Nhà văn Nhật Tiến (1936-2020)
Mẹ tôi người làng Hành Thiện, Nam Định. Ông Nội của Mẹ tôi chống Pháp bị chém đầu chung với Hoàng Hoa Thám, tức cụ Đề Thám vào năm 1913. Mẹ tôi có người anh cả là bác Quỳnh đi theo Việt Minh cũng chống Pháp. Việt Minh trong giai đoạn này là liên minh chính trị cánh tả mang danh nghĩa trung lập với mục đích công khai là “Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái để chống thực dân Pháp”. Về sau bác Quỳnh bị Việt Minh thủ tiêu vì không phải là người Cộng Sản mà bác đi theo Đảng Tân Dân Chủ. Lớn lên khi dọn về Hà Nội, gia đình Mẹ rất khá giả vì ông Ngoại tôi là nhà thầu cho mỏ than Hòn Gai tại Quảng Ninh. Sau khi Việt Minh chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp Định Đình Chiến Geneve được ký kết, ông Ngoại tôi tức tốc bán tống bán tháo tài sản để di cư vào Nam, tránh bị đấu tố khi đã biết quá rõ bản chất của người Cộng Sản là gì.
Trong bối cảnh đó, một bên nhất quyết bỏ xứ vào Nam, một bên
muốn ở lại. Thế là ông Ngoại tôi phải tới nhà ông Nội tôi xin cho Bố tôi đi
theo, sau một lễ cưới gấp Mẹ tôi cho kịp ngày di cư.
Vào Sài Gòn, Bố tôi bắt đầu gầy dựng sự nghiệp qua nghề làm
báo viết văn. Ông hoạt động rất tích cực và cũng dấn thân vào chính trị qua
ngòi bút. Cuối năm 1955 khi tác phẩm đầu tay “Những Người Áo Trắng” ra đời, Bố
tôi chính thức bước vào thế giới văn nghệ sĩ và đã được văn hào Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam của Tự Lực Văn Đoàn giới thiệu vào Trung Tâm Văn Bút Việt Nam vào năm
1958. Sau này, Bố tôi giữ chức Phó Chủ Tịch cho tới ngày mất nước.
Ông Nhất Linh tuẫn tiết vì chống chính phủ Ngô Đình Diệm đã
thẳng tay đàn áp các phần tử đối lập. Cái chết của ông là một thảm kịch và đã tạo
xúc động lớn lao cho giới trẻ sinh viên học sinh tại miền Nam dạo đó. Ở đám
tang của ông vào ngày 13 tháng 7 năm 1963, gần bốn tháng trước khi chế độ nhà
Ngô bị đảo chánh, Bố Tôi lúc đó mới 27 tuổi đã được hân hạnh đọc điếu văn. Ông
ràn rụa nước mắt nói về cố văn hào Nhất Linh như sau: “Văn hào đã hình thành sứ
mạng cao quý của người cầm bút. Văn hào đã nêu cao sĩ khí bất khuất của truyền
thống những nhà văn chân chính”.
Bố tôi tuy là nhà văn nhưng thật sự ông kiếm kế mưu sinh
nuôi nấng đàn con bằng nghề nhà giáo. Bố tôi dạy Vật Lý-Hóa Học cho nhiều trường
công tư thục ở Sài Gòn, như Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Bồ Đề, Phan Sào Nam.v.v…
Đối với quân đội, ông cũng là giảng viên đứng lớp về các khóa chính trị cho các
sỹ quan quân lực VNCH ở Cục Tâm Lý Chiến thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị.
Mỗi sáng thứ Hai hàng tuần, Bố tôi còn viết bài diễn văn cho Trung Tướng Trần
Văn Trung để đọc dưới chân cột cờ trong trại Lê Văn Duyệt. Tôi còn nhớ hàng
ngày Bố tôi tha về hàng xấp tài liệu đã đánh máy sẳn rồi sai tôi đi ra tiệm quay
ronéo. Quay ronéo đại khái giống như máy photocopy thời nay nhưng phải quay bằng
tay. Hồi xưa các trường trung học ra báo Xuân thường sử dụng kiểu quay ronéo
này. Nhìn vào bài học thì nói chung là về “Tuyên Truyền và Phản Tuyên Truyền”.
Cũng như bài vở về Lý-Hóa, Bố tôi cũng cần quay ronéo những tài liệu này ra
hàng trăm copy để phát cho học sinh. Sau khi mang về sắp xếp trang thứ tự và
hoàn thành nhiệm vụ, Bố tôi thường thưởng cho anh em tôi mỗi đứa một cái bánh
giò hay bánh chưng mà có một bà đội nguyên cái thúng trên đầu đi rao bán hàng
ngày ngang xóm.
Nói chung thời thơ ấu của anh chị em chúng tôi có thể nói là
rất êm đềm. Cuối tuần Bố tôi thường nhét cả một gia đình chín người vào chiếc
xe hơi của ông rồi chở cả đám đi chơi. Tuần thì đi bát phố Bonard ăn kem Pôle
Nord hay vào chợ An Đông ăn Cơm Gà Siu Siu. Có tuần thì cả nhà đi xem ciné sau
khi lang thang thương xá Tam Đa hay Tax và phố sách Lê Lợi. Hoặc có dịp thì Bố
lôi cả lũ đi Sở Thú hay ra Vũng Tàu cho tắm biển.
Nhưng có lúc chúng tôi cũng bị Bố tôi bắt nằm xuống hết rồi
quất cho mỗi đứa vài roi, từ trên xuống dưới. Bố mới giơ roi lên chưa hạ xuống
là cả lũ đã bù lu bù loa khóc lóc than “đau quá, đau quá rồi” làm bố tôi cũng
phì cười. Riêng tôi thì có một hôm tôi nhớ hoài. Lần đó tôi đã sẳn sàng chịu đựng,
mặc hai, ba cái quần xà lỏn dày lên cho đỡ đau. Cả ngày cứ như người mất hồn vì
sợ do lần này tội quá nặng. Khi Bố tôi bước vô nhìn tôi một lúc lâu rồi không
nói câu nào, bỗng nhiên ngồi phịch xuống ghế sa-lông. Hình như là ông đã quá
chán nản, có thể nói tôi là cái thứ quá bất trị, rồi ông đứng lên bỏ ra ngoài.
Đó là lần cuối cùng Bố tôi không muốn sử dụng roi vọt gì đối với tôi nữa. Bị quất
tuy đau nhưng tôi vẫn lì, nhưng chính vì lần đó ông không nói gì nên tôi mới nhớ,
không bao giờ tôi dám tái phạm lần nữa.
Có hai ngày mà tôi để ý thấy Bố tôi lặng người ngồi ngoài
sân hàng giờ không nói câu nào. Đó là 27 tháng 1 năm 1973, ngày chính thức đình
chiến giữa hai miền Nam-Bắc.
Bố tôi thắp nhang ở Bàn Thờ Ông Bà Nội, cầu nguyện từ đây đất
nước sẽ không còn tiếng súng, tiếng bom đạn. Nhưng mực ký chưa ráo thì Việt Cộng
đã trắng trợn vi phạm Hiệp Định Paris, chúng lại giở trò pháo kích, giật mìn,
quậy phá.
Rồi đến ngày 30/4 năm 1975. Bố tôi ra lệnh cho anh em tôi đốt
hết tài liệu từ trường Chiến Tranh Chính Trị mà tôi thấy từng thùng với những
trang giấy plastic viết bằng bút lông màu lên trên, giống như kiểu projector đặt
trên mặt kính, có đèn ở dưới chiếu sáng lên phông vải trắng. Bố tôi còn cẩn thận
lấy kéo cắt nhỏ từng tờ ra rồi quăng vào đống lửa. Đốt hết, tài liệu, sách báo
nào liên quan tới chính trị đốt sạch. Nội đổ ra sân rồi lựa ra đốt cũng đến tối
mịt mới hết, bắt đầu từ lúc những binh đoàn Motolova của Cộng Sản đã tràn vào
tiếp quản Thủ Đô Sài Gòn.
Cũng may hồ sơ trong Cục Tâm Lý Chiến đã được thiêu hủy kịp
và không bị ai chỉ điểm. Bố tôi được đi dạy học lại tại trường Hưng Đạo trên đường
Cống Quỳnh. Làm nghề thầy giáo ở dưới mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa, có thể nói
là Bố tôi cực kỳ chán nản. Ông có viết một tác phẩm kể rõ những hỉ nộ ái ố có tựa
“Nhà Giáo Một Thời Nhếch Nhác”. Giai đoạn này gia đình tôi cũng dọn hẳn về mặt
tiền đường Bùi Viện, chỉ cách trường Hưng Đạo 50-70 mét, mà bây giờ là Phố Đi Bộ
hay họ còn gọi là Phố Tây Ba Lô.
Về đây cạnh xóm Sáu Lèo, không khí rất xô bồ vì ở trong khu
vực Ngã Tư Quốc Tế (Bùi Viện-Cống Quỳnh-Phạm Ngũ Lão-Đề Thám), dân cư đông đúc
thuộc giới lao động tạp nhạp nên không bị để ý như hồi còn ở nhà cũ đường Thiệu
Trị. Đã thế vì gần trường Hưng Đạo nên học trò của thầy Tiến ngày nào cũng lũ
lượt ghé thăm thầy, ra vô nườm nợp. Rất tiện lợi cho Bố Mẹ tôi toan tính chuyện
cho cả gia đình đi vượt biên.
Năm 1980, Bố Tôi đi chuyến thứ hai qua tới được Songkla của
Thái Lan. Vào thời đó, bọn hải tặc Thái Lan hoành hành ác độc dữ lắm. Nhập trại
Bố tôi cùng hai nhà báo Dương Phục và Vũ Thanh Thủy đã cùng nhau viết lên bản
cáo trạng “Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan” mà chính bố tôi là một trong 157 nhân
chứng đã bị chúng nó kéo vào đảo Kra, rồi gửi lên Liên Hiệp Quốc (LHQ). Bản cáo
trạng này đã làm thức tỉnh lương tâm nhân loại. Sau đó LHQ đã thành lập một Ủy
Ban tạo sức ép cho Hải Quân Hoàng Gia Thái phải đi lùng bắt hải tặc. Kết quả là
một số hải tặc đã bị đồng bào ta ra tòa chỉ mặt, phải chịu án tù. Cũng nhờ vậy
mà sau này vấn nạn hải tặc cũng bớt đi nhiều vì chúng nó cũng biết sợ.
Tới California năm 1981, lúc này Mẹ tôi qua được từ Mã Lai
trong chuyến vượt biên thứ ba. Bố tôi mướn được một căn nhà ở đường King tại
Santa Ana, ông gom đàn con lại hết. Bố tôi may được nhà báo Bùi Ngọc Đường của
tạp chí Khai Phóng mách cho cách kiếm tiền bằng nghề cắt cỏ. Ông tốt bụng còn
chia cho Bố tôi khởi đầu bằng một số account ở vùng Glendale cách Santa Ana khoảng
50-60 miles. Thế là Bố tôi sáng sớm phải khởi hành mang theo máy cắt cỏ, máy thổi
bụi, bao rác.v.v… trên chiếc xe truck cũ rích. Đôi khi tôi cũng đi theo Bố tôi
để phụ việc hay đi phát flyer để kiếm thêm account. Ác nỗi cái vùng nhà giàu
này toàn nhà lớn trên đồi. Đi bộ lên dốc quăng tờ quảng cáo “Mr. Lee
Landscaping” cả block mới được có vài căn, toát cả mồ hôi. Nhưng cắt cỏ cho nhà
giàu thì họ trả cao vì lắm việc và có nhiều tiền tip. Đến chiều thì xe truck đã
chất đầy bao rác rồi mang ra landfill đổ. Bố tôi nói, nghề này tuy cực nhưng đó
là cách kiếm tiền lương thiện chân chính, vì mình mới qua, cho dù có khó khăn cỡ
nào đi nữa cũng còn tốt hơn gấp trăm lần phải sống dưới chế độ Cộng Sản. Với
chân lý ấy, tôi chẳng bao giờ thấy Bố tôi bực dọc hay cằn nhằn gì cả vì đã chấp
nhận hoàn cảnh như hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ xứ ra đi, trên đường đi tìm
tự do.
Rồi khó khăn gì cũng qua đi. Sau Bố tôi cùng Mẹ tôi đi học
điện tử lại ở trường Control Data Institute, cả hai ra trường với tấm bằng
Electronics Technician và cùng đi làm cho hãng Verifone chuyên sản xuất máy cà
thẻ credit card cho tới ngày về hưu.
Năm 1991, nghe tin bác Tân ngoài Bắc bị bệnh nặng thiếu thốn
đủ thứ. Từ ngày đi di cư vào Nam năm 1954, Bố tôi vẫn chưa được gặp lại các bác
tính ra đã 37 năm ròng. Tôi đã tháp tùng theo Bố tôi về Hà Nội năm đó. Ôi thôi
Bố tôi quá xúc động và thật sự cảm thông cho dân tộc Việt đang bị chà đạp dưới
chế độ phi nhân Cộng Sản. Đời bác Tân đúng là sai một li đi một dặm. Phải chi
ngày ấy bác đừng quay về Hà Nội thì cuộc đời của bác đâu đến nỗi bị đọa đày triền
miên đến thế này.
