Nền cờ vàng là dải giang sơn
Ba sọc đỏ nối ba miền chung thủy
Là Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn, Thất Sơn hùng vĩ
Là sông Hồng, sông Cửu, sông Hương
Hãy cầm chặt nghe em, như cha giữ biên cương
Như thuở mẹ ôm em giữa lòng biển cả …
Tôi viết bài thơ Người Con Gái Trên Đường Bolsa trong những ngày mấy chục ngàn
đồng hương Việt Nam trong đó có hàng ngàn tuổi trẻ, cùng xuống đường phản đối
ông Trần Trường treo hình Hồ Chí Minh ở khu Bolsa, tiểu bang California, Hoa Kỳ,
đầu năm 2000.
Câu chuyện về lá cờ cũng gợi lại trong tôi một kỷ niệm khó quên khác trong những
ngày đầu ở trại tỵ nạn Manila. Sau khi làm xong các thủ tục với đại diện Cao Ủy
Liên Hiệp Quốc, tôi chính thức trở thành người Việt Nam tỵ nạn và được đặt cho
một cái tên mới, bắt đầu bằng chữ P, viết tắt của Philippines, theo sau bằng một
dãy số dài.
Khoảng 8 giờ sáng, một người nào đó bước vào phòng và nói lớn: “Bà con thức dậy
chuẩn bị làm lễ chào cờ đầu tuần.” Như một cái máy, tôi thức dậy rửa mặt và chạy
ra sân sắp hàng. Sau một tuần trên biển với quá nhiều thay đổi, trí óc tôi chưa
hoàn toàn tỉnh táo để phân định một cách chính xác mình đang ở nơi đâu trên
trái đất nầy.
Tôi bàng hoàng và xúc động khi lần đầu tiên sau 6 năm, thấy lại lá cờ vàng ba sọc
đỏ được từ từ kéo lên trên cột cờ giữa sân trại. Không phải chỉ mình tôi, chung
quanh tôi ai cũng khóc vì xúc động ngay khi câu đầu tiên của bản quốc ca được
hát lên. Tôi rưng rưng nước mắt. Nhiều anh cựu quân nhân càng khóc lớn hơn. Các
anh khóc là phải. Bởi vì đó là một trong những giây phút linh thiêng nhất trong
đời các anh. Trong khoảnh khắc kỳ diệu đó, bạn bè, anh em, đồng đội của các anh
đã trở về. Chiếc quan tài phủ quốc kỳ, tiếng kèn truy điệu, tiếng súng chào
vĩnh biệt, những vầng tang trắng xót xa. Đó cũng là phút giây kiêu hãnh của một
đời trai với những chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị, Thượng Đức, Bình Long,
Chương Thiện, An lộc, Bình Long, Bồng Sơn, Mộ Đức, v.v.. Tất cả nay còn đâu. Có
chăng chỉ còn trong ký ức.
Thành thật mà nói, sáng hôm đó, tôi không tự mình hát hết bản quốc gia mà không
vấp váp nhưng nhờ cùng hát với nhau nên không trở ngại gì nhiều. Tôi hát bản quốc
gia bằng tất cả tâm hồn và xúc động. Thời còn ở trung học, tôi chỉ hát mỗi sáng
thứ Hai và hát như bổn phận học trò.
Sau buổi chào cờ, một thành viên trong ban đại diện trại hạ lá cờ xuống, xếp lại
đem cất. Hỏi ra tôi mới biết, chính quyền người Phi chỉ cho phép ban đại diện
trại người Việt mượn cột cờ để chào cờ Việt Nam Cộng Hòa vào mỗi sáng thứ Hai
chứ không được phép treo cờ thường xuyên trên đó.
Tôi sinh ra ở miền Nam sau khi hiệp định Geneve được ký kết. Màn một của vở bi
kịch Việt Nam đẫm máu vừa chấm dứt và màn hai đẫm máu hơn đang chuẩn bị bắt đầu.
Đất nước đang trong buổi giao thời. Không khí tạm thanh bình yên lặng dù chỉ là
sự thanh bình yên lặng trước khi một cơn bão lớn hơn sẽ thổi qua đây.
Tuổi thơ tôi lớn lên trên những cồn cát xinh xinh, dưới những hàng tre nghiêng
soi bóng trên dòng nước Thu Bồn thơ mộng. Số phận của đời tôi, giống như số phận
của quê hương, đang chuẩn bị cho những thách thức sắp sửa phải đương đầu nên từ
tuổi mới biết suy tư cũng là khi tôi bắt đầu mơ mộng. Mơ về một chân trời.
