Hắn trở lại thành phố đó vào giữa tháng 10 dương
lịch. Đến cái quán cà phê nhỏ, quán cũ ngày xưa hắn thường đến,
hắn ngồi tại một chiếc bàn đặt ở ngoài trời bên dưới một cây thông
khá cao, cành lá xanh tươi, rậm rạp. Ngày hắn đi, cây thông chỉ cao
xấp xỉ cái mái hiên trước của cái quán thấp này. Nay cây đã lớn,
hắn cũng đã trên 40 tuổi. Cây cối và con người rốt cục cũng rủ nhau
cùng đi về một nơi nào đấy nhỉ, hắn tự hỏi. Nếu không đi trong không
gian thì cũng trong thời gian.
Buổi chiều âm u. Lạnh. Mùa thu đến nơi đây có lẽ đã lâu rồi, hắn nghĩ. Và cái quán cũ này khiến hắn nhớ Thảo, cô gái xinh đẹp, dịu dàng, giọng nói thủ thỉ vuốt ve. Và cặp mắt. Quá khứ hiện về rõ dần. Thảo, cô gái đó, đã có lần theo hắn tới cái quán này, ngồi với hắn trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, rồi đứng dậy bỏ đi vì một câu hỏi mà sau đó hắn lấy làm tiếc đã hỏi. Cô ta đi về nhà một mình, không nói gì thêm nữa, nhưng hắn biết cô không muốn hắn đi theo dù một bước. Hồi đó hắn rất buồn và giận cái cô nàng ưa trở chứng đó. Bây giờ nghĩ lại, hắn thấy tự giận mình hơn. Và hắn cũng tự thấy mình ưa kèn cựa. Lại thường phân vân, lừng khừng. Suy nghĩ thì lôi thôi, rối rắm. Cũng vì vậy bạn bè hắn bảo hắn là thằng khó chơi.
Sau những biến động của thời cuộc cũng như trong
lòng người, sau một thời gian khá dài sống ở nước ngoài, lần đầu
tiên hắn trở về nước. Từ Sài Gòn hắn lấy ngay vé xe hành khách
chuyến sớm nhất để trở lại thành phố cũ này. Thành phố cũ? Hắn
liên tưởng đến một câu hát trong một ca khúc, con sông xưa,
thành phố cũ. Trong bài hát nào đấy nhỉ, có lẽ là bài Về
Miền Trung của Phạm Duy. Lòng bỗng bồi hồi. Ô, mà, cái thành
phố hắn sắp trở lại làm gì có sông. Chỉ có hồ thôi, cái hồ sương
mù vẫn thường đi về trong trí nhớ của hắn.
Ngồi trên xe, hắn lẩm nhẩm hát nhiều lần câu hát đó
trong khi nhìn lại cảnh vật hai bên đường. Có nơi còn thấy quen thuộc,
lòng lại nao nao, có nơi trông lạ hoắc đến ngỡ ngàng. Hắn lại nghĩ
đến một nhân vật trong chuyện huyền thoại của phương Tây mà hắn đọc
từ hồi còn đi học. Chàng đã trải qua 10 năm chinh chiến, và thêm 10
năm lưu lạc, nhớ nhà quá, bằng mọi cách tìm đường trở về quê hương
thân yêu cũ. Xa nhà lâu ngày, nay chàng trở về, không còn một ai nhận
ra chàng kể cả người vợ sắt son chờ đợi. Có người còn muốn trừ
khử chàng cho rảnh. Trừ con chó đã già và đánh hơi giỏi.
Không, hắn không trở về trong cái tư thế đó. Mà là
như một kẻ mong về tìm lại những quãng thời gian rời rạc đã mất,
dù biết rằng khó tìm thấy. Mà vẫn cứ về. Rồi lại ra đi, chứ không
như anh chàng trong câu chuyện. Và hắn nghĩ rằng biết đâu hắn sẽ lại
quay trở về nữa, sau chuyến này. Tại sao nhỉ? Thì còn phải đi tìm
nhiều thứ khác đã bỏ sót mà lần này ít thì giờ và vội vàng quá.
Như một kẻ chôn giấu, hay bỏ quên, một kho tàng trên một hoang đảo
thất lạc. Câu ví von trịnh trọng khiến hắn cười ra tiếng.
Cho nên, trong chuyến này, một chút vương vấn nào của
quá khứ hắn cũng sẽ vồ vập như của quý. Riêng đối với Thảo, những
buồn giận cũ đã phai đi với thời gian, trong khi kỷ niệm, dù ít ỏi,
vẫn canh cánh bên lòng.
Xe bắt đầu leo đèo. Hành khách ngồi cạnh hắn bắt
đầu ngủ gà ngủ gật, hắn cảm thấy thoát nợ. Cái anh chàng cà chớn
này cứ ưa hóng chuyện. Hắn im lặng không trả lời vẫn bị tên đó đưa
tay khều khều, rồi ba hoa chích choè. Không lẽ mình lại nổi cáu. Hắn
đi du lịch một mình khá nhiều bằng xe đò. Nhiều lúc hắn muốn ngồi
yên nhìn cảnh vật hai bên đường. Hoặc ngồi yên suy nghĩ vẩn vơ. Không
muốn bị ai quấy rầy. Với hắn, ngồi trên xe đang chạy là dịp tốt để
hắn sống riêng cho mình, không một con mắt nào có thể đuổi theo dòm
ngó. Hơn nữa, hắn cảm thấy cái chuyển động bên ngoài giúp hắn sống
đời sống bên trong một cách dễ dàng hơn. Trái lại, ở nhà, nhiều lúc
ngồi trước cái bàn hàng giờ, đầu óc khô cứng, rỗng tuếch.
Xe đã qua khỏi con đèo khá dài và khá dốc, trở lại
chạy nhanh trên con đường có nhiều đoạn băng qua rừng thông trùng điệp.
Anh chàng bên cạnh đã tỉnh ngủ, may thay, ngồi yên. Có lẽ nhận ra vẻ
mặt lạnh lùng của hắn.
Hắn nhớ. Hôm đó, sau khi Thảo bỏ đi, hắn mới thấy
phần lỗi do hắn gây nên mới là đáng trách. Vì thật ra, nói cho cùng,
Thảo có lỗi gì đâu. Hơn nữa, sau cái “biến cố” ấy, Thảo đã có chọn
lựa dứt khoát. Nàng đã lặng lẽ và ngoan ngoãn đi theo hắn tới quán
cà phê. Thế là tốt đẹp lắm rồi. Nhưng sao hắn lại còn muốn nhắc
lại chuyện không đáng nhắc. Lại giở giọng xa xôi, bóng gió! Nghĩ
tới, rồi nghĩ lui cái tình huống oái oăm đó, hắn muốn quẫn trí. Để
bớt bứt rứt, hắn buông xuôi một câu, Ô chuyện tình cảm thì làm sao
tránh khỏi những cái lằng nhằng, cù cưa. Hơi đâu mà phân tích, mà lý
sự cùn... càng làm rối rắm thêm.
Chờ Thảo đi một chốc, hắn rời quán đi theo xa xa.
Cái dáng đi đó, đầu hơi cúi gầm, tóc loà xoà, không quay nhìn ai cả,
hai tay thu vào trước bụng, người hơi khum khum và vai hơi run run, vì
lạnh hay vì giận, những bước ngắn và chậm, và dùng dằng, như hờn
dỗi.
Sao mà buồn thế! Cái gì buồn? Thảo hay hắn buồn?
May mà chưa mưa.
Khi cô nàng đến nhà, sợ Thảo quay ngang người nhìn
thấy, hắn vội đứng lại nép đằng sau cột đèn điện đường. Hắn mong
rằng rồi đâu cũng vào đấy, rồi ngày mai, ngày kia hắn sẽ tìm cách
gặp lại nàng, sẽ “giảng hoà”. Hai người sẽ lại cùng đi bên nhau dưới
những cơn mưa rất nhẹ. Đang mùa mưa.
Nhưng chuyện đời nhiều khi nằm ngoài mọi dự kiến. Miền
Nam sụp đổ nhanh chóng. Trong cơn hỗn loạn, hắn không tìm được Thảo.
Và đi không một lời từ biệt.
Hôm nay quán vắng. Quán trông già mua và tiều tụy hơn
xưa, trong khi tất cả những hàng quán nằm kề đấy đều có bộ mặt mới
mẻ, có cái được khơi lên thành nhiều tầng. Cái quán cũ này vẫn
đứng chênh vênh, lạc lõng trên một dải đất nhỏ và cao từ đấy nhìn
ngang thấy con đường nhựa nằm vắt xuống dưới xa gặp một một con
đường khá lớn và khá đẹp, với hàng cây anh đào mà người địa phương
gọi là cây mai, hay mai rừng, chạy ven theo, bao quanh chiếc hồ lớn
trước kia thường lẫn trong sương mù. Nay thời tiết đổi thay nhiều,
sương mù đâm ra hiếm hoi ngay cả trong sáng sớm hay lúc chiều tà. Theo
con đường nhựa đó, nếu đi ngược lên, sẽ băng ngang qua hông ngôi chợ
của thành phố.
Hắn ôn lại từ đầu.
Lần đó, hai người mới quen nhau, cùng Thảo đi thong
thả từng bước trên một lối đi nhỏ và dốc, dưới làn mưa nhẹ như
sương, và cùng che chung một cái dù. Nàng nói:
“Đứng lại đây một chút nghe anh. Để em chỉ anh cái
này. Từ cao nhìn xuống, trông nó giống chiếc đàn dương cầm. Giống
lắm anh ơi.” Giọng nói hơi kéo dài pha chút nũng nịu làm duyên cố ý.
Hai người dừng chân. Hắn hỏi:
“Cái gì giống chiếc đàn?”
“Cái chợ,” nàng vừa nói vừa đưa tay chỉ. “Anh có
thấy như em không anh?”
Hắn không vội trả lời ngay, còn tỏ ra muốn ân cần
nhắc nhủ:
“Em đừng chìa tay ra. Ướt hết.”
