Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào
sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng
hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.
Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến
lần hồi. Toàn chăm chú nhìn người bẻ ghi cúi xuống đường rầy chuyển con đuờng sắt
lắp vào đường đi trước mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng,
khói không còn bay mạnh ngược chiều, bốc lên tan loãng chậm rãi.
Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy
rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những người bán hàng ùa ra mời
khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phương. Nút chai làm
bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên trong những
vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm
đậm đà và làm Toàn chảy nước miếng.
Toàn xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách rưới đụng phải
anh, chắn lối bậc thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen
thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.
– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thượng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới
có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.
Toàn mỉm cười:
– Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang về làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga
này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.
Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa
tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cười nói ồn ào của hành
khách.
Một vài người vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi bước vào ga. Anh cố
tình không quan tâm gì đến điều khiếm khuyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại
ám ảnh anh như thường lệ. Anh thấy mình rõ ràng bước đi khập khiễng, chân thấp
chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều trước mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Anh
cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm
ở quân y viện ốm hẳn người đi. Không biết có ai nhìn xuyên được qua lớp vải quần
của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch
so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng
một gang tay.
Toàn liếc nhìn mọi người nhưng chẳng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống
ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi xình xịch chạy. Viên xếp
ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật
hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen
to tướng trên bàn. Toàn mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái
chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải
dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.
Băng qua con đường cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm
nhà nhỏ nằm xùm xít với nhau ở đằng kia, dọc theo bờ biển. Xóm toàn là những
mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài lưới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm
ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã trường hay Quận trưởng. Và còn thêm một căn
nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khoảng sân mát mẻ
dưới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng Toàn mường tượng nhìn thấy tấm bảng thiếc
treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ trường tiểu học
Lăng Cô. Chính nó, chính mái trường tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho
một ngày trở về. Và anh đang bước chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng,
nhưng người như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm
xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng
không phải là điều đáng kinh ngạc.
Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:
– Thưa cô Hiệu trưởng, có khách hỏi cô.
Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:
– Phụ huynh của em nào hả?
Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:
– Thưa cô không biết... ông này... lạ hoắc ạ.
– Được rồi.
Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và trước khi cánh cửa mở toang ra
hết để Toàn có thể gặp lại chi Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích
trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một
cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô hiệu trưởng
trường tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.
Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:
– Trời ơi! Toàn đó hả?
Anh chỉ biết nhe răng cười sung sướng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị
Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạng rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chầm lấy Toàn nếu
không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm
lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà
cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tường như một tín đồ sám hối. Chị Lục
vỗ đầu cậu bé:
– Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng
còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không.
Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn
chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình được tha vì cô Hiệu Trưởng có
khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.
○
Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng trước kia của lão Hiệu trưởng
cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tường và quả địa cầu
xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học
trò biết chị.
Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời
cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một
lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:
– Cái chân…
– Sao?
– Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.
Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn
– Trời ơi… trời ơi…
và Tòan thấy bàn tay anh lạnh uớt nuớc mắt.
– Thôi… Toàn không chết là may rồi. Toàn được về là may rồi. Ở mãi đây nghe.
Anh mỉm cười:
– Tôi biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.
– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc trước, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ…
và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.
– Cái chân.
– Toàn!
– Trường Lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài hước cho học sinh. Chị muốn
tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn
cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.
Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng
dậy, vẫn nghiêm trang và thân mật tự nhiên như lúc trước, chị dìu vai Toàn đi
vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục
sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một người đàn bà độc thân.
Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây
thép gai, bếp lửa gần với chân giường ngủ. Toàn còn nhớ trường này có hai phòng
học bỏ trống, được chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi trước
cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu trưởng nên lên ở đây một
mình. Chị Lục nói:
– Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn
thích uống nước dừa không?
Toàn mỉm cười, cảm giác yên lành ngập tràn người anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ
mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như
cũ.
Anh thiếp được một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao.
Như cũ… trước kia chị Lục và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn
hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của
anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bóng đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh
thường bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi được làm trọng tài.
Anh bật cười. Có lần bóng trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh
bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti”. Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị
Lục từ ngoài sân chạy vào gây gổ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định
vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua
phá luới” sáng chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay
lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển. Rồi còn gì nữa... Anh bị gọi đi lính.
Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thường cùng thầy
giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ
ánh nắng.
Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hoàn toàn vì mái trường cũ và chị
Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.
… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. Anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc
mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừa thở hổn hển trên bãi biển,
đuổi theo chị Lục. Chị ở trước mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt
kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát.
Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn
anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cười cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống
úp mặt ướt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình anh
chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét
lên…
– Toàn!
Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên
vầng trán tuơm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một
ly nước dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một
hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa
sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả,
anh ngẩng đầu dậy:
– Chiều rồi. Sao chị không dạy học?
– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à.
Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Ahh lục lạo một
xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.
– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ
vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.
Anh lắc đầu. Anh tìm thấy dưới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nước
Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc
thêm cho học sinh… thư viện trường tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ.
Anh nói với chị Lục:
– Thôi đọc cái này vui lắm.
Chị Lục cũng bật cười. Chị nói:
– Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học
trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tươi lắm…
Chị mở cánh cửa
– Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.
Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc được gì
hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã
tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này
một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải
làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở
toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.
Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc duơng rũ là
xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ
đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu
cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran dưới chân người.
Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều được dọn ra trong cơn gió
biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những
giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai người. Nhất là đối với Toàn,
mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ được nấu chín vội vàng trong những
chiếc thùng đen dơ bẩn.
– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.
Chị Lục nhúng bánh tráng sơ sài vào nước cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi
cá ngừ kho, mùi thơm bốc lên, những khoanh cá chín ngả sang màu nâu tỏa đầy
khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tươi chẻ
nhỏ được tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nước
chấm được làm bằng nước cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt
lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển
tươi, mát mẻ giòn tan của rau xanh, mặn mà của nuớc cá và vị ớt cay cay…Gió biển
lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút
trong người vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.
Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cười và khẽ nuốt nước bọt
thèm thuồng nhìn anh. Phần chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm
rãi bình thường và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nước cho bánh
tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh giòn. Anh mải miết ăn, không còn hơi sức
đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái
khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:
– Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.
Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên lưỡi như mùi ớt. Anh đưa
chiếc ly cạn một nữa cho chị Lục.
– Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.
Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh.
– Uống lỡ say rồi sao. Tôi đâu biết uống rượu.
– Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.
Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển.
– Ờ... mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ
hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.
– Có ‘chuơng trình’ gì vui không?
– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì được. Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực
tươi về luộc ăn với nước tương. Không biết mùa này có ‘nuốc’ không... ‘nuốc’ ăn
mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.
Anh nhìn chị Lục, mỉm cười khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi
nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thường ngoan
ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống rượu tai hại như thế nào.
○
Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên
trong những mái nhà lá, mọi người đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát
ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng
chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần trường học,
một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.
Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy lóng lánh bia
vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi lông mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại
chiếc ly cho anh, với một nụ cười thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tưởng tượng
quá nhiều nụ cười của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn được lờ mờ khuôn mặt
chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp.
Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:
– Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ ….
Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và
êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân
biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát lương và ngày hết tiền cách đó
không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đường chuyển quân và
nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô,
trường học và chị Lục. Một ngày chủ nhật...
Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nước. Biển Lăng Cô không phải
là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây,
sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền
buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng người, một vài đứa trẻ con lội nước đuổi bắt
nhau đàng xa cuối xóm chài lưới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm. Tiếng chị Lục
đằng sau:
– Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không?
– Đâu biết được, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.
Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng một
phút giây. Nhưng làm sao anh biết được. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc
nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.
Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm, nằm trong
lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Trường Sơn.
Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên
đỉnh núi. Con đường đèo Hải vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mấy trắng sa
thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ài cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây?
Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tưởng tượng.
Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như lướt nhẹ
chứ không phải là nghiến bánh trên đường rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục
thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng,
anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt ngược chiều, bay loãng rồi tan
đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyến tàu
đó. Anh lẩm bẩm:
– Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô... rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển,
ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng
Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn... rồi lại lên đường...
– Toàn định đi đâu nữa?
Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần.
Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai,
làn da tươi sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rảnh rang và tốt trời.