Như một điều không tránh khỏi, những ngày tháng thanh bình không được bao lâu,
tiếng súng lại nổ vang. Bộ chính trị đảng Lao Động Viêt Nam, tên đối ngoại của
đảng Cộng Sản Việt Nam, quyết định Cộng Sản hóa miền Nam bằng con đường vũ lực.
Từng đoàn thanh niên miền Bắc lại phải từ giã mái trường, từ giã gia đình thân
thuộc, băng rừng vượt suối vào Nam để hoàn thành giấc mơ nhuộm đỏ toàn cõi Việt
Nam của Hồ Chí Minh và quốc tế Cộng Sản.
Thêm vào đó, khi cuộc tranh chấp Bức Tường Đông Đức lắng dịu, nội chiến Triều
Tiên đã tạm ngừng tiếng súng, lò lửa Trung Đông chỉ mới bắt đầu, Việt Nam hội đủ
điều kiện địa lý chính trị để làm một điểm nóng trong cuộc chiến tranh lạnh giữa
các tập đoàn đế quốc. Chim rừng Trường Sơn bặt tiếng hót. Màu hỏa châu thay thế
ánh trăng vàng. Tiếng đại bác đêm đêm đã thay cho tiếng ru ngọt ngào của mẹ. Những
chiếc bánh vẽ độc lập, tự do, hạnh phúc lần nữa được trưng bày giữa căn nhà đổ
nát và nghèo đói Việt Nam.
Và ở đó, ở miền Nam tự do nhưng ngút ngàn bão lửa, tôi đã lớn lên. Tôi lớn lên
với nhiều câu hỏi. Quốc Gia là gì? Cộng Sản là gì? Quốc Gia là ai? Cộng Sản là
ai ? Tại sao là Việt Nam mà không phải là Thái Lan, Singapore, Mã Lai? Trước
1975, tại miền Nam không bao nhiêu người giúp tôi trả lời một cách thông suốt
những câu hỏi đó.
Thực dân Pháp sau gần một thế kỷ bóc lộc, nô lệ dân tộc ta đã thất bại và đã
rút đi. Trên đường phố Đà Nẵng lại nghe bước chân người lính Mỹ. Người Mỹ đến.
Họ đến với để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản, nhưng tiếc thay
các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đánh giá quá thấp hay ngay cả không hiểu được những điểm
đặc thù trong truyền thống và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Trong lúc người dân
Việt Nam có khuynh hướng dè dặt, nghi ngờ và ngay cả chống lại sự có mặt dù là
với lòng tốt, của nước ngoài thì chính phủ Hoa Kỳ chưa nỗ lực đủ để chứng tỏ họ
là bạn, không tách biệt được họ ra khỏi thực dân Pháp.
Giữa một hoàn cảnh bất lợi và môi trường chính trị khắc nghiệt, hạt mầm dân chủ
vẫn cố gắng để vươn lên, cây tự do, dù chỉ mới có cơ hội được sinh ra vẫn cố gắng
sống.
Bao nhiêu thế hệ người Việt Quốc Gia đã lên đường đi bảo vệ mảnh đất tự do còn
lại. Những tên tuổi, những địa danh An Lộc, Bình Long, Đông Hà, Thượng Đức,
Chương Thiện, Rừng Sát… đã ghi sâu vào lịch sử. Máu của hàng trăm ngàn thanh
niên miền Nam đã nhuộm thắm lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu. Những người con
trai, con gái ưu tú của mẹ Việt Nam đã sống và chiến đấu ngay cả khi xích sắt T54
đang nghiền nát đường phố Sài Gòn.
Các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Phạm Văn Phú, Trần Văn
Hai, Trung Tá Phạm Đức Lợi (Phạm Việt Châu), Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và hàng trăm sĩ
quan và binh sĩ các cấp đã đi vào lịch sử dân tộc bằng những cái chết vô cùng
dũng liêt. Họ là những Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu của Việt
Nam thế kỷ 20. Hình ảnh bất khuất của Trung Tá Cảnh Sát Long dưới chân tượng
đài Thủy Quân Lục Chiến sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, mãi mười năm sau, ở hải
ngoại vẫn chưa bao nhiêu người biết tên họ đúng của anh ngoài tấm bảng tên Long
trên ngực áo từ tấm hình được in trong các tờ báo Mỹ. Trong giờ phút kinh hoàng
đó, một người dân Sài Gòn vẫn dừng lại, kính cẩn đặt chiếc mũ sĩ quan Cảnh Sát
lên ngực anh, xếp hai tay anh thẳng trong tư thế ngủ yên. Vâng, anh đã ngủ một
giấc ngủ bình yên trong lòng mẹ Việt Nam.
Sau ngày Cộng Sản, bằng T54 và đại pháo, cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam cuối
tháng 4 năm 1975, lực lượng người Việt Quốc Gia tại miền Nam tuy đã bị tước đoạt
vũ khí nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu. Mặt trận mới không diễn ra bằng súng đạn
nhưng bằng sự chịu đựng, bằng khí tiết. Mặt trận mới không diễn ra ở Dakto,
Bình Long, Quảng Trị nhưng ở Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa, Hàm Tân,
Tiên Lãnh, Suối Máu… và hàng trăm nhà tù dã man khác đã được chế độ dựng lên khắp
nơi trên đất nước. Ngoại trừ một số rất nhỏ bị khuất phục, đại đa số người Việt
Quốc Gia, dù bị đày ải, vẫn giữ được nhân cách, khí tiết và niềm tin vào chân
lý tự do dân chủ của dân tộc Việt Nam.
Trên sân cờ trại tỵ nạn Puerto Princesa, tôi mơ một ngày được thấy lá cờ vàng
ba sọc đỏ tung bay trên trời thủ đô Sài Gòn thân yêu. Uớc mơ đó không phai đi,
không khác đi nhưng đã lớn cao hơn, trọn vẹn, sáng rõ hơn và mang một ý nghĩa
quốc gia dân tộc rộng lớn hơn so với ước mơ của những ngày tôi mới rời khỏi nước.
Tôi hiểu lá cờ vàng, không phải chỉ từ nguồn gốc nhưng còn từ máu xương, từ mồ
hôi nước mắt, từ hơi thở của những người đã gìn giữ và bảo vệ vùng trời, vùng
biển tự do của đất nước. Một tài sản dù đồ sộ bao nhiêu cũng không có giá trị lớn
về mặt tinh thần, nếu tài sản đó không được đánh đổi bằng mồ hôi ước mắt của những
người đã tạo ra nó.
Inline image
Lá cờ vàng đã đắp lên bao nhiêu ngôi mộ, bao nhiêu quan tài, bao nhiêu khuôn mặt
tuổi thanh niên đã chết vì lý tưởng tự do của dân tộc trong cuộc chiến tự vệ đầy
gian khổ suốt hai mươi mốt năm từ ngày đất nước bị chia đôi.
Sau những tháng năm học hỏi, tôi cũng hiểu ra rằng những cách gọi “Cộng Sản Bắc
Việt” hay “Quốc Gia Miền Nam” là không đúng hẳn. Cộng Sản là một ý thức hệ độc
hại, có thể gây nhiễm trùng cho bất cứ ai, cho bất cứ một người nào không nhất
định phải là người miền Bắc, không nhất thiết phải là những người sống bên kia
cầu Hiền Lương và quan trọng hơn, đảng viên đảng Cộng Sản không có nhiều đến mấy
chục triệu người.
Trong tổng kết của đại hội đảng Lao Động (tên đối ngoại của đảng Cộng Sản) lần
thứ 3 ngày 5 tháng 9 năm 1960 cũng chỉ ghi rõ “số lượng đảng viên cả nước: 500
ngàn”. Mười chín triệu năm trăm ngàn đồng bào miền Bắc còn lại phải sống trong
xích xiềng Cộng Sản vì họ không có một chọn lựa nào khác, không còn một nơi nào
để sống chứ không phải tất cả đều là Cộng Sản. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là
một bằng chứng điển hình của sự đối kháng giữa tự do nhân bản và độc tài nô lệ.
Bao nhiêu phong trào phản kháng của giới trí thức, công nông và đòi hỏi tự do
tôn giáo tại miền Bắc có thể đã bị dập tắt thô bạo mà chúng ta chưa biết hết.
Cộng Sản ngày nay, số lượng tuy tăng cao hơn nhưng phẩm chất còn ít hơn con số
500 ngàn của bốn mươi năm trước. Họ chỉ còn là những người đang cố bám vào mảnh
ván quyền lực bằng phương tiện của nhà tù và sân bắn. Và ngay giữa lúc đang cười
say trong canh bạc lận, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam cũng biết ngày tàn
của chế độ chỉ còn là một vấn đề thời gian mà thôi.
Trong một phân tích tương tự, nếu định nghĩa người quốc gia là những người yêu
nước, dâng hiến đời mình để mưu cầu hạnh phúc, độc lập, tự do cho dân tộc, thì
người quốc gia cũng ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam, không nhất định phải
miền Nam.
Ngạn ngữ tây phương có câu “Ai giải thích được lịch sử người đó thắng”. Những
cường hào ác bá đang sống trong các biệt thự nguy nga ở Hà Nội, Sài Gòn ngày
nay không phải là những người làm nên lịch sử nhưng chỉ là những kẻ, trước đây,
làm công việc giải thích, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt
Nam của Đệ Tam Quốc Tế, và ngày nay, để tiếp tục sống huy hoàng trên những thống
khổ triền miên của dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, đối lực giữa sức mạnh tổng hợp của dân tộc Việt Nam và thiểu số đặc
quyền đặc lợi Cộng Sản đã hoàn toàn chênh lệch. Niềm tin dân tộc chưa bao giờ
sáng hơn lúc này. Sức mạnh dân tộc chưa bao giờ mạnh hơn lúc này.
Không giống như những năm đầu thập niên 1990, khi những lực lượng, tuy chống đối
nhà nước Cộng Sản nhưng vẫn còn đậm màu quá khứ và nặng tính địa phương như “Sĩ
phu Bắc Hà”, “Kháng chiến Nam Bộ”, thì ngày nay, đoàn kết dân tộc là mẫu số
chung, là điểm tựa, là vũ khí và sức mạnh trong cuộc cánh mạng dân tộc và dân
chủ tại Việt Nam.
Trận tuyến ngày nay là trận tuyến giữa dân tộc và phản dân tộc, giữa dân chủ và
phản dân chủ, giữa bảo vệ tổ quốc và bán đứng đất đai tổ quốc. Mẫu số
chung tinh thần dân tộc mà tôi vừa thưa ở trên không những chỉ giá trị đối với
những người đã từng hy sinh, từng đổ máu dưới bóng cờ vàng mà còn mở ra cánh cửa
của chính nghĩa tự do và bao dung dân tộc cho cả những người chưa hề thấy lá cờ
vàng.
Cái chung tinh thần đó vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia
cách, mọi tôn giáo, thế hệ, trong hay ngoài nước. Cái chung tinh thần đó, có thể
đang sôi sục trong lòng tôi hay tạm ngủ quên trong lòng anh chị nhưng chắc chắn
đã và đang hiện hữu trong mỗi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước. Nếu
chúng ta biết đánh thức cái chung tinh thần đó dậy, sống trọn vẹn với cái chung
đó, tôi tin rằng đại gia đình dân tộc Việt Nam sẽ sớm một ngày đoàn viên trong
hạnh phúc.
Dân tộc Việt Nam không hề đặt bút ký thỏa ước Patenotre, hiệp định Geneve hay
hiệp định Paris. Tất cả chỉ là sự áp đặt của các đế quốc đã diễn ra dưới nhiều
hình thức trong những thời điểm khó khăn của vận mệnh đất nước. Trong suốt hai
thế kỷ qua, dân tộc Việt Nam liên tục là nạn nhân đáng thương, bị xâm lược bởi
các ý thức hệ ngoại lai vong bản. Không một người Việt Nam yêu nước nào muốn thấy
quê hương chìm đắm và tiếp tục chìm đắm trong lạc hậu, độc tài triền miên như
thế này.
Khi còn nhỏ, tôi chỉ nhìn thấy lá cờ vàng từ góc độ của một sân trường trung học.
Khi lớn lên, học hỏi thêm, tôi nhìn lá cờ vàng từ góc độ của chế độ mà tôi đã sống,
từ miền Nam tự do mà tôi đã ra đi, từ đất nước của Hùng Vương mà tôi yêu quý.
Và hôm nay, tôi nhìn lá cờ vàng từ hướng trái tim của một em bé Việt Nam vừa mới
sinh ra, đang đập theo nhịp đập của tương lai dân tộc.
Bởi vì cuối cùng, chỉ có người Việt Nam mới thấm thía được nỗi đau Việt Nam và
chỉ có người Việt Nam mới ôm ấp và đeo đuổi giấc mơ tự do dân chủ cho chính
mình và tương lai của con cháu mình. Nếu tất cả chúng ta cùng biết đau một nổi
đau chung và cùng biết đeo đuổi một giấc mơ Việt Nam chung như thế, tôi tin tưởng
rằng lá cờ vàng chính nghĩa chắc chắn sẽ có một vị trí xứng đáng trong lịch sử
và mãi mãi phấp phới bay giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Trần Trung Đạo
(Trích và rút ngắn từ tác phẩm Tâm Bút Trần Trung Đạo)