Chữ trinh đáng giá ngàn vàng…
Chữ trinh còn một chút này…
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đuờng…
(Nguyễn Du)
Việc tìm ra ngôi mộ cổ ở vùng lòng hồ trong khu vực thủy điện
sông Đà khiến tôi lại lên Tu Lý, huyện lỵ Đà Bắc. Ông Quách Ngọc Minh (bạn đọc
đã làm quen với ông qua hai truyện ngắn Kiếm sắc và Vàng
lửa của tôi) ngờ rằng ngôi mộ này là của bà Ngô Thị Vinh Hoa sống cách
cây gần hai trăm năm. Truyền thuyết người Mường vùng này kể rằng bà đã lập ra
dòng họ Quách. Hôm dời mộ từ khu vực lòng hồ lên Tu Lý, tôi đã đến xem. Mộ ở
vuông đất hẹp, bằng phẳng, cách bờ sông Đà hai trăm năm mươi mét, ở độ cao mười
sáu mét kể từ mặt sông. Bao nhiêu năm nay chưa bao giờ lũ sông Đà ngập đến chỗ
này. Nhìn bề ngoài, ngôi mộ cổ trông không khác một gò mối lớn. Đào sâu ba mét
thấy vỉa gạch.
Người chết táng theo lối xưa, trong quan ngoài quách. Quan tài làm bằng gỗ quý,
ván dày tám phân, dăm gỗ nhỏ, đưa ra ngoài trời có màu mận chín. Quan tài chạm
trổ đơn giản nhưng đẹp mắt. Khi bật nắp quan tài, thấy có một lớp vải lụa hồng.
Dưới lớp vải lụa hồng, là một màng trong suốt như thạch, hiện lên hình một phụ
nữ đẹp rực rỡ, khuôn mặt tươi tỉnh như người sống, trang phục xiêm y lộng lẫy.
Đây là ngôi mộ kết. Tất cả chúng tôi thảy đều kinh hoàng. Thoắt cái, một làn
sương mờ trên quan tài ùn lên phủ kín xung quanh. Mười phút sau, làn sương tan
hết, trong quan tài chỉ còn một bộ xương đen như mun, lớp vải lụa hồng cũng
không thấy nữa. Trong quan tài đầy vụn chè khô, lẫn ở đấy rất nhiều đồ trang sức
quý giá. Ông Quách Ngọc Minh tự tay rửa sạch từng đốt xương bằng rượu quý và nước
thơm, đặt vào vuông vải trắng trong tiểu sành. Tôi chưa bao giờ chứng kiến lần
bốc mộ nào có ấn tượng mạnh như thế. Con gái ông Quách Ngọc Minh là Quách Thị
Trình hỏi tôi có biết gì về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ hay không? Tôi băn
khoăn quá. Phải là người mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không
biết, đều chỉ là những ước lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế.
Câu chuyện này kể về người phụ nữ nằm trong ngôi mộ ấy.
Ngô Thị Vinh Hoa là con thứ mười của Ngô Khải. Khải là hậu duệ của Chương Khánh
Công Ngô Từ, ngưởi đã sinh ra bà Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Ngô Khải
là bậc đại phú, nhà gần chùa Tiên Tích, chuyên buôn hàng tơ lụa. Nhà Khải kho đụn
không khác gì phủ Chúa, đầy tớ vài trăm người. Khải giao du rộng, chơi với toàn
người sang. Con gái họ Ngô đẹp nổi tiếng Kẻ Chợ, đời này qua đời khác nhiều người
được tuyển vào cung. Khải có bảy người con gái thì sáu người đều là thiếp yêu ở
phủ Chúa. Vinh Hoa là con gái út. Khải rất yêu chiều. Khi đẻ ra Vinh Hoa, trên
nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh sáng rực rỡ, khắp nơi hương
thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có bảy tràng hoa quấn cổ, xòe lòng tay ra thấy
có viên ngọc…ở trong, trên khắc hai chữ “thiên mệnh”. Khải dựng tóc gáy, lập
bàn thờ tạ trời đất. Có người bảo rằng: “Trời mượn cửa nhà ông gửi ngọc, liệu
mà chăm chút”. Vinh Hoa lớn lên, hát hay, đàn giỏỉ, đẹp lồ lộ nói câu nào
thiêng câu ấy. Khải rất sợ. Tỉ như trời nắng chang chang, nàng buột miệng “ngày
kia trời mưa”, quả nhiên ngày kia mưa thật. Tỉ như có người đi qua, nàng bảo
“mai ông này chết”, quả nhiên người ấy không ốm đau bệnh tật gì hôm sau lăn ra
chết. Trai gái lấy nhau thường dắt đến trước mặt nàng nhờ xem, nàng gật đầu là
lấy được, nàng lắc đầu thì chịu, ba đầu sáu tay gì lễ cưới cũng không thành.
Nhà Ngô Khảỉ có cửa hàng tơ lụa gần Hồ Gươm. Khi nào Vinh Hoa trông hàng, khách
vào mua đông như hội. Ai trót tham, do vải thừa, trả tiền thiếu, khi về nhà nếu
không bị chó cắn thì nhà cháy, đại để thế, tai họa không lường được. ở Kẻ Chợ
có câu ca:
Biết điều thì tránh Vinh Hoa
Quịt năm cắc bạc mất nhà như chơi.
Năm Kỷ Dậu (1789) Quang Trung Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt Mãn Thanh xong,
tìm cách an dân. Nghe theo lời Trần Văn Kỷ, nhà vua cho mời cơm các nhà danh
giá thế phiệt trong thành, Khải cũng được mời.
Khi thiếp mời đưa đẹn nhà Khải, Khải cho gọi người quản lý tên là Sâm đến bàn.
Khải nói:. “Ta không đi không được, Quang Trung là bậc anh tài, hào hùng lắm.
Ta ăn lộc nhà Lê, nhưng cũng không bỏ lộc nhà Trịnh, gì thì gì cũng mang tiếng
cơ hội. Bây giờ Quang. Trung mời đến, nên cư xử thế nào cho “phải” Sâm nói: “Đại
nhân chớ băn khoăn về chuyện cơ hội hay không cơ hội. Điều ấy vô nghĩa. Có điều
Quang Trung đang thịnh, lẽ đời là phải phù thịnh, đại nhân cứ thế mà làm. Ta
không phù Quang Trung, sợ cơ ngơi này khó bảo toàn, lấy ai tiếp nối? Lính Tây
Sơn chỉ cho mồi lửa, vu cho tàn quân Tôn Sĩ Nghị là xong, lúc đó ta biết kêu
ai? Không nói gì đến đại nhân bị hại, bọn Sâm này cũng mất niêu cơm”. Khải cười:
“Mày ranh ma lắm. Ta nghe mày”. Nói đoạn bảo Sâm chuẩn bị lễ vật đi dự tiệc.
Sâm là tên đểu cáng, xuất thân lái trâu, từ lâu có ý hại chủ. Chuẩn bị lễ vật
cho Khải, Sâm cho vào rương hòm toàn những đồ vàng bạc giả còn vải lụa quý thì
cho cắt vụn ra từng đoạn ngắn. Khải không biết gì, cứ thế cho đầy tớ mang vào
cung.
Bữa tiệc của vua Quang Trung có đủ mặt mấy trăm gia đình giàu có ở Kẻ Chợ. Khải
ngồi chiếu trên cùng. Vua Quang Trung nói: “Ta xuất thân áo vải cờ đào, vì nước
xả thân, dẹp yên bốn cõi. Thời chiến ta lấy kẻ có sức lực làm điểm tựa, thời
bình ta lấy kẻ có trí lực làm điểm tựa. Nay các ông đến đây, đều là những người
có của, tức là những người có trí lực cả; ta cho ăn cho uống, xin các ông vì ta
mà mở mang công nghệ, bán buôn, làm cho nước giàu dân mạnh”. Bọn Khải lạy tạ,
ai cũng vui vẻ hứa sẽ vi nước mà làm giầu.
Ăn uống xong, nhân vui vẻ, vua Quang Trung hỏi thức ăn có vừa miệng không, Khải
đang say, dại miệng nói rằng: “Ngon thì ngon nhưng chưa biết nấu, hơi ghê ghê,
có vị lợm”. Nhà vua cười nhạt, không nói năng gì. Khách dự tiệc lần lượt cho
dâng vào các lễ vật mừng, đủ đồ ngọc ngà châu báu; sơn hào hải vị rất lạ. Vua
Quang Trung đứng xem, trầm trồ thán phục. Đến lượt Khải, Khải cho đầy tớ khênh
vào ba cái rương to, mở ra thấy đồ vàng bạc toàn đồ giả, vải lụa bị cắt ra từng
mảnh vụn nhỏ. Khải thất sắc, mọi người có mặt thảy kinh hoàng. Vua Quang Trung
giận lắm, mắng rằng: “Thằng Khải kia, tài bằng cái đấu, khinh ta quá chừng! Trời
cho mày sống, cướp không biết bao nhiêu lộc thiên hạ, ăn miếng ngon không biết
đậy mồm, còn chê là lợm. May nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi khô,
tháng ba ngày tám mang ra gặm tưởng xênh xang ư?”
Khải về nhà, căm tức tên Sâm lắm. Tên Sâm đã bỏ trốn. Đang hoang mang thì đà thấy
tướng của Tây Sơn là Đặng Tiến Đông mang quân đến vây, bắt tịch biên gia sản.
Khải khóc lóc kêu oan nhưng không sao được. Vinh Hoa từ trong lầu chạy ra, rẽ
đám lính Tây Sơn, quỳ trước mặt Đặng Tiến Đông lạy rằng: “Tướng quân tha cho,
việc này ở tên đầy tớ khốn nạn. Thân phụ thiếp hồn nhiên, lỡ phạm đến uy trời.
Tướng quân vì thiếp mà xét phải trái, sao chỉ vì một gã buôn trâu mà gây oán hận?”
Đặng Tiến Đông thấy Vinh Hoa xinh đẹp lạ lùng đánh rơi cả kiếm. Là người có học,
Đông biết anh hùng và mỹ nhân ở đời đều hiếm, nông nổi phạm đến có tội với trời.
Đông bảo rằng: “Tội của cha nàng đáng chết nhưng quyền tha không phải quyền ta.
Nàng muốn giải tội cho cha, phải vào cung mà tâu bày”. Nói rồi Đông quay ra cho
lính bao vây dinh thự nhà Khải, còn tự mình dẫn kiệu Vinh Hoa vào cung.
Đặng Tiến Đông vào cung, tâu bày sự việc với vua Quang Trung. Nhà vua thấy Vinh
Hoa, thốt nhiên rùng mình, hoa mắt, đánh rơi cốc rượu quý cầm tay. Vinh Hoa nói
năng rành rẽ, đâu vào đấy, nhà vua thích lắm. Nhà vua hỏi gì, nàng trả lời điều
ấy, nói thông cả buổi, kim cổ đông tây đủ cả. Bọn Trần Văn Kỷ ngồi nghe toát cả
mồ hôi. Nhà vua bảo Vinh Hoa hát. Nàng gẩy đàn hát:
Mây ngũ sắc ứng điềm lành
Con Tạo xoay vần
Ai biết gặp nhau ở đâu
Mộng tưởng hão huyền
Muôn dặm đường trường
Khi cưỡi voi giục trống đánh thành
Có nhớ ngày xưa đom đóm lập lòe ở góc vườn không
Có nhớ mẹ ta cậy nanh ở miệng không
Mối sầu của ta chỉ có mặt trăng biết
Ngồi trên ngai cao còn biết sợ ai
Ngọc tỷ cầm trên tay lo việc nước
Biết lo là được, còn thành bại ở trời
Ở nơi nguời
Người ngoan không nên biện bạch có quỷ thần hay không có quỷ thần
Hay nhìn từng giọt đồng hồ rơi mà run sợ.
Tiếng đàn có khí lạnh, mọi người không ai dám thở. Vua Quang Trung hỏi nhỏ: “Vận
Tây Sơn được mấy đời? “ Vinh Hoa bảo: “Sao không hỏi được bao nhiêu ngày”.
Vua Quang Trung giữ Vinh Hoa lại trong cung, rồi sai Đặng Tiến Đông rút quân khỏi
nhà Khải. Khi Đông đến nhà Khải thì Khải hổ thẹn đã treo cổ tự tử. Vua Quang
Trung thương xót, hối lại thì đã muộn. Nhà vua đang đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa
đi vừa vấp, chạy vào báo cho Vinh Hoa việc Khải mất. Vinh Hoa lập bàn thờ ngay
trong cung, thắp hương, tạ vong linh Khải rồi bảo: “Bệ hạ khỏi bận lòng. Phận
nào phận ấy. Trời chỉ nhờ cửa sinh, có ai giữ được bố mẹ sống một nghìn năm? Bệ
hạ có thương, cho mở kho lấy một đấu vàng để trả đạo hiếu”. Nhà vua gật đầu.
Khi đi ra gặp Trần Văn Kỷ, nhà vua bảo: Ta nóng nảy đã đành, ta có lý của ta.
Còn cái lũ nhà giàu khốn nạn, chỉ biết mỗi thân mình, Khải bị hạn, sao không có
đứa nào đứng ra kêu hộ một tiếng?” Trần Văn Kỷ tâu: “Bệ hạ không hiểu bọn nhà
giàu, chúng có thương xót ai bao giờ? Ta có câu: Có độc mới đủ, có phũ như chó
mới giàu!…” Nhà vua lại hỏi: “Khải khôn khéo thế, bình sinh cẩn thận, sao sơ suất
đến nỗi bị tên đầy tớ kia lừa?” Trần Văn Kỷ tâu: “Đời người ta có vận hạn, Khải
không sợ trời, tính ích kỷ, giàu có mà đóng cửa ăn một mình; không biết giúp
ai, không biết làm điều phúc, điều thiện, không biết chia lộc cho thiên hạ,
trông thấy người hiền ngoảnh mặt đi; khi hạn đến, tránh sao kịp được? Nói chi đến
mưu thằng buôn trâu, có khi chỉ vì con ruồi cũng làm tan nghiệp” Nhà vua gật đầu,
cho làm ma Khải rất hậu rồi lệnh truy nã tên Sâm.
Vinh Hoa ở trong cung, vua Quang Trung rất ân cần, thương xót. Từ quan tới
lính, không ai không nể vì. Nàng ăn nói khoan hòa, cư xử thông minh, lịch lãm,
bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm, Đặng Tiến Đông, Vũ Văn Dũng, Trần Văn Kỷ… ai cũng
quý trọng nàng. Nhiều việc triều chính nàng tham dự, mọi ý kiến luận bàn của
nàng vua Quang Trung hết sức thán phục, làm gì cũng thành. Cũng có khi nàng múa
hát cho mọi người xem. Vua Quang Trung nói: “Ta được Vinh Hoa như được báu vật,
một Vinh Hoa bằng ba vạn người”.
Tuy vua Quang Trung đối xử ân cần, hết lòng yêu thương chiều chuộng, song Vinh
Hoa vẫn một mực không cho nhà vua thành thân. Mỗi khi nhà vua ngỏ ý, nàng đều
khéo léo chối từ. Nhà vua rất lấy làm buồn. Tuy hàng ngày gặp nhau nhưng nhà
vua vẫn không sao gần gụi được.
Ổn định xong Bắc Hà, vua Quang Trung giao việc triều chính cho bọn Ngô Văn Sở rồi
kéo quân về Phú Xuân, đưa cả Vinh Hoa theo. ít lâu sau nhà vua bỗng mất đột ngột.
Khi lâm chung, có Vinh Hoa đứng hầu bên giường, nhà vua nhìn mãi Vinh Hoa mà
không nhắm mắt. Cả triều đình thương cảm. Con trai nhà vua là Nguyễn Quang Toản
vuốt mắt cho cha nhưng hễ buông tay ra mắt nhà vua lại mở trừng trừng. Đến cả
Hoàng hậu Ngọc Hân cũng thế. Sau Vinh Hoa phải lấy ngón tay út của mình đặt lên
hai mi mắt nhà vua thì mắt nhà vua mới nhắm lại được. Sau đấy, chỗ ngón tay út
của Vinh Hoa đen như chàm, rửa thế nào cũng không sạch.
Từ khi vua Quang Trung mất, nội bô Tây Sơn rối ren, Nguyễn Quang Toản kéo quân
vào Quy Nhơn đánh bác ruột mình là. Nguyễn Nhạc. Bọn tướng của Tây Sơn là Vũ
Văn Dũng đánh nhau, chia năm xẻ bảy cơ nghiệp. Năm Tân Dậu (1810), vua Gia Long
Nguyễn Phúc ánh chiếm Phú Xuân Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc, triều Tây Sơn sụp
đổ.
Khi chiếm Phú Xuân, tướng của Gia Long là Vũ Văn Toàn vào trước, kéo quân thẳng
vào hậu cung, cướp được nhiều cung tần mỹ nữ, cướp được cả Ngô Thị Vinh Hoa.
Quân hồi vô phèng, Toàn hốt rất nhiều vàng bạc. Toàn vốn xuất thân quản tượng,
theo vua Gia Long nhưng thâm tâm có ý không phục. Khi vua Gia Long vào thành an
dân, kiểm kê kho đụn Tây Sơn, thấy chẳng còn bao nhiêu. Nhà vua hỏi Toàn: “Của
cải trong kho, không có cánh mà bay à?” Toàn tâu: “Từ khi Nguyễn Huệ chết, Tây
Sơn làm gì có của, chỉ có chuột”. Nhà vua hỏi: “Phi tần không còn ai ư?” Toàn
tâu: “Đàn bà trơn mà nhanh như rắn, động ổ là chuồn, biết đâu mà lần?” Nhà vua
nín lặng, không nói năng gì.
Ít bữa sau, có người mật báo với vua Gia Long nhà Toàn chứa đầy gái đẹp với đồ
vàng bạc. Nhà vua giận lắm, đang đêm đến vây nhà Toàn, thấy Toàn đang ngủ trên
giường bèn trói nghiến lại.
Tướng của vua Gia Long là Nguyễn Văn Thành soi đuốc dẫn nhà vua đi xem xét, quả
nhiên thấy đúng như lời mật báo. Nhà vua gọi Toàn ra mắng: “Thằng khốn nạn theo
voi ăn bã mía kia, đểu cáng chừng nào. Mày mượn danh ta để đi ăn cướp với chơi
gái à?” Toàn lạy van: “Bệ hạ tha cho. Toàn theo bệ hạ từ thuở hàn vi, nằm gai nếm
mật đắng cay. Nay nghiệp đã thành, muốn hưởng lạc riêng, thế gọi là trả giá đời
sống”. Nhà vua cười nhạt: “Mày tưởng công mày to ư? Mày ở gần ta mà không biết
ta. Mày kể công với ta làm gì? Mày chỉ dự vào trò chơi của ta. Trò chơi nào chẳng
vô công? Mày phạm luật thì mày chịu. Đừng trách ta ác”. Toàn lại lạy van: “Bệ hạ!
