Đọc: Phần (2)
VỀ PHẠM CÔNG THIỆN
Những điều Phạm Công Thiện đã viết:
1.
“Xã hội gồm có hai hạng người chính: hạng người có đầu óc
bình thường (normal) và hạng người có đầu óc thác loạn, điên loạn, bất quân
bình (neurotic).
Trong một cuộc chạm mặt giữa hai hạng người trên, thường
thường người bình thường hay có thái độ chiếu cố từ trên nhìn xuống hoặc tỏ
lòng thương hại hoặc tỏ lòng khinh bỉ: “anh chỉ là thằng điên”. Tất nhiên dù
thương hại hay khinh bỉ, người có trí óc bình thường đều tỏ thái độ rõ rệt rằng
người bình thường cao hơn người điên, giá trị hơn người điên.
Đó là một sự lầm lẫn lớn lao mà hầu hết mọi người đều không ý thức. Chúng ta không được quyền thương hại hoặc khinh bỉ người điên, trái lại, chúng ta bị bắt buộc phải kính trọng người điên vì người điên cao hơn người bình thường trong bảng giá trị nhân bản. Hầu hết những nhà y sĩ thần kinh hay những nhà phân tâm học đều không nghĩ như trên. Hầu hết những y sĩ thần kinh hay những nhà phân tâm học hay nhiều người đều bênh vực cơ cấu xã hội và cho rằng bất cứ người nào không thể thích nghi, thích ứng với xã hội thì không đáng sống ở đời, tức là không còn giữ được giá trị con người nữa. Con người bình thường là con người có thể thích nghi, thích ứng với xã hội; còn con người điên loạn không thể nào sống thích nghi thích ứng với xã hội được.
Xét cho tận cùng, ta thấy con người thích ứng chỉ có thể
thích ứng được là vì họ đã chối bỏ bản ngã, họ đã hy sinh bán mất tâm hồn họ để
đổi lấy sự thích ứng trên; vì vậy, cái tính chất thực thụ và lòng hồn nhiên tự
nhiên của họ đã bị đánh mất.
Họ không còn là họ; họ mang mặt nạ. Họ đầu hàng trước những
công thức; vì thế họ không còn hồn nhiên bỡ ngỡ trước cuộc đời; họ không khác
gì một lưỡi dao cùn; họ có những phản ứng giả tạo hoặc máy móc; họ dễ bị lôi
đi; họ không còn tinh thần sáng tạo; chính những người như họ đã đưa nhân loại
đến những thảm trạng hãi hùng nhất hiện nay.
Trái lại, người điên loạn là con người không chịu đầu
hàng; họ điên là vì họ không chịu chấp nhận công thức xã hội; họ muốn cứu giữ bản
ngã nhưng họ thất bại; và họ tìm giải thoát trong điên loạn, rút lui vào một thế
giới ảo hoặc kỳ lạ. Vì thế đứng trên quan điểm giá trị nhân bản, người điên ít
bại hoại hơn là hạng người đánh mất trọn cả tính tình.
Hiển nhiên, ngoài hạng người (điên loạn và bình thường),
cũng có một hạng người khác rất ít thấy, đó là hạng người không điên loạn mà vẫn
có thể giữ được cá tính mình trong khi thích ứng thích nghi với những đòi hỏi của
xã hội.” (Ý thức khước từ – Con người chạy trốn và phân tâm học nhân bản của
Erich Fromm – Phạm Công Thiện)
2.
“Không bao giờ và bao giờ. Tôi cứ sống mãi với thế giới của
không bao giờ và bao giờ. Triển hạn là nỗi đau đứt thần kinh của con người. Đập
quá khứ nát bấy ra như bụi tro. Chỉ một lần, không bao giờ trở lại vì bao giờ
trở lại. Đẩy mọi kinh nghiệm đến chỗ đường cùng, tát cạn tất cả mọi dòng sông,
tát cạn tất cả mọi đại dương, đây là đường của tôi đi. Chỉ hối tiếc là đã sống
không trọn nó, nuốt nó, ăn nó, liếm nó, nốc cạn nó cho điếng hồn, khô họng, tê
lưỡi, đây là đường của tôi đến. Đi và đến vì không bao giờ đến đi và bao giờ đi
đến, đây là tiếng hót buốt lạnh của những con chim chưa có tên. Viết như nhảy
vào lửa, viết thư xối nước nguồn, bơi, chìm, ngộp, ngất, chết đi trong mực và
máu. Cắt đứt mạch máu trong cơ thể để hoà với mực; ồ, mùa thu đã về trên hải ngạn.
Mây trắng vẫn bay ngỗ ngược như không bao giờ hối tiếc trăng thu mọc trên cây
quế thơm cách đây mười năm. Vật đổi sao dời, nhưng mùi thơm của quá khứ vẫn
tràn lạnh không gian, nhờ một bong mây xa triệng vào phương trời cũ. A, ta đang
làm văn chương?” (Mặt trời không bao giờ có thực VI- Phạm Công
Thiện)
ĐỌC LẠI PHẠM CÔNG THIỆN
Nửa thế kỷ, thử đọc lại Phạm Công Thiện xem sao? Có
“hực lửa” như thời “xuân mộng” không? Hay chỉ lạnh lùng “tro bụi” của
hờ hững thời gian.
Sau đây là những ghi chép các trích đoạn “đáng chú
ý” từ sách Ý Thức Mới Về Văn Nghệ Và Triết Học.
Chương: Ý thức thoát ly – