Sử Ký
này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ
ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì
sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan.
Trong thời gian dài cả chục năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn
môn sinh. Những học trò của ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm,
đã trở thành những Thạc Sĩ, Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông
thầy cũ.
Lớp “U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học
viên, trong đó da trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu
lục địa, một cậu bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn
mấy đứa con tôi nhiều.
Tôi cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo
đem truyền bá, phải nằm trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ
Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự
trị từ lâu. Thầy giáo có toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học
trò mình tới bất kỳ bến bờ nào mà thầy đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo
khoa nào thầy sẽ dạy để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy
ưng ý.Trong hai phần ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới
phong trào Việt-Minh, ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ
tài ba, và vô cùng sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến
thắng thoát ách đô hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc
chiến tranh Đông-Dưong lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã
năm lần gửi mật thư cho Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác,
nhưng Tổng Thống Harry Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ
giúp quân Pháp trở lại tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu
tranh giành độc lập đang lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã
lỗi thời.
Chúng tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên
Phủ, về Hiệp- Định Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang
quốc tế như Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng
tôi chỉ được thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa.
Trận Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này
đều có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi
chưa nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy
mô tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả
năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho
ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ
tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay
vào quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch
sự gián tiếp nhắc nhở cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị
giáo sư nói có sách, mách có chứng.
Thầy hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống
chiến tranh thời 1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng
trăm ngàn thanh niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều
lãnh điểm (F) bởi vì tôi chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu
luận (essay) thì tôi bị loại thẳng tay.
Cả hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không
hợp ý ông thầy. Ngặt một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường
đại học bốn năm. Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of
Washington của tôi sẽ thành mây khói.
Tôi theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với
cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất
có ác cảm với chiến tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là
thành trì của Đảng Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai
thông cảm!
Thời gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng,
mùa Fall 2000 có thiếu gì lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng
vào cái lớp chết tiệt này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi
mình, chửi quân đội mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông
bố rầu rầu bèn lân la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới
cho tôi hay, năm ngoái nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để
thoát thân, từ bài thi thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới
kiếm được đủ điểm.
Sau ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống
thư viện nghiên cứu, sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam.
Tôi không màng đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ,
nếu có cơ hội là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi
muốn ra sao thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một
quyển Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả
mà Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có
cả một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn
thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông
giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có thứ
tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất vấn
thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những tài
liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có một
giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thầy giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời gian
còn lại, thầy sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao nộp
vào đầu giờ buổi học cuối cùng. Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn ông
giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho một cuộc
đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
– Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình
bày với ông đôi điều liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa
qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút được không?
Thầy Dan niềm nở, – Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ
nói.
Thấy câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng, – Thưa
giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội
Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc
lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ
oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang..Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm
đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười
năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ
cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung
lũng Ia-Drang qua báo chí, truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn
lội mười năm ở đó, đã nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho
nhiều đồng đội nằm xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu
những thanh niên Mỹ đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên
mình từng ngày, vì nền độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy
chưa từng khoác áo nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy
không hiểu nổi thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là
lòng khát khao chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương
binh què quặt của một đơn vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường
máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng
thương; và vì sao một đại tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam
để rồi ông bị mảnh đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của
Hoa-Kỳ đã tiếp tay với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc,
bóp méo tất cả những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc
Chiến-Tranh Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh
bóng thành một vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan
không biết bao nhiêu đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm
chiến tranh.. Nằm trong số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu,
cha tôi và chú tôi cũng bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản
là tốt đẹp, thì đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định
Geneve năm 1954, và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu
thuyền nhân trên biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm
1975. Thầy chỉ mới thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy,
thân mình phỏng cháy vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà
thầy đã thấy xót xa, cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao?
Ngày 18 tháng Tư năm 1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã
tận mắt chứng kiến một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy
ruồi nhặng, trên chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính.
Chị bị Việt-Cộng lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát
lưỡi lê, ruột gan lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc
hầm là xác đứa con trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai
chân bằng dây dù và cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai
người này vừa theo chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được
vài ngày. Họ đã không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư
năm 1974.
Câu chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại
lớp. Ông giáo vỗ vai tôi, – Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời
gian chuẩn bị bài thi viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy
Dan nói nhỏ với tôi,
– Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi
mong được nghe thêm. Tôi không ngần ngại, tiếp lời,
– Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận
tai, và những gì xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận
định chính xác về cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với
người dân Việt. Tôi tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp
trung học vào đúng thời điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân
ngũ để cứu nước. Tôi tóm lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe.
Tôi thấy thầy Dan đặc biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên,
và ông có vẻ rất quen thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ,
Kontum. Nghe tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội
hỏi,
“Mỗi lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi cứ tình thực trả lời, Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không
sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.Thấy ông giáo sư có
vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận ra sao, tôi đã
không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô năm 1969. Cuối trận
này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên đầu mình để cùng chết
với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh đó, tôi đã nghĩ gì,
tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe nói tới cái tên “Đường
Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ thống đường giao thông
chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã chia sẻ với ông những cảm
giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm đi toán Viễn-Thám săn tin
dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang vào những năm 1972-1973.