Bệ hạ! Bệ hạ nói gì vậy? Đẩy vạn con người vào cuộc binh đao là trò chơi sao? “
Nhà vua bảo: “Binh đao là trò chơi của trời. Sao mày lại hỏi ta? Ta chơi trò
khác, chơi trò đế vương!” Toàn lại lạy van: “Bệ hạ thương tình! Vàng bạc trả lại
bệ hạ! Phi tần trả lại bệ hạ! Chỉ xin bệ hạ ban cho Ngô Thị Vinh Hoa” Nhà vua nổi
giận : “Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho
mày ăn cứt”. Nhà vua vào phòng Ngô Thị Vinh Hoa. Mở cửa ra, thấy Vinh Hoa bị
trói, trên người không có mảnh vải che. Gia nhân thưa rằng Toàn muốn làm nhục
Vinh Hoa nhưng nàng không chịu, nhà vua rất thươngxót. Nhà vua đến gần, thấy
Vinh Hoa đẹp quá, bỗng nhiên xây xẩm mặt mày. Nhà vua thở dài, ngã quay ra đất,
ngất lịm đi.
Vinh Hoa ở trong cung được nhà vua hết sức vêu chiều. Dần dần nàng hồi tâm lại,
đẹp mơn mởn y như lộc mùa xuân. Biết Vinh Hoa có tài múa hát, lại có tài đoán định
việc trước sau, nhà vua thích lắm, muốn lấy làm vợ. Nguyễn Văn Thành can: “Bệ hạ!
Bệ hạ! Vinh Hoa ở với Nguyễn Huệ bao năm mà Huệ không dám đụng vào thân thể. Thần
xin bệ hạ giữ lấy mình rồng! “ Nhà vua bảo: “Thế là Huệ dại, Huệ trọng tinh thần
mà bỉ thể xác”. Thành hỏi: “Bệ hạ muốn dùng Vinh Hoa ở phần tinh thần hay phần
thể xác?” Nhà vua bảo: “Làm đến đại tướng còn ngu. Bậc đế vương giữ nước là ở
tinh thần, còn giữ mình là ở thể xác”. Thành lắc đầu rồi lui ra.
Vua Gia Long vào cung, tìm Ngô Thị Vinh Hoa, nhà vua bảo nàng. “Ta muốn sở hữu
nàng như nuôi con gà, con vịt trong nhà. Vinh Hoa tâu: “Bệ hạ muốn làm vua gà,
vua vịt hay sao? “ Nhà vua thở dài: “Sứ mệnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn,
chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện”.
Vinh Hoa tâu: "Ai cũng phải thế". Nói rồi nàng ôm đàn hát:
Nước có còn không
Nước có mạnh không
Thiên tử là cái gốc lớn thiên hạ
Cây cao, bóng cả
Trùm lên muôn dân
Gió mây có biến hóa
Ghi nhớ trong tâm trường
Nhắc ai tự chủ trương
Giữ chữ "thường"
Chính đạo thuần vương
Nhà vua nghe tiếng đàn, mơ màng, gục đầu xuống bàn ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy,
nhà vua không thấy Vinh Hoa đâu nữa, chỉ thấy trên bàn có ghi mấy chữ:
Thời lai phong tống tạ Đà giang
(Thời vận đến, gió đưa lại phía sông Đà)
Nhà vua sai tìm Vinh Hoa khắp nơi nhưng không thấy. ít lâu sau, ở vùng huyện lỵ
Đà Bắc (thuộc phủ Hưng Hóa), người ta vớt được một xác phụ nữ quý tộc trôi trên
sông, trên tay có bế một đứa bé con còn sống. Quan sở tại báo việc này về triều
đình. Vua Gia Long cho người lên xem xét, nhận ra người chết giống hệt Ngô Thị
Vinh Hoa. Nhà vua cho làm ma nàng rất hậu, bắt lập miếu thờ. Đứa bé con được những
người dân Mường ở đây đón về nuôi. Trong miếu thờ có đôi câu đối của nhà vua
ban, ghi rằng:
Sự nhị quân, vĩnh thủ trinh tâm
Lưu vạn cổ, bảo tồn phẩm tiết.
(Thờ hai vua, vẫn giữ lòng trinh
Lưu muôn thuở, còn nguyên phẩm tiết.)
Nguyễn Huy Thiệp