Toàn đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đường đèo xa, nhưng bây giờ không còn
bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả
lời:
– Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.
Giọng chị ân cần:
– Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao?
Anh im lặng nhìn về phía nhà ga. Chị Lục nói tiếp. Tuần nào đến chủ nhật là bỏ
trường phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu trưởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy
thế cho Toàn biết bao nhiêu lần...
Chị Lục cười:
– Trong trường, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi
chứ.
Anh cũng mỉm cười, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang
thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục
hơn một nữa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm dưới mái trường này quá. Và kỷ niệm đẹp
chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại được
những gì tương tự như thuở trước.
Có tiếng cười đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài lưới làm Toàn và chị
Lục đều giật mình.Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai người nãy giờ đã ngồi
sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến
tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu trưởng nghiêm trang đáng kính của chúng.
Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với
ai, nhưng có lẽ cả hai đều có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt
tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông
giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa
nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm,
hai người đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là
chủ nhật, bọn trẻ con được nghỉ học đều ùa ra bãi biển nghịch cát, té nước hay
sửa soạn leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một
chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai người.
Chị Lục và Toàn đành phải về trường. Bây giờ chỉ có sân trường và những lớp học
là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành
lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn
treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ: Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi ngước nhìn
chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng,
trong phòng mờ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tường đã thay đổi, lúc
trước Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt
của rừng già Phi Chấu: cá sấu, ngựa vằn, sư tử... Trên góc của tấm bảng đen,
còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.
Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi
phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cười để giả vờ
làm một cô học trò chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một
‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm
trang nói lớn:
– Trò Nguyễn Thị Huyền Lục
Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ:
– Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à?
Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn:
– Nguyễn Thị Huyền Lục!
Chị Lục bặm môi, lên tiếng:
– Có mặt.
– Lên bảng mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.
– Thưa thầy, đêm qua... em phải khâu lưới dùm cho ba em nên em quên học bài.
– Ze-ro! thôi bây giờ lên bảng làm toán.
Chị Lục mỉm cười, rón rén cầm viên phấn đứng trước bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn
óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên
học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thấy nữa.
○
Anh chậm chạp nói:
– Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy ngược
chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là … viết đi chứ…
Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ờ trên chuyến tàu đó, nghe không…
– …Năm mươi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sáng…
Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của
‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học
đó làm gì, chị đang làm bài toán gay go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen,
thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa…
Toàn thẫn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc
đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:
-… Hỏi hai xe gặp nhau trên đường lúc mấy giờ?
Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết … Tôi
và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên
nhau vĩnh viễn, Toàn…
Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm
chặt vào nhau, môi mấp máy và đôi mắt gần như sắp ứa nước mắt. Chị có vẻ như một
cô học trò nhỏ chịu bí trước bài toán khó, khổ sở trước đôi mắt nghiêm khắc của
ông thầy.
Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng
Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy
nhau như mê man. Nước mắt chị Lục ướt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi hương dịu
ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và
chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi ướt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ
hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn nầm sống.
Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con
người tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi được
không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bóng cái chân hằn vết sẹo
thóp nhỏ cứ lởn vởn trước mặt anh.
Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong
phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ
tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của Toàn cuống
quýt trên người. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, là người trao phó
trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút
một, từng hàng nút được tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát rượi hơi ươn ướt mồ
hôi dưới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mãnh áo quần của hai người
vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của
chị Lục dưới thân người anh… và lúc đó … ngay giây phút cuối, ngay trước cánh cửa
hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng người, than thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…
Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh
cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé
chờ của chị Lục, nhưng không thể nào được nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm
giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn người anh như một gáo nước lạnh buốt, dập tắt
da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi người, nhắm mắt lại, lắng nghe từng
hơi thở, và cuối cùng, không dằn được sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng
đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu
xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng
như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đường khâu sù sì nổi lên
trên da thịt. Anh không rời mắt được khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt
nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc
nhiên, nhưng anh có cảm tưởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tởm trong ánh mắt chị.
Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai
bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng
tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:
– Sao thế, Toàn?
Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy người anh nhè nhẹ, má chị tựa sát
trên lưng anh và thỉnh thoảng chị hôn vào đường rãnh chạy dài của sống lưng anh
làm anh hơi rùng mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những
cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt
trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả thân thể dường như dần dần co rút tê
liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.
○
Vết thương cũ đã lành, nhưng một liều độc dược giờ đây đột ngột tác hại khắc cơ
thế và đầu óc, chói lòa trước mắt anh …
Cái chân què quặt còn làm liên tưởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm
khi ở giữa hỏa ngục của chiến trường. tất cả như một màn lưới đen dày đặc trói
buộc tâm hồn làm người anh rũ rượi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh
run rẩy…Hình như nước mắt của chị Lục đang thấm ướt trên vai anh, chị rụt rè vuốt
ve nhưng người anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chường khổ sở thêm,
chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy.
Anh ôm đống quần áo vội vàng vào người, mở cửa ra phòng trước.
Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe
như những hạt ngọc, tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh người, dễ chịu đôi chút
trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ
đi vào một mái nhà, một căn phòng nào được nữa.
Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu, mồ hôi… Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận…
Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh. Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn
mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc súng, chúng vẫn còn âm ỉ
lúc nhúc trong người anh như một thứ vi trùng độc địa.
– Toàn!
Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi
phòng theo anh vì tóc chị đang rũ rượi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sáng,
hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến trường. Chị phải
trở lại với công việc, với bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu trưởng.
Toàn lầm lũi đi từng bước nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ để trên
vai nhưng người anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh hướng về phía sân ga Lăng
Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa
tàu,và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi trường nhỏ, hình ảnh chị
Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.
Nhà ga thưa thớt người, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh ngồi một
mình nhìn trên băng ghế lạnh, nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một
kẻ thương binh không phục hồi được cuộc sống bình thường, tâm hồn và cơ thể chết
khô vô vị trước trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một người đàn ông bất tòan,
vô dụng, anh không đem lại gì được cho chị Lục, món quà yêu thương đã thất lạc,
chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thương tích và quá khứ.
Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn tàu từ
xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại trước nhà ga. Vài hành khách bước xuống. Đợi
một lát sau, Toàn khấp khểnh leo lên toa tàu. Một người nào đó chen lấn chạm
vào sau lưng Toàn làm anh bực mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay
đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên…chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt
chị ướt đẫm mồ hôi hay nước mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại dưới
bục cửa của toa tàu, lặng thinh cúi đầu trước chị Lục. Giọng nói của chị vang
lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:
– Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi…không thể không có Toàn đuợc…
Anh quay mặt đi, run rẩy:
– Tôi chỉ là một người tàn tật… Tôi không thể…
Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò
của đám hành khách đang nhìn hai người. Từ trường học vội vàng đến sân ga, chị
cũng không kịp phục sức tươm tất như thường lệ cho xứng với một cô Hiệu trưởng.
Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặt trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn
cũ.
Toàn nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con, chị Lục lắc
đầu ôn tồn và âu yếm:
– Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một người tật nguyền thiếu thốn nếu mất
Toàn.
Toàn thấy người được đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa,
bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đường sắt,
giọng chị thủ thỉ bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:
– Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…
Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung sướng bồi
hồi khi được tận hưởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thương.
Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ
quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nỗi. Có vị danh y nào, liều
thuốc tiên nào cứu chữa được vết trọng thương sâu đậm ngay chính trong tâm hồn.?
Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thương cho nhau.
Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời được. Trong anh, một con
người dằn vặt sẽ truy nã một con người đầu hàng yếu đuối đến kỳ cùng.
Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng người, còn có cách nào khác hơn là phải dấn
mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp
đầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở hướng về trần gian tươi đẹp.
Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đường rầy, để lại một
chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của
chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.
Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những bước chân của anh chậm rãi
nhưng cương quyết ngược chiều với sân ga mãi mãi.
– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ
Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Toàn phải… đền cho tôi cái gì đi…
– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ được nghe rất nhiều bản tình ca.
Chị Lục mỉm cười. Giờ đây với một người thương luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi
khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khoát hẳn với những ám ảnh bệnh hoạn trong người. Từ
hôm nay cho đến ngày mai hồng sáng sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với
Toàn. Không súng đạn, không ảo tưởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự
do tiến bước trên mặt trận cuối cùng này.
Hoàng
Ngọc Tuấn