Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa
nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm
1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người
từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã
tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà
tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn
là một bóng mây xa.
Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân
Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Cộng và Pol Pot
tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những
chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề
tranh cãi nữa.
Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu
không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục
triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi
sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi
là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm
chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người
tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm
tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho
hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ
Khmer Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì “họ
là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù
sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện
khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những
người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn
các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà
Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện,
đầu độc một thế hệ đao thủ phủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm
thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để
chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân
tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn
bà Samrith Phum, người có chồng bị Khmer Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith
Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khmer Đỏ địa phương bắt đi và giết
chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng
làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một
làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay
kết án.
Với chủ trương “Dân tộc Khmer cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở
Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot.
Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khmer Đỏ. Hun Sen nhiệt
tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên.
Nhiều chi tiết trong quãng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn
trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ
tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung
làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất
phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.
Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều
tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ
thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh
viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc.
Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải
Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố
vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi,
lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những
dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị
xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn,
vỡ là do cuốc xẻng”.
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà
nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần
được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những
người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng
theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ
là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện
vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ.
Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những
thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc
từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến
từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết.
Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp
bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một
ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người
lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy
Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân : “Sự thực là tôi
đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại
Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân
1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có
thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ
bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống
thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia
đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt
trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ
lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát
biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người
lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại
tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương
“Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt
trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi”.
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê
xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và
những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở
Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền
hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư
luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi
trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là
máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra.” Và ông cho rằng một số
người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người
Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn,
chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v. và đến
khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi
tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống
thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh”.
Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ
của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là
thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất.
Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả
các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy
của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những
không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem
đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết
một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và
công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá
CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo
kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu
Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân
nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi.
Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời
giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt
ngào như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas
2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới,
Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến
nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một
người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường
phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu
Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, những người bị giết chắc chắn biết
người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và
Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không
từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân.
Trong bài viết nhân đọc bài “trịnh công sơn – Những hoạt động nằm vùng” Hoàng
Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành
nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng
không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người”.
Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã
“đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên
hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết”
của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưỡi,
không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng
không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể
thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người
sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa…”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có
quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng
phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải
lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho
thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời
người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng
Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu
tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông
với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt
chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây
thơ cũng không tin được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan
mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà
văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì,
không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình
trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng
chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân hoặc đã giết
hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông không? Chắc chắn là có, không thể
có lời giải thích thứ ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học
lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân
tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự
không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay
lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn
gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn
nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn
đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết
các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm
thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v.. mãi mãi vẫn
là những dấu đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất
nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự,
nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các
ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà
nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học”
nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi
Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống của một
dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn
đau buồn, tủi nhục. Tại sao ông không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở
Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khmer Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm
1977, đang cố chôn đi quá khứ ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một
công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một
số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các
phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ
không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa
giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này
không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn
nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế
hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các
ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã
quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ
để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông,
các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho
cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà
hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.
Trần Trung Đạo
(Trích trong Chính Luận Trần Trung Đạo, viết 2010, xuất bản 2014)