Bố tôi cũng có người em mà tôi gọi bằng chú, tên Bùi Nhật Tuấn.
Lúc này ông cũng đã thành danh ở Miền Bắc với một sự nghiệp viết văn đồ sộ
không kém Bố tôi. Thời chinh chiến ông đi bộ đội, rất bất mãn với chế độ nên
hai ông rất tâm đầu ý hợp. Tác phẩm ” Đi Về Nơi Hoang Dã” của chú Tuấn bị đánh
giá là chống Đảng bêu xấu lãnh đạo. Nó moi ra những cái vô lý của cuộc sống mà
con người chỉ biết tuân theo mệnh lệnh, có chết đói rã họng cũng phải chịu đựng
vì cấp trên, tức Đảng ta thì không bao giờ sai cả, có khó khăn gì đi nữa cũng
phải ráng mà khắc phục. “Đi Về Nơi Hoang Dã” có ý tưởng đả phá Cách Mạng như
các tác phẩm “Những Thiên Đường Mù” của Dương Thu Hương, “Mùa Lá Rụng Trong Vườn”
của Ma Văn Kháng, “Thời Xa Vắng” của Lê Lựu, “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo
Ninh. Ở thời gian này, nhờ sự cởi trói cho giới văn nghệ sĩ của Nguyễn Văn Linh
nên trong Việt Nam nở rộ ra phong trào “Văn Nghệ Phản Kháng” kiểu như phong
trào “Nhân Văn Giai Phẩm” thời 1955-1958.
Thế là khi quay về Mỹ, Bố tôi cùng nhà văn Bùi Nhật Tuấn có
viết chung một tập truyện tựa “Quê Nhà – Quê Người”. Cuốn này gom những truyện
ngắn của Nhật Tiến – Nhật Tuấn có nội dung nói lên những bất công của xã hội VN
dưới chế độ CS. Đồng thời Bố tôi cũng tập trung truyện ngắn của 27 nhà văn Hải
Ngoại cộng 67 nhà văn phản kháng trong nước để ra mắt tác phẩm “Trăm Hoa Vẫn Nở
trên Quê Hương” ngõ hòng tiếp sức cho cao trào phản kháng trong nước đang dâng
cao (sau bị cấm), gộp lại toàn là những tác giả có xu hướng bất mãn chế độ CS
như Tướng Trần Độ, Đại Tá Nguyên Ngọc, Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập.v.v…
Với cả một công trình tim óc của cả trăm tác giả trong và
ngoài nước như thế nhưng có một số người ở hải ngoại đã cắt xén những câu văn
qua lời giới thiệu của Bố tôi để vu khống tập truyện “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê
Hương”. Nào là công cụ của Đảng ta, nào là hòa hợp hòa giải với tà quyền, nào
là bợ đít chế độ đương thời. Chưa thỏa mãn, họ còn đi vu cáo Bố tôi tiếp tay với
nhà văn Bùi Nhật Tuấn để nhuộm đỏ hải ngoại, trong khi hỏi tới thì chính họ
cũng chưa từng đọc qua tập truyện đã được gom lại của cao trào phản kháng này,
mặt mũi trang bìa ra sao, màu gì, họ cũng không hề biết. Ông Nhật Tuấn cũng đã
ra đi vào ngày 6/10/2015.
Qua danh nghĩa chống Cộng họ viết bài đánh phá Bố tôi triền
miên từ năm nay qua năm khác, cứ toác miệng ra vu khống chửi bới cho sướng cái
mồm, khốc liệt đến nỗi chính những tác giả ở Hải Ngoại có bài trong “Trăm Hoa Vẫn
Nở Trên Quê Hương” cũng phải e dè, không có một lời thanh minh thanh nga trong
khi Bố tôi đang bị đánh hội đồng. Diễn biến này đã làm cho Bố tôi già đi nhiều
vì quá chán nản và không còn muốn dấn thân đấu tranh gì nữa cho các phong trào
đấu tranh dân chủ cho quê hương. May là sau có một nhóm bênh vực qua “Lá Thư Ngỏ”
của nhà văn Vũ Huy Quang đưa ra và một bài viết lý luận trên tạp chí Hợp Lưu
bênh vực “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương” do nhà văn Phan Tấn Hải viết. Khi tôi
hỏi tới, thì Bố tôi nói Bố tôi sẽ trả lời những định kiến xuyên tạc khi đúng
lúc. Quả tình, cách đây sáu, bảy năm, ông đã đi tìm lại sự thật cho “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương“, ơn đền oán trả phải sòng
phẳng qua tác phẩm: “Sự Thật Không Thể Bị Chôn Vùi” (link đính kèm).