Hắn cầm nghiêng chiếc dù để có thể che kín cho Thảo
trong khi nàng cũng hơi nghiêng người vào hắn. Hắn nghe thấy hơi ấm,
dù hai người chưa chạm vào nhau. Hay là hắn tưởng tượng như thế.
Thoang thoảng mùi son phấn lẫn mùi con gái khó phân biệt. Nghe cả hơi
thở rất nhẹ của nàng phả vào cổ của hắn. Phần hắn, mưa như thế
này ăn thua gì, khi lòng hắn đang dậy lên những đợt sóng âm thầm, xôn
xao. Đồng thời, hắn cũng nghe mưa thấm vào vai qua lớp áo ấm ngoài
và áo trong. Mưa nhỏ nhưng đi lâu dưới mưa cũng ướt. Người con gái
dường như có gì vui trong lòng, chốc chốc cười khúc khích. Vài giọt
mưa đậu long lanh lên mớ tóc bị gió tạt nhẹ bay đu đưa trước đôi mắt
và khuôn mặt của nàng.
Lần đầu tiên gặp Thảo, hắn ngẩn ngơ trước khuôn mặt
xinh đẹp ấy. Những lần sau, hắn mới nhận ra rằng Thảo đẹp hẳn lên
nhờ đôi mắt. Đôi mắt to, tròng trắng màu xanh nhạt như màu trứng chim
sáo, tròng đen như có lớp nhung thật mỏng và thật êm bao phủ. Đôi mắt
huyền ảo ẩn sau rèm mi khá dài và dày. Mắt mở lớn, khuôn mặt liền
tỏa sáng cho cả một vùng. Khi rèm mi khép xuống lưng chừng, đôi mắt
bỗng âm u, khuôn mặt bỗng thoáng sầu muộn. Thường thì vuốt ve, mơn
trớn.
Nhưng, hắn lại nghĩ. Mình giàu tưởng tượng quá
chăng? Hay Thảo biết mình ưa nhìn trộm nên đã khéo kín đáo điều
khiển cặp mắt cho nó mang nhiều vẻ, nhiều sắc.
Thảo nói tiếp, giọng nói càng ấm áp:
“Coi kìa, em không sao cả nhưng anh bị mưa ướt thì có.
Cái vai anh ướt rồi. Này, anh chưa trả lời em đó, nó có giống không
hả anh? Mà ...”
Bỗng nàng khựng lại, sửa lại dáng đứng, và ngoảnh
mặt như muốn tránh một cái gì. Một anh chàng trẻ tuổi, có lẽ trẻ
hơn hắn, cao ráo,nhẹ nhàng, phục sức gọn gàng, cái quần jeans xanh
nhạt, cái áo da láng màu đen loang loáng nước mưa, đi ngược chiều trên
cùng lối đi, đầu trần, tóc bị mưa ướt dán vào trán. Anh chàng này
tự nhiên nhìn nhanh vào Thảo kèm theo một nụ cười nhếch mép khó
hiểu. Và tiếp tục bước nhanh. Hắn ngạc nhiên nhìn theo anh chàng ấy,
rồi kín đáo nhìn lại Thảo. Nàng cau mày, mặt sa sầm. Hắn hơi bỡ
ngỡ. Bỗng Thảo nói hơi lắp bắp:
“Sao lại ... đứng hoài ... ở nơi này? Anh ơi, đi đi
chớ.”
Hắn định trả lời, thì nàng đã nói trước, hơi gắt,
khác hẳn cái nhỏ nhẹ thường lệ:
“Mà ... mà sao anh không chịu trả lời em?”
“Ủa, trả lời chuyện gì vậy?”
“Chuyện cái chợ. Cái chợ trông có giống hay không.
Nhưng thôi ...Em không cần ... không cần che dù nữa.”
Nói xong, nàng bước đi trước, đưa hai bàn tay khum lại
che lấy tóc. Mưa rất nhẹ bay bay.
Hắn cụp nhanh cây dù lại, kẹp nhanh vào nách, quay
ngoắt nhìn theo hướng tay nàng chỉ hồi nãy. Vừa đi vừa nhìn, nhìn
cho có nhìn, hắn cũng thấy nó giống lắm. Nhất là cái mái hiên
trước nằm phía dưới và chìa ra và chạy song song với cái mái
trên,trông như cái bàn phiếm đàn dương cầm, một chiếc đàn dương cầm
khổng lồ không chịu phát ra tiếng nhạc thánh thót, dìu dặt, mà là
tiếng nói cười lẫn lộn tiếng la hét văng vẳng xa xa từng hồi. Nén
cái khó chịu trong lòng xuống, hắn bước vội tới kịp Thảo, đặt tay
nhẹ lên vai nàng, hỏi nhỏ:
“Em quen cái anh chàng đó hả?”
“Anh nói cái gì, em không nghe rõ?”
Hắn buột miệng:
“Không.”
Nàng cau mày, im lặng.
Mưa nhẹ hẳn, ngớt dần, và tạnh. Con đường dốc lát
sỏi, đá, cát, chỉ ướt phơn phớt. Chưa trơn trượt. Tiếng chân hai người
giẫm lên đường nghe rào rạt. Không hiểu sao, hắn nghĩ rằng cái âm
thanh ấy sẽ sống lâu trong tâm trí của hắn. Lòng nao nao.