Ông cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật
bắn xe tank mà Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng
Tư năm 1975. Trận Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong
những cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông.
Tôi không quên nói tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những
bát nước chè xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình
quân dân cá nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ
hơn khi đối mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn
toàn tuyệt vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng,
chín mươi phần trăm của quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động
Quân đã chết vì tổ quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra
hai tiếng,
“Trời ơi!”
Thầy Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận
của tôi và gần một triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra
sao. Ông đã trố mắt ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp
đất nước tôi, “Trại Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà
ông đã nghe qua, trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên”
trong các trại đó sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị
ép buộc làm việc tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi
những buổi ngồi đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng,
trong thời gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù
có chết cũng cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn
trại thất bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần
ngại thuật lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất
vả, tảo tần nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam.
Tháng 7 năm 1954 gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để
trốn lánh Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm
đó, hai miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền,
có biên giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và
điên rồ theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân
dân Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt –
Nam là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận không phải vì chúng tôi kém khả năng,
thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt
viện trợ. Từ khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn
phải chiến đấu. Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng,
quân nhu, và vũ khí viện trợ từ khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam-
Hóa chiến tranh, còn được cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng
tỏ khả năng có thể cáng đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn
giao lại.Để chứng minh điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện,
trong đó có sơ đồ các cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc
Cam-Bốt trong chiến dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi
chỉ cho ông cái dấu hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba
cọng râu, bên trái là con số 2,
– Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật,
chúng tôi đã đánh đuổi quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất
Miên. Ngày đó tôi là người chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
Tôi đã đánh chiếm thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian.
Chúng tôi đã chứng tỏ rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội
Bắc Việt. Nhưng những năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của
chúng tôi không suy giảm, nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên,
chúng tôi vất vả lắm. Tôi xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác
biệt.
Trước khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn
quân tiến chiếm một ngọn đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt
đã bắt tôi ngừng lại để chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một
phi tuần hai phi xuất F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105
ly trên mục tiêu trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích
khuôn viên trường Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8
năm 1974, tiền đồn Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp
chín lần vây hãm 34 ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C.
thôi. Vậy mà mỗi ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn
pháo cối của địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ
xa, tôi chỉ có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được
phép bắn theo cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến
đấu trong tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ
sao về chuyện này?
Chúng tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng
tôi đã hy sinh như thế đấy, và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng
không hiểu vì sao người Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh
đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước
Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù,
đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng
chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ
Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang
làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không?
Hôm chúng tôi cặp bờ Everett , Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người
thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu
chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu
người thua trận. Thua trận đâu phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự
tử. Rồi tôi bị giải ngũ.. Thời gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn
trần ai. Hãng xưởng nào cũng không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu
chiến binh. Cũng may, có người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm
việc cho hãng này. Lương hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng
quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê bình cách giảng dạy
của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm nay ông đã bóp méo lịch
sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt-Nam, làm như thế ông đã
phạm tội đối với lịch sử. Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những
thành kiến sai lầm đối với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của
chính phủ và nhân dân Hoa-Kỳ đối với nước tôi. Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày
sáng sủa, lông mày rậm, tóc hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
– Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là
tôi nhớ!
– Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm
ngoái, bài tiểu luận đầu của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của
một người dân Miền Nam. Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm
khá hơn. Tôi là cha nó; tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực
tiếp gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh vừa qua; tôi không thể làm như con
tôi được. Tôi đã nói hết những đều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận
hậu quả.
Ông thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
– Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có
điều là, từ đó tới nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam
đầu tiên tới định cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể,
người ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã
hiểu, và tôi phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ...
Nghe được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng
tôi cảm thấy ấm áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng
minh, ông đưa bàn tay hộ pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa
sân vận động Pleiku, sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng
binh, quần áo hoa rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca
Chiến Thắng” do ban quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười
trao cho tôi bản tổng kết cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History
274 của tôi ghi 4 chấm (4.00).
Cuối mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A.
nơi vận động trường có mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông
nghẹt thân nhân. Vợ tôi và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người
điều hành gọi tên tôi lên bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì
thấy nơi hàng ghế giữa của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long! I’m proud of you!”
Đến lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy,
bắc loa tay hướng về sân khấu, “My soldier! I’m loving you!”
Ông là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông
ông dềnh dàng như nhân vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt
nhìn về hướng ông giáo, ai cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy
xưa nay nổi tiếng là mô phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi
và những khán giả ngồi trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm
sau, khi tốt nghiệp B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho
ông biết, ông vui lắm.
Từ đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011)
hàng chục ngàn học trò đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc
chắn, hàng trăm lượt người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm
qua, tôi vẫn nhớ buổi tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với
nhau. Lời khen của ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Vương Mộng Long
K20 VBQGVN
Seattle, tháng 7 năm 2011
Tác giả – Vương Mộng Long
– Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
– Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
– Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
– Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
– Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
– Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B..A SocialSciences
and Communication.
– Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.