Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền
Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người
“sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng
100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của
tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái – Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông
giáp Phú Thọ – Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng
Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2,
một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn
Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông-Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sĩ ở lán 4.
Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt,
lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử biểu
rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt
vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi
vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc
nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc
củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc!
Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì
cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra
tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau
khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh
Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được
thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần
sau… mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm
rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc
đoàn 776 do bộ đội csbv quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực
phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được
khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và
mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt
chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc
“Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản
và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng
đốn đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà… và một toán chặt
nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất
trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận
vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo…
để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng
với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những
phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ
nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường…
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của
dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa
là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau dãy nhà là ruộng
mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất
nguy hiểm.
Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một
ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước
trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20
cây, giấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại.
Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái
nhà.
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng
tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà
sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá
trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục
đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy” Đèo tiếp.
- “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!” Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước
bọt ừng ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở
thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm
nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát? Nếu họ
có súng là mầy chết chắc!” Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không
có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường
đến trường, đón con đi học về nhà.” Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?”
- “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây,
vác mấy bó nứa về trại. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi, Đèo nói, giọng quả
quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ
tao!” Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ
ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để tao
chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần
lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi
hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối,
ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh,
tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập,
vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom
khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ…” Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi
bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi
thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn
trương. Hắn tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ…” Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên
khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!” Nhưng,
hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của
nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới…” Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu
ra là “Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn…
Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và
chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng
luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối… Nhưng, con
chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì
lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng
đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột
cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo
ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện
nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám”
là cái chắc!!!! Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với…” Đến
giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?” Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy
được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước.
- “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống
hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thùng thình, con vện
tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật
mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân
ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ
cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo
trèo nhanh như vậy.. Thế là thoát nạn!
Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị
té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm
hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che lại
phần khẩu súng nước phía dưới , sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội
nghiệp!!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu
lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở
Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ,
vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà nát lên các mật
khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn,
Cái Nước… nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra
thì cũng nhục thật đó!
Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng:
- “May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về
trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ
sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi
bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc
cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển
khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật,
tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối,
lội qua bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
- “Mầy yên trí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối.
Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối,
hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau
quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn
xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn
huýt sáo miệng bản nhạc “bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con
chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân
ra mặt trận… nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy
cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”!!!! Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc XHCN nầy, đến
con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người.
Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng
chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo
và “đồng chí vện” ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặt
con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi
kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện
cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn
2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn
hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”… Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận”
đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên
nhìn tôi. Bốn mắt lườm nhìn nhau…. tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của
nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng
cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên
cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần,
định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng
chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại
trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi:
- “Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ
bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại
trà.”
Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi.
Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ
suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một
cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một
anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”. Mỗi ngày, anh có
nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận
cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào
mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa
ra!!
Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin
nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy,
trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2
tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng
hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn thòm thèm thịt tươi. Và tôi
đang nghĩ kế hoạch thịt con vện…
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa
hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với
anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo
chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương
quyết ngăn cản. Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của
tao!”
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng
lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo.
Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có
khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân
núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường
mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những
tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng
đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo.
Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn
con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua
những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng,
trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu
đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân
cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc.
Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo
cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió
lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc,
trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và
cái tĩnh lặng mong lung ấy…. Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía
trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn:
- “Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy
ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một
chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt
cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây
“anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút
máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra
không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều
anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức
nhối tàn bạo. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống
trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh.
Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa
tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh
trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con
suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng
phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm
đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ
cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào
thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất.
Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo.
- “Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận!
Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!” Tôi
nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!”
Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở.
- “Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông
chỉ hai thanh niên, tiếp.
- “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi. Ông cụ
thở dài, nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại
cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy,
các anh ạ!”
Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm
tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?” Tôi trợn mắt nhìn hắn,
hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên
“Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót.
- “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định
đi, đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói.
- “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát.
- “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật
rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người
lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận
10 viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng
và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay
cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống nước trà xanh. Căn nhà
sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng
200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay
kéo vào bản, bắt gia súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như
Thái, Mường, Mông… cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả
đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết
với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc
thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà,
trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng
theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông.
Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về
tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về. Cụ
đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi
biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa
tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng
cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà
tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách
thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang
về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có
chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật
lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc
“Reostop” còn đủ 10 viên rồi giấu dưới gối.
Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ
làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ
cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ,
chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông
cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời.
Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các
anh phải cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ,
nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và
chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải
tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng
sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì
không thuốc chữa cho chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất
phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị
là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm
1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa? Trước khi chuyển
trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về
các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi
chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau
lưng chiến hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để
lấy điểm.
Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị
xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân
cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước
sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát – trưởng trại – ban hành lệnh
hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng
để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp
đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến
chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả
tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” – tiếng lóng – một hình thức kiểm soát
hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng
riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn
“thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu
toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên
“Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu
trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội
P.T.K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn…
Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng
Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá
chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng
sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào não, tim và thận và
ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở
vì uống phải loại thuốc nầy?
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải
căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần
như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường,
tiểu và đại tiện một chỗ. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên
“Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt
những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ
thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da
nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt
như đồng.
Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại
trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm
sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức
bằng những hạt lệ khô. Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ,
tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một
lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu
đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển
cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa…
Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy
khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những
tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp
vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột. Đôi khi, có anh đang
nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả
lán dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt cộng tràn ngập
căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy
cha…” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn
tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng
tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch. Tôi mệt mõi, ngủ
thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên,
đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai.. Tôi nghe cả lán
hoảng hốt, thét lên:
- “Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!…”
Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai
cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi
luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong
mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh
mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong
tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa
khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt
người bạn tù…
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái
nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái
cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau
bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động
Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động.
Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài,
tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh… Chỗ anh
nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại
khoảng 2 cây số… Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn
Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của
anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của
tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng… Quá nửa đêm về
sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng
tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình như, chúng đang tranh ăn thì
phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ
xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha
xác của anh đi!
Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45,
tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cổng trại. Tên lính canh
cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi
lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô
lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan
sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên
ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp
xuống, loang lổ vết máu và lông thú.. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm
qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo
để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất
động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống
đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư… ử
vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt
tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất
để quan sát: con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước
bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ
máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến.
Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều
mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy
chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó,
đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một
dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất
“người” dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù.
Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng
loại của nó:
“Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của
tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết
thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách
thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó:“Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại tìm
cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!”
Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và
khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những
cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn
điều gì đó với tôi chăng?
Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai
táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa.
Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy
trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói:
- “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người
kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy!! Sẽ không có
cái áo quan thứ hai đâu”!!!!
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai
anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường
đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy,
một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau
khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh
Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng
ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn
qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối.
Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai,
khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau
vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai
sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi,
chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ,
cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm
mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM
MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùng
Gởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách
rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ
nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc
chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu
bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện
khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó
làm tôi rớt nước mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không
hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay
chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi. Hắn nói như ra lệnh:
- “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây
rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận
đấu… tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau.
Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những
mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận.
Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố
nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau.
Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp
nơi gần như bất tận. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro
trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh
lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì
lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa
ra thành những cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một
chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo
thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh
như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng
ruộng, thung lũng, sông hồ … Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng,
kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm
thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn
tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh
đến rét run.
Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết
Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng
để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào
rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn
Đèo và con chó vện thân thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống
vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần
theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay!
Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa
từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi
đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc
theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ
nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm
đang vỗ cánh chấp chới trong không khí.
Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy
khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các
bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang
lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua
chiêng, trống… rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng
tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã
biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống
cổ nó đi nhá!” Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!” Đứng trên cầu
thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi
bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!” Cụ vội vã chạy xuống
cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ
ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy
đấy!” Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!”
Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra
rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?” Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!”
Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo
đánh chết anh Đèo, phải thế không?”
- “Không phải vậy,
anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi
bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của anh ấy biếu! Sao anh Đèo
không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải
thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên
thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi
nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy
sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân
tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả!
Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống,
uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên
nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch
khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng
cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của
dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội
“Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải
thích:
- “Đó là ngày “Hội
Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ
vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài
hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu
và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy
vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi
xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu
tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa
xòe” cụ Trừng cố mời.
- “Anh ở nán lại
đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên
khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai
khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ
chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn
hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng
về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại
hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:
- “Bao giờ anh về
Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc
nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ
Chí Minh do tập đoàn lãnh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà
vẫn gọi cái tên cũ “Sài Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam .
Sau khi cắt xong
một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo.
Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy
thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn
Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người
lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong
thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có
giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ
loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng
lên tại miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn
thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người
lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn
giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Sau Tết Mậu Ngọ
1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải
tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai
quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào
miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương
Đăng Sĩ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng
hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người
bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN!
Nguyễn Vĩnh Long Hồ