Cơn mưa như sương mơ hồ rơi xuống, chốc có chốc không,
theo những cơn gió vu vơ. Rời bỏ lối đi đó, băng qua con đường nhựa,
hắn đưa Thảo đến quán cà phê hắn thường tới. Nàng đi bên cạnh như
cái bóng theo hình, lặng lẽ, ngoan ngoãn. Hai người không nói với nhau
một lời. Hắn thầm nghĩ tại sao mình buột miệng trả lời, “Không”. Phải
chi mình cứ mạnh dạn lặp lại câu hỏi, Em quen cái anh chàng
đó hả? Môn ra môn, khoai ra khoai.
Tới nơi, hắn kéo chiếc ghế cho Thảo ngồi ở cái bàn
đặt bên ngoài quán, dưới cây thông quen thuộc. Và hắn ngồi xuống đối
diện với Thảo.
Đã từ lâu, ngay cả khi chưa gặp Thảo, hắn vẫn thích
ngồi bên ngoài quán cạnh cây thông, dù đến đó một mình hay với bạn
bè. Với hắn, uống ly cà phê là phụ. Cái chính là hãy thư thả lắng
nghe những giọt cà phê rơi tí tách từ cái lọc xuống cái tách, chậm
rãi và hờ hững, để quên bớt những bon chen giành giật của cuộc
sống, những tiếng bom đạn gầm gừ của cuộc chiến, để nhìn ngắm trời
đất bao la, để, như thể tạm dừng chân trên con đường đời dù ngắn, dù
dài, được dịp đóng vai một kẻ đứng bên lề. Nhiều lúc hắn thích
đứng bên lề cuộc sống buồn nản, bên lề cuộc chiến vô vọng, mặc cho
người khác, cho bạn bè, lo toan những gì cần lo toan.
Từ đấy ngước mắt lên hắn trông thấy người ta và xe
cộ qua lại miên man trên con đường thuộc khu phố nằm ở vị trí cao hơn,
đằng sau là hàng thông xanh biếc, đằng sau nữa là trời mây. Hay ngoảnh
mặt nhìn xéo thấy dáng núi xa quen thuộc, thân yêu, trông giống như
hình ảnh người thiếu phụ nằm ngửa mặt nhìn trời, hai cái vú nâng
cao. Tất nhiên hôm đó trời mù mịt nhưng hắn có thể thấy tất cả mọi
hình ảnh trong tâm trí, không cần chút tưởng tượng nào cả. Hay quay
nhìn con đường vắt xuống dưới kia, như đã nói, và xa xa là cái hồ
thấp thoáng sau mấy chòm cây đứng thu mình cho bớt lạnh, mà giờ này
cũng đã khuất trong bóng chiều. Còn nhìn gần? Chiếc đàn dương cầm
khổng lồ của Thảo.
Nàng phá tan sự im lặng khó chịu:
“Anh, vào trong kia đi anh.”
“Hả? Sao lại vào trong kia?”
Nàng không trả lời. Hắn chợt nghĩ đến anh chàng
“hào hoa phong nhã” gặp lúc nãy, cái bực tức bỗng dưng nổi lên. Hắn
nén giận, gằn giọng:
“Hay là em, em sợ ... em sợ ...?”
“...?”
“Ừ, muốn vào thì vào.”
Nàng lại cau mày khó chịu. Hắn uể oải đứng lên
trước, chờ. Bỗng Thảo đổi ý:
“Thôi, lần khác rồi cà phê. Em phải về ngay bây giờ.
Nhà có việc.”
Nàng đứng lên, vội nói tiếp:
“Nhà em gần đây. Vâng, anh nói em sợ thì em sợ. Mà em
nhà về một mình thôi nhé.”
Thảo lạnh lùng bước đi, vội vã, không ngoảnh đầu
lại. Hắn biết nếu hắn đi theo, càng có những cử chỉ hoặc lời nói
sơ suất.
Mùa thu? Giữa tháng 10 trên tờ lịch có nghĩa rằng
mùa thu đã đến lâu rồi chăng? Như người ta thường nói, và hắn cũng
thường lơ đãng nghe theo? Nay hắn bần thần ngẫm nghĩ. Tờ lịch quyết
định thời tiết trong năm chăng? Không, không phải thế. Nếu quả có thế
đi nữa thì tờ lịch chỉ đúng với những nơi khác của quê hương đất
nước này mà hắn đã nhiều lần đặt chân đến khi còn trong quân ngũ,
khi quân ngũ còn. Kể cả Miền Bắc khi nước chưa bị chia đôi.
Riêng tại thành phố cao nguyên này, không có mùa thu.
Không có những đặc trưng, những quen thuộc, dành cho mùa thu mà người
ta thường nhắc nhở. Không có “Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ
thì”, không “Đăm đăm trông nhạn về”. Không gió heo may và
lá vàng bay như trong hai câu thơ cổ, Sóng biếc theo làn hơi gợn
tí/Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Cũng không có mùa hè thiêu đốt
với phượng đỏ môi hồng rụng đầy sân trường, cùng tiếng ve kêu râm ran
giục giã nhiều hồi trong ngày. Hay quyên kêu dưới trăng, lửa lựu đâm
bông đầu tường, như trong hai câu thơ cổ khác, Dưới trăng quyên
đã gọi hè/Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.
Ở đây, quanh năm giá lạnh như mùa đông tại những vùng
khác trên quê hương cũ, trừ mấy tháng có nắng ấm vào buổi trưa. Nhưng
vẫn khác mùa đông giá buốt căm căm ở Miền Bắc, hay lụt lội hoặc mưa
dầm gió bấc ở Miền Trung. Nơi thành phố này, xuân đến thắm tươi từ
khi nào không ai biết, không ai để ý, và lưu lại gần như quanh năm,
cùng với nhiều loại hoa khoe hương khoe sắc –hôm nào cũng nghe thoang
thoảng trong không gian mùi thơm buổi sáng kéo dài đến trưa, và trong
những chòm cây hai bên đường, hay trong công viên, hay trong vườn nhà, cơ
man nào là màu sắc rực rỡ chen nhau.
Vậy thì giữa tháng 10 không nhất thiết phải là mùa
thu. Đã mấy hôm từ ngày hắn trở về thăm lại thành phố nhiều kỷ
niệm này, mưa nhiều hơn tạnh, và chỉ là những cơn mưa nhỏ như sương
mù phe phẩy trong gió, chứ không hùng hổ ào ạt trong chốc lát rồi mau
nguôi giận như mưa Sài Gòn, hay dai dẳng từ ngày này qua ngày khác,
tuần này qua tuần khác như mưa dầm tại Huế. Những cơn mưa nhẹ hạt nơi
này thật ngắn, có đó, mất đó.
Thế thì là mùa gì nhỉ? Tạm gọi là mùa mưa phùn nhé,
hắn thầm bảo. Nhưng mưa phùn đâu mà không có. Hay là mùa mưa rơi không
ướt đất. Hay đúng hơn nữa, mưa bụi. Mưa bụi bay bay. Có khi mưa bụi
kết thành một dải lụa thật trắng, thật trong, thật mỏng, uốn éo lả
lướt trong không gian, trong mây đục, trong gió lạnh. Có khi dải lụa ấy
biến đâu mất để lại bầu trời trống trải, khiến hắn cụp chiếc dù
xuống. Những hạt nước rất nhỏ, rất thưa, mà hắn không thể nhìn
thấy, bay lạc vào hai người, đậu lên mái tóc, lên mi mắt nàng, lên vai
áo chàng. Rồi bay sâu vào ký ức.
Vậy mùa này là mùa gì? Là mùa dành cho những
người đi bên nhau để yêu nhau.
Hắn gọi thêm một tách cà phê phin nóng. Bỗng thảng
thốt một tiếng chim lẻ từ ngọn cây thông. Rồi tiếng đập cánh mơ hồ.
Hắn ngước mắt tìm. Chỉ kịp thấy một bóng chim bay khuất nhanh vào
đám mây mù. Hắn lẩm bẩm:
“Mây xuống thấp lắm, chân trời cũng xích gần, lại
có gió. Chắc sắp mưa.”
Gió càng thổi nhiều hơn. Buổi chiều bỗng mờ mờ
tranh tối tranh sáng. Hắn vẫn ngồi yên tại chỗ. Chủ quán từ trong
bước ra nói khẽ:
“Mời ông vô trong kia. Không khéo mưa đấy.”
Hắn chưa muốn vào, mong mưa, và nói cho có nói:
“Mời một mình tôi vào mà thôi sao? Đâu được. Thế còn
cô này?”
Chủ quán còn trẻ lắm, có lẽ con hay cháu của ông
chủ quán ngày xưa, chăm chú nhìn hắn, rồi ba hoa:
“Cô nào đấy hả ông?” Nhớn nhác nhìn quanh, cười lớn.
“Ông anh của tui vô tình, vô ý quá cho nên cô ấy đã bỏ ông đi rồi. A,
xin lỗi, xin lỗi. Chắc là cô ta đi trốn mưa.”
Hắn im lặng mong mưa tới. Mong cơn mưa thật nhỏ đến
với xiết bao ngọt ngào, và cay đắng.
Có lẽ lần này mưa tới thật, mưa lất phất thôi nhé,
khỏi cần che dù, khỏi cần đi vào trong kia, hắn thì thầm. Mình sẽ
dời cái ghế cho nằm ngay dưới những cành thông rậm rạp, chắc khỏi
ướt. Nhưng mưa nào bay?
Vậy có nên tìm cách liên lạc lại với Thảo hay không?
Xa nhau lâu rồi. Sau cơn vật đổi sao dời, nàng có còn ở nơi này? Chắc
nàng đã thôi học, dĩ nhiên. Hay đã học xong từ lâu. Và biết đâu Thảo
đã quên hẳn hắn, đã có chồng, có con, âm thầm ngày tháng vui bên
hạnh phúc gia đình. Không có thì giờ, hoặc không còn muốn đi tản bộ
trên lối đi nhỏ dốc nghiêng nghiêng, dáng đi cũng nghiêng nghiêng, cho
gần hơn, cho ấm hơn, nhìn chiếc đàn dương cầm vang vang khúc nhạc tuổi
thơ. Thế thì mình về đây để làm gì?
Hắn lan man nghĩ tiếp. Cũng không hề thư từ cho nhau
kể từ buổi chiều hôm ấy. Cũng lạ. Xa nhau như bèo giạt mây trôi. Như
nhiều trận mưa chưa đến đã vội bay đi nơi khác theo những cơn gió lồng
lộng trên cao. Hay đúng hơn, bị gió cuốn đi, trôi giạt.
Hoặc, có thể còn có trường hợp bất hạnh hơn thế
nữa. Cơn mưa lẽ ra phải trút xuống, bỗng tự nhiên “chết yểu” lúc nào
không ai hay, dù không một cơn gió nào đến quấy phá. Vâng, có lần hắn
tưởng sẽ gặp mưa, bồi hồi chuẩn bị chờ đợi. Những đám mây đen nặng
nề làm tối cả trời đất phía đằng trước. Tự nhiên vùng mây đen đó
chuyển dần thành mây xám, rồi trắng xóa. Rồi tất cả cùng tan biến
đi đâu mất trong không gian bao la, trả lại bầu trời xanh thăm thẳm buồn
phiền, và vài tia nắng yếu ớt. Thế là hết. Chưa tụ đã tan. Chết
yểu.
Ừ nhỉ, hai tiếng “chết yểu” hắn đã nghe nhiều lần
từ thuở nhỏ, hay đã đọc đâu đó từ thời còn đi học. Rồi nó đọng lại
trong trí nhớ. Nay, ngồi chờ mưa,hắn liên tưởng đến mấy câu thơ của
một nhà thơ đau khổ đã chết yểu khi chưa tới tuổi ba mươi:
Máu đã khô rồi thơ cũng khô
Tình tôi chết yểu tự bao giờ
Liên tưởng khập khiểng, hắn tự trách. So sánh hay
liên tưởng không bao giờ đúng với đối tượng được đem ra làm đề tài,
hắn lý sự lằng nhằng với chính mình. Nhưng đồng thời lòng hoài nghi
xuất hiện. Có thể nào, câu nói đùa của anh chủ quán lém lỉnh đã
biến thành sự thật, nàng đã bỏ đi biền biệt, không cho hắn có dịp
gặp lại. Tình đành chết yểu. Nếu thế, cái liên tưởng lại không khập
khiểng chút nào. Đúng đúng, sai sai, hư hư, thật thật. Hắn phân vân
mãi chẳng biết có nên tìm lại Thảo hay không. Tự hỏi lòng, phải
chăng đó là tình yêu hay chỉ là mưa nào bay.
Hắn nhìn lại bản thân mình, một cuộc đời cô độc,
không còn ai là người thân thích, họ hàng, ngay cả từ trước khi hắn
bỏ nước ra đi. Tại quê hương mới, những người mà hắn chung sống già
nhân nghĩa, non vợ chồng, đều rất sòng phẳng. Tình yêu được tính
toán bằng tiền bạc, địa vị trong xã hội. Thiệt hơn chi ly đâu vào
đấy. Rồi chia tay nhau trong vui vẻ, nhẹ nhàng. Có dịp muốn gặp lại,
nối lại, cũng có thể chấp nhận, nếu không ai bị vướng bận vào một
người nào khác.
Cũng có người muốn gắn bó lâu dài hơn. Yêu thương,
chiều chuộng. Rồi vì một lý do nào đó phải thôi nhau. Thật ra có
biết bao nhiêu là lý do. Không có thì cũng phải tạo nên. Và hai người
thế là xa nhau. Buồn bã, đau đớn? Có chứ. Phần hắn, vờ vĩnh nhiều
hơn thật. Sau một thời gian, mọi thứ đều nguôi ngoai.
Tại sao những hoàn cảnh đó xẩy đến? Dường như sau
ngày đơn vị của hắn tan rã, hắn cũng tan rã theo. Hắn cứ tưởng hắn
muốn và có thể đứng bên lề cuộc đời mà hắn đang sống, bên lề cuộc
chiến mà bạn bè hắn đã tham gia. Đến khi cuộc đời cũ không còn,
cuộc chiến kết thúc trong đại họa, hắn như người vừa mới mở mắt
choàng tỉnh trước cơn hồng thủy. Không còn lòng nào mà nghĩ đến
chuyện tình cảm lặt vặt, chuyện xây dựng gia đình êm ấm. Mà những
chuyện khác đối với hắn cũng chẳng còn gì đáng kể. Được hay mất,
như nhau. Tốt hay xấu, cũng thế thôi. Đầu óc bỗng dưng có một khoảng
trống lớn, khoảng trống của lãng quên. Hắn thầm bảo nước mà còn
mất, thì còn có gì đáng trân trọng nữa đâu, đáng nghi nhớ nữa đâu.
Huống là những mối tình dễ dãi, chắp nối, buồn nản.
