Hoa dã quỳ
(Có một số
đoạn ở 2 bài trước được lập lại ở đây cho các bạn chưa đọc qua được
hiểu)
HOA
Khi vui hay khi
buồn, hoa luôn luôn là bạn trung thành của ta. Ta ăn uống, ta ca vũ, ta ve vãn
đùa cợt với hoa. Ta kết hôn, làm lễ rửa tội với hoa. Ta không dám chết mà không
có hoa. Ta thờ phượng với Bách hợp, ta mặc tưởng với Sen, ta bày trận với Hồng
với Cúc. Ta lại còn muốn nói bằng ngôn ngữ của hoa. Không có hoa, làm sao ta có
thể sống được? (Trà Đạo / Chado -
Okakura Kakuzo)
.
HOA TRONG U
MỘNG ẢNH CỦA TRƯƠNG TRÀO
Trương Trào tự
Sơn Lai, hiệu Tâm Trai và Trọng Tử, người tỉnh An Huy, sinh năm 1650 (năm Thuận
Trị thứ tám, đời Thanh), không rõ năm mất. Ông sáng tác không nhiều, trong đó nổi
tiếng nhất là “U Mộng Ảnh” (bóng mờ trong cõi mộng). U Mộng Ảnh chỉ là một tập
sách nhỏ gồm 222 mục gồm những cách ngôn đầy thi vị trong văn phong bay bướm của
Trương Trào, phác họa ra một thế giới thơ mộng được nhìn qua đôi mắt tài hoa của
một nghệ sĩ lớn, và nó đã làm say mê nhiều thế hệ văn nhân thi nhân Trung Quốc.
Trương Trào
viết về hoa:
- "Trong
thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có thể không còn ân hận gì nữa"
(Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận. Bất độc nhân dã) - (U Mộng
Ảnh - Trương Trào)
Nhưng ở đời có thể
tìm được chăng một người tri kỷ? Tấm lòng tri âm giữa Bá Nha và Chung Tử Kỳ,
tình bạn tri kỷ giữa Quản Trọng và Bão Thúc Nha có lẽ chỉ còn là huyền thoại. Bạn
tri kỷ chỉ do cơ duyên mà gặp, không thể gượng gạo mà cầu.
Không riêng gì
người với người, mà cả người với hoa cũng có thể là tri kỷ để gửi gắm
tâm sự:
- "Như
cúc lấy Uyên Minh làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh làm tri kỷ..."(Như cúc
dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ Hòa Tĩnh vi tri kỷ...) - (U Mộng Ảnh - Trương
Trào)
.............
Giải thích:
Bài 2 đã nói
về Uyên Minh và Hòa Tĩnh rồi, ở đây xin thêm về Trương Chi Hạc "tri
kỷ" với hoa mai:
Trương Chi Hạc đời
Thanh, tự Vân Giai, có hai câu đối cũng đáng để ta nói: “Mai lấy Trương Chi
Hạc làm tri kỷ. ”
Tứ hải luận
giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê
thủ bái mai hoa
字 四 海 論 交 求 古 劍;
一 生 低 首 拜 梅 花。
(Bốn biển luận
giao tìm kiếm cổ
Một đời, đầu cúi,
lạy hoa mai)
Đi khắp bốn biển
bàn chuyện giao du, giống như đi tìm cây kiếm cổ. Suốt một đời chỉ cúi đầu trước
hoa mai. Câu đầu tràn đầy hào khí mà vẫn thanh cao, câu sau bộc lộ ngạo tâm mà
vẫn vô cùng tĩnh dật.
Ở Việt Nam, hai
câu này thường được gán cho nhà thơ Cao Bá Quát, với bốn chữ đầu “Tứ hải luận
giao” đổi thành “Thập tải luân giao”.
Thập tải luân
giao cầu cổ kiếm,
Nhất sinh đê
thủ bái mai hoa.
Dịch nghĩa:
Mười năm giao du
trong thiên hạ để cầu thanh gươm cổ
Một đời cúi đầu bái phục hoa mai!
Có tư liệu cho rằng
đây là câu đối của tri phủ Hà Dương tặng cho Nguyễn Tư Giản (1823- 1890), khi
ông này đi sứ Trung Hoa vào năm 1868. Nhưng hầu như rất nhiều người khẳng định
tác giả hai câu trên là nhà thơ Cao Bá Quát, và ca ngợi đây là hai thơ thuộc loại
thần bút, nói lên cốt cách của họ Cao.
.
HOA DÃ QUỲ
.
Tìm hiểu chung
về hoa Dã quỳ:
– Tên thường gọi:
Hoa Dã quỳ
– Tên gọi khác:
Hoa cúc dại, cúc quỳ, sơn quỳ, quỳ dại, hướng dương dại, hướng dương Mexico,
cúc Nitobe
– Tên tiếng Anh: Wild sunflower, Mexican Sunflower weed, Landscape Yellow Flowers
– Tên khoa học:
Tithonia diversifolia
– Tên tiếng Nhật:
Nitobegiku ( Cúc Nitobe: vì loài này được Nitobe Inazo đưa vào Nhật Bản)
Nitobe Inazō (1862 – 1933): nhà giáo dục , nhà kinh tế nông nghiệp, chính khách...