Những tác phẩm của Bố Tôi viết sau này được Nhà Xuất Bản Huyền
Trân mà Bố tôi giao cho tôi làm Giám Đốc, đã tái bản lại hầu hết. Tôi có đề nghị
và được ông đồng ý là gửi tặng toàn bộ tác phẩm của Nhật Tiến cho tất cả thư viện
ở những trường đại học lớn khắp 50 Tiểu Bang. Thế là tôi lên danh sách mấy trăm
cái thư viện và đã làm trọn nhiệm vụ đó để mai sau có những học sinh cần sách
Việt Ngữ sẽ kiếm được sách của Bố tôi mà trau dồi.
Hồi xưa ở Sài Gòn, Bố tôi đầu tắt mặt tối lo dạy học, viết
văn và làm báo, không có thời giờ nhiều nên ít khi ngồi chơi với anh em chúng
tôi. Nhưng sau này khi về hưu, Bố tôi đã dành hết thời gian cho các cháu nội
ngoại. Ông đưa đón các cháu đi học, dẫn đi Pick ‘n Save, tiệm 99 cents mua đồ
chơi, hoặc ông gấp Origami hay photoshop các loại hình thú vật, Superman cho
các cháu cắt. Rồi khi chúng nó lớn lên thì thỉnh thoảng ông dúi tiền cho chúng
nó xài, sợ bố mẹ các cháu không cho lấy. Có mấy năm sau này vì tuổi già, sức khỏe
của Bố tôi càng ngày càng suy yếu, đến cái chữ ký tặng sách tôi xin Bố ký mà Bố
tôi cầm bút cũng khó khăn. Tôi phải đề nghị đi làm cái triện son, Bố khỏi cần
ký nữa, cứ dùng triện son mà ấn vào sách thay cho chữ ký.
Lúc một giờ sáng đêm hôm qua nghe tin Bố tôi khó thở. Tức tốc
tôi chở Bố tôi vào bệnh viện Kaiser ở Irvine. Trên đường đi tôi nắm lấy bàn tay
gầy guộc của Bố mà linh tính như có chuyện chẳng lành. Người Bố tôi đã nhũn ra
như không còn một chút sinh lực nào hết, tôi phải bế Bố tôi mà hồi tưởng lại khi
còn bé chiều chiều Bố tôi thường bế tôi ra đầu ngõ dạo chơi. Ôi sao mà ấm quá Bố
ơi. Đến nơi họ cấp tốc đưa Bố tôi vào phòng hồi sinh cho thở máy oxygen, nhưng
nhịp tim của Bố tôi càng lúc càng yếu dần như ngọn đèn cầy le lói chỉ chờ tắt
ngúm. Đến 11:26 trưa thì tim Bố tôi ngừng đâp. Bố tôi đã ra đi thanh thản chẳng
làm phiền toái gì đến các con các cháu.
Thưa Bố,
Thôi vậy thì cách đây 66 năm Bố theo Mẹ xuôi Nam. Nghe Mẹ kể
hồi còn trung học, ngày nào Bố cũng kiếm cớ đi qua nhà Mẹ. Mỗi ngày Mẹ mặc áo
màu gì là Bố đi lùng ở mấy tiệm may kiếm cho bằng được miếng vải có màu áo của
Mẹ, rồi dán trong sổ như là nhật ký, nay Mẹ đi mới được hai tuần Bố đã nhớ, thì
hôm qua Bố đã muốn theo kiếm Mẹ trên cõi Vĩnh Hằng. Con tin chắc Mẹ đang chờ Bố
và Bố Mẹ sẽ được thảnh thơi không còn phải vướng mắc bụi trần làm chi nữa.
Riêng đàn chim sau nhà mà ngày hai buổi Bố thường rải gạo cho chúng nó ăn, lúc
nào Bố cũng sợ thiếu gạo. Bố yên chí đi, tụi nó sẽ được lo lắng đầy đủ Bố nhé.
Bây giờ con cũng xin phép được quỳ xuống vái Bố mười lạy để
tri ân những gì Bố đã cho con nhe Bố.
Con của Bố!