Thời gian ở xứ người qua mau không ngờ. Chưa thấy
buổi sáng, trưa đã tới; chưa thấy buổi chiều, tối đã về. Thế ngày
trốn đi đâu hết? Không có ngày. Hay đúng hơn, toàn là những ngày “đổ
mồ hôi, sôi nước mắt”, đem sức ra mà trả nợ cơm áo. Hắn không có
nghề nghiệp gì cả, học hành thì dở dang, tuổi thanh xuân trải qua
hết đơn vị này tới đơn vị khác trong quân đội. Đêm tối thì kể làm
gì. Ngủ vùi hoặc mất ngủ. Xuân, Hạ về lúc nào hắn không biết. Thu,
Đông đến lúc nào hắn cũng không hay. Năm tháng cứ như dòng nước lũ
cuốn phăng mọi chướng ngại vật. Và dần dà, ghê sợ quá, muốn cuốn luôn
cả những đau đớn, uất ức, căm hờn.
Vậy liệu có thể nói rằng thời gian là lương y chữa
lành mọi thứ bệnh hoạn? Hay cũng có thể là tử thần tiêu diệt những
gì liên quan đến cuộc sống, đến hoài bão, hy vọng? Là gì đi nữa
cũng khiến hắn thảng thốt. Hắn sợ thời gian và quán tính sẽ biến
hắn thành chai lì, vô cảm. Sau những khủng hoảng ban đầu, hắn cố
bình tâm lại. Hắn thử tìm kiếm những mảnh vỡ rời rạc của quá
khứ, Con sông xưa, thành phố cũ, như đứa con đi nhặt nhạnh
những gì còn sót sau khi ngôi nhà của cha ông để lại bị cháy rụi.
Trong một phạm vi lớn lao hơn, hắn thầm hỏi, những
ai, trong đó có hắn mong có hắn, sẽ là người lo việc khôi phục lại
giang sơn, đất nước? Nhưng khôi phục bằng cách nào? Thế hệ này không
làm kịp, thì thế hệ sau, hoặc sau nữa? Đó có phải là một ý nghĩ
viển vông hay không? Hay là, với thời gian, mọi người đều sẽ mệt mỏi,
bầu máu nóng sẽ nguội dần. Sẽ buông xuôi tất cả? Và đất nước sẽ
vĩnh viễn tiêu vong.
Mà nước đã mất hay chưa?
Dĩ nhiên hắn nghĩ rằng đất nước đã không còn kể từ
ngày hắn ra đi. Nhưng dần dà, người ta, trong đó có hắn, không khăng
khăng với những suy nghĩ cũ. Bình tĩnh hơn, chín chắn hơn, sâu sắc
hơn, đúng đắn hơn. Thì nhận ra rằng nước vẫn còn đấy chứ, từ ngàn
xưa cho tới bây giờ. Trong khi đó những triều đại, những chế độ,
những ngọn cờ, thay nhau ngự trị trên quê hương, lâu lắm là vài ba trăm
năm. Hay chỉ tồn tại trong năm, bảy mươi năm, nếu không đáp ứng được
“mệnh lệnh” của thời đại, mà ngày xưa gọi là “mệnh trời”, mà nay
gọi là “lòng người”. Vâng, “lòng người” tức là “mệnh trời”.
Ý nghĩ nói trên không có gì mới mẻ. Cách đây hơn
một nghìn năm, đã có người nói:
Quốc phá sơn hà tại
(Nước mất núi sông còn)
“Quốc” ở câu thơ trên được hiểu là vương triều của
một dòng họ đang nắm quyền. Mà “sơn hà” còn, thì con người cũng
còn. Hắn nhớ Thảo. Vâng Thảo đang ở tại quê nhà. Một số bạn bè của
hắn cũng thế. Hắn nghĩ tiếp, không thể đồng hoá người dân trong một
nước với nhà cầm quyền của nước đó nếu nhà cầm quyền không từ
người dân mà ra, không đại diện cho người dân. Như nhà cầm quyền bây
giờ.
Thì hãy cứ về xem sao.
*
Hắn quên một cách dễ dàng những người hắn gặp trên
quê hương thứ hai này. Còn đối với Thảo? Chưa có đủ thời gian tìm
hiểu nhau nhiều, chưa có cơ hội tiếp xúc thân mật, cũng chưa trao đổi
với nhau những lời yêu thương, hứa hẹn nào cả, nhưng dường như có sợi
dây vô hình ràng buộc. Cho dù có thể Thảo đã có người yêu, cái anh
chàng gặp trên con đường dốc. Cho dù có thể Thảo đã chán hắn, hay
đã quên hắn. Vậy tại sao? Hay là tại vì cái gọi là mối tình đó đã
bị cắt đứt đột ngột nên hắn tiếc nuối? Chẳng khác gì đứa bé được
cưng chiều ưa vòi vĩnh. Được thì mau chán, bỏ bê; không được thì đòi
hỏi cho được. Hay cũng là vì, như người ta thường nói, con cá sẩy là
con cá to. Là vì gì đi nữa, hắn cũng phải về gặp.
Ngoài ra, trong thâm tâm, hắn vẫn nuôi một chút hy
vọng. Có thể anh chàng ấy là người yêu cũ của Thảo, nay hết yêu
rồi. Vì đối với hắn, Thảo dịu dàng biết bao. Hay cũng có thể anh ta
chỉ là một người có chút “quyền thế” vớ vẩn nào đó mà Thảo phải
nể nang. Hay tại vì những lý do khác mà hắn chưa biết.
Mưa vẫn chưa tới dù bầu trời trông ướt nhoè trong
buổi chiều mờ mịt.Chủ quán từ trong quán bước vội ra, đến bên hắn.
Hắn khó chịu, gắt:
“Cái gì nữa đây? Có phải anh định tới còng tôi lại,
áp tải vô trong kia?”
“Thưa ông, thưa ông anh, tui mô dám.” Ngồi xuống ghế
đối diện với hắn, rồi nhìn mông ra ngoài xa, lẩm bẩm. “Ông trời mấy
hôm nay lạ quá, chuyển mưa như chuyển đẻ.”
Hắn bật cười:
“Nghĩa là chuyển xong thì đẻ. Thì mưa ào ào?”
“Chuyển xong rồi ông trời cũng không chịu mưa mới
thiệt là hiện ngụy chớ. Nhưng dù không mưa, giờ này ở ngoài này
cũng bắt đầu lạnh. Lạnh thấu xương. Ông anh nên ...”
Nói chưa dứt câu, chủ quán vội vàng đứng dậy bước
đi nhanh. Khi vào tới cửa, anh ta quay đầu nói thêm, sau một nụ cười
hóm hỉnh:
“Hay ông anh cứ việc ngồi đó muốn chờ ai thì chờ.
Tha hồ.”
Một cơn gió thổi qua, hắn cảm thấy cái lạnh thấm
vào người, thấm tận tâm can. Hắn rùng mình. Chủ quán nói đúng, và
hắn cũng biết thế. Giờ này ngoài này lạnh lắm rồi. Nhưng hắn vẫn
muốn ngồi đây một mình. Hắn vội đưa tay dựng cái cổ áo sơ-mi lên,
cài nút lại, rồi cài thêm mấy cái nút áo vét mặc ngoài. Cầm tách
cà phê lên định uống, cà phê đã lạnh tanh.
Hắn buồn rầu nghĩ ngợi. Mình muốn trở về thành
phố này cốt tìm lại vài kỷ niệm rời rạc, không đâu vào đâu, rồi sẽ
ra đi. Kỷ niệm rời rạc, vớ vẩn nào vậy? Và biết đâu có thể lại
quay về nữa để nhặt nhãnh thêm những gì đã bỏ sót. Ô, tại sao lại
nghĩ đến chuyện tương lai xa xôi, viển vông ấy. Và làm sao biết đã bỏ
sót những gì trong khi hắn đã bỏ lại tất cả tuổi trẻ. Lại nữa,
nhờ có cái quán cũ này nên hắn mới có thể nhớ tới Thảo? Đâu phải
thế. Không, tất cả đều không phải, đều là những lý do vu vơ, những
chuyện vờ vĩnh, để tự đánh lừa.
Tuy nhiên bảo rằng chỉ vì Thảo mà hắn trở về, có
lẽ cũng không đúng. Nhưng nếu Thảo không còn ở tại thành phố này,
có lẽ hắn cũng không về. Mâu thuẫn? Lẩn thẩn? Hắn sống thường trực
trong rối rắm, khốn quẫn.
Có lẽ không chỉ vì Thảo mà thôi. Chắc còn có nhiều
thứ nữa. Còn có cái thành phố với biết bao kỷ niệm khó quên của
một thời tuổi trẻ. Những con đường dốc sỏi, đá, và cát, kêu rào
rạt dưới bước chân đi. Những khu phố quây quần, nơi cao, nơi thấp, chỗ
lồi, chỗ lõm. Những ngôi nhà nho nhỏ, cheo leo, trên những con đường
cong queo, khuất nẻo. Những khu vườn thoai thoải chạy dài xuống những
thung lũng trồng đủ loại rau quả. Thông thì xanh, hoa lá thì tươi,
quanh năm. Và tiếng lao xao vẳng vẳng như hoà với tiếng nói của Thảo
từ ngôi chợ gần; chiếc hồ xưa thì như đang đưa tay vẫy gọi từ dưới
xa; và xa hơn nữa, trong không gian khi mờ khi tỏ, dáng núi quen quen.
Tình yêu của Thảo và hắn, hay chỉ là mối tình một
chiều của hắn mà thôi, quấn quýt lấy chốn cũ và quê hương thành một
nỗi nhớ không nguôi. Và khi mùa của tình yêu về trong lòng hắn, sẽ
có cơn mưa nào bay? Cơn mưa nào sẽ bay tới như hắn mong chờ, hay chẳng
có cơn mưa nào bay cả./
Ngự Thuyết
Chú thích :
1. Xuân Diệu
2. Hàn Mạc Tử
3. Nguyễn Khuyến
4. Nguyễn Du
5. Hàn Mạc Tử
6. Đỗ Phủ.