– Họ Cúc:
Asteraceae
Tháng 11 là khoảng
thời gian mà những hoa Dã quỳ khoe sắc rực rỡ nhất. Chính vì thế, Dã quỳ được
xem là loài hoa đại diện cho tháng 11.
Hoa dã quỳ mang vẻ
ngoài trông giống với hoa cúc và hoa hướng dương và nó là sự dung hòa giữa hai
loại hoa này.
Màu vàng của hoa
dã quỳ không phải là thứ màu vàng của sang trọng, quý phái, mà là màu vàng dân
dã dễ khiến người đắm say.
.
Truyền thuyết
hoa Dã quỳ:
Dã quỳ gắn liền với
một truyền thuyết cảm động về tình yêu đôi lứa:
"Sự tích
về loài hoa dã quỳ này xuất phát từ bộ tộc Lasiêng sinh sống ở vùng Tây nguyên
xa xôi. Trong bộ tộc có nàng H’Linh đang tuổi con gái, xinh đẹp và hoang dã như
đất trời Tây Nguyên. Nàng đem lòng yêu chàng K’Lang. Hàng ngày, K’Lang vào rừng
săn bắn, hái lượm, còn H’Linh sẽ ở nhà se tơ, dệt chăn kiêu chồng theo đúng tục
lệ của người con gái khi về nhà chồng. Đến tối, hai người sẽ cùng dân làng ca
hát, đốt lửa và hạnh phúc bên nhau. Cuộc sống vui vẻ như vậy cứ tiếp diễn, chỉ
trực chờ cho đến ngày họ thành vợ, thành chồng. Tuy nhiên, câu chuyện tình yêu
của họ vấp phải một cách trở lớn đến từ chàng LaRihn, con trai của tộc trưởng,
người cũng ngày đêm hết lòng mong nhớ H’Linh. Tuy nhiên, vì không được nàng đáp
lại tình cảm nên LaRihn nảy sinh ghen ghét, đố kị với K’Lang.
Một ngày nọ,
K’Lang vào rừng săn bắt như thường lệ, nhưng mãi đến tối khuya vẫn không thấy về.
Một ngày, hai ngày rồi ba ngày vẫn không thấy bóng dáng người thương, H’Linh
nghi ngờ có chuyện chẳng lành, bèn vào rừng tìm K’Lang. Đi qua mười mấy con suối,
mười mấy cánh rừng mà không thấy tung tích, nàng thiếp đi vì quá mỏi mệt. Trong
giấc mơ, nàng nghe thấy K’Lang gọi và thúc giục nàng đi thêm một con suối nữa.
Qủa nhiên, H’Linh tìm thấy K’Lang, lúc này đang bị người của bộ tộc trói chặt
và đâm bằng những mũi tên nhọn. Nàng chạy vọt tới ôm lấy chàng khiến LaRihn trở
nên điên cuồng và mũi tên cuối đã vô tình đâm thẳng vào trái tim người con gái
mà LaRihn hằng đêm nhớ mong.
H’Linh chết
cùng K’Lang trong tư thế quỳ và ôm lấy chàng không rời. Về sau, tại nơi H’Linh
chết đã mọc lên một loài hoa dại có màu vàng rực rỡ tràn đầy sức sống mãnh liệt
thể hiện cho một tình yêu chung thủy, người đời đã đặt cho một cái tên là lạ và
mỹ miều đó là hoa "Dã quỳ". Người xưa giải thích rằng:“Dã” có nghĩa
là hoang dã; “Quỳ” có nghĩa là quỳ gục xuống. Từ đó, loài hoa dã quỳ trở thành
biểu tượng cho một tình yêu thủy chung, son sắt và không bao giờ rời bỏ."
(Nguồn:
hoatuoivannam. com)
.
Dã quỳ trong
thi ca:
Vẻ đẹp của loài
hoa Dã quỳ đã đi vào thơ ca:
Cũng chính bởi
câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng bi thương, nét đẹp mạnh mẽ lại tinh tế, đóa
hoa này đã được giới văn nhân, nghệ sĩ hết mực chiều chuộng và yêu mến. Hoa Dã
quỳ cứ như vậy mà đi vào thơ ca, văn học với những cái tên đầy thi vị khác như:
hoa nắng, hoa báo mùa, hoa chờ em,…
Đà Lạt, Tây
Nguyên, Ba Vì, Sơn Tây,…đều là những khu vực nở rộ cánh đồng hoa dã quỳ mà mọi
người có dịp đều nên tới và chiêm ngưỡng. Ngắm nghía vẻ đẹp của loài hoa, hòa
mình vào câu chuyện xưa của H’Linh và K’Lang, cảm nhận một tâm hồn đầy lãng mạn
và trữ tình trong chính con người mình. Đó chính là điều đặc biệt nhất mà loài
hoa dã quỳ dành cho bạn.
.
Ý nghĩa của
hoa Dã quỳ:
Cũng như nhiều
loài hoa khác, hoa Dã quỳ cũng mang trong nó những ý nghĩa và thông điệp sâu sắc
về tình yêu đôi lứa.
1. Tượng trưng
cho sức sống mãnh liệt, kiêu hãnh:
Dã quỳ hoa rất dễ
mọc, phát triển rất nhanh ở những nơi có điều kiện vô cùng khắc nghiệt; nên nó
tượng trưng cho sức sống và tình yêu mãnh liệt: luôn khát khao để vương lên
trong mọi hoàn cảnh bất chấp những khó khăn.
2. Tượng trưng cho sự chung thủy và sẵn sàng hy
sinh cho người mình yêu:
Dã quỳ gắn liền với
một truyền thuyết cảm động về tình yêu đôi lứa. Vì tình yêu nàng H’Linh sẵn
sàng hy sinh bản thân mình, từ đó hoa Dã quỳ được xem là biểu tượng cho lòng
chung thủy và hy sinh trong tình yêu. Nó cũng là loài hoa thể hiện lòng kiêu
hãnh khó khuất phục của nàng H’Linh.
3. Tượng trưng
cho sự yêu mến, quý trọng:
Không chỉ là biểu
tượng cho tình yêu và sự chung thủy hoa Dã quỳ còn thể hiện sự yêu mến quý trọng
những người có nội tâm phong phú. Những người được tặng Dã quỳ được xem là kiên
cường, vượt qua những khó khăn mà người tặng rất ngưỡng mộ.
4. Hoa Dã quỳ báo
hiệu mùa đông:
Dã quỳ thường đơm
hoa và nở rộ vào đầu mùa đông (tháng 11) vì vậy khi màu hoa Dã quỳ vàng rực nổi
bật khắp triền đồi và thảo nguyên, thì có thể coi đó như sự báo hiệu cho mùa
đông đã đến.
.
THƠ VỀ HOA
DÃ QUỲ
Xin được ghi ra đây
bài thơ nỗi niềm về hoa Dã Quỳ Đà Lạt.
.
Nỗi Nhớ Dã
Quỳ
.
Khói thuốc lam
bay vướng hồn cô lữ
Đã bao năm rồi
không thấy hoa xưa
Cali phố người
đèn xanh đèn đỏ
Tôi nhớ Đà Lạt
thành phố mộng mơ
.
Bao năm lưu đày chiều
nay muốn khóc
Mà khóc làm
sao nước mắt đã khô?
Góc vắng
cà-phê khói cay vương mắt
Tôi nhớ người
ơi Đà Lạt sương mù!
.
Tôi nhớ người
ơi vàng biếc dã quỳ
Rực rỡ ngàn
hoa đường mộng mê si
Mùa đã đến
rồi em ơi có nhớ?
Đà Lạt thương
yêu, nụ hôn Cam Ly [1]
.
Tôi nhớ người
ơi ngày ấy phân li
Sẽ rồi em ơi
không thấy dã quỳ
Thôi nhé từ đây
chắc rồi mãi mãi...
Vĩnh biệt Cam
Ly, Đà Lạt xuân thì
.
Tôi nhớ người
ơi vàng biếc dã quỳ
Màu hoa tôi yêu
màu áo tình si
Đã bao năm rồi
vẫn màu hoa ấy
Đà Lạt sương
mù trong hồn người đi
.
Quán vắng đèn
vàng thành phố Cali
Đáy cốc in mơ
sầu khúc thầm thì
Nỗi nhớ mông
lung hồn bay theo khói
Bay về Đà Lạt nồng nàn Cam Ly
"Rồi mai
tôi sẽ xa Đà Lạt
Đồi núi buồn
xin gởi lại cho em
Và con đường
mù sương giăng mắc
Hai đứa hôm
nào lạnh buốt trong tình yêu" [2]
"Đà Lạt
ơi, thôi giã từ em nhé
Ôi Lâm Viên,
ôi thác cao, đồi xa
Ôi thông reo,
ôi suối Vàng run rẩy
Có nghe ước thề
hẹn về trong bước ai đi?"
[3]
.
Mùa đã đến
rồi mùa của dã quỳ
Mùa của vàng
hoa màu áo tình si
Tôi nhớ trời ơi
sương mù Đà Lạt!
Nhớ lắm người
ơi nụ hôn Cam Ly!
.
Đà Lạt tôi ơi,
ngàn năm thương nhớ
Cam Ly thương yêu
môi đó xuân thì
Em có nghe chăng
tiếng lòng nức nở?
Của người
phương xa mây gió gởi về?
.
Nguyên Lạc
________________
Nguồn: U
Mộng Ảnh - Trương Trào, Huỳnh Ngọc Chiến dịch và chú thích trên
Talawas
[1] Thác Cam Ly nằm
kề bên thành phố Đà Lạt, trên dòng suối Cẩm Lệ. (Cam Ly đọc trại từ K’Mly -
tên người tù trưởng của bộ tộc Lạt trong truyền thuyết).
[2] Tình Yêu Như
Bóng Mây - Lời nhạc Song Ngọc
[3] Giã Từ Đà Lạt
- Lời nhạc Duy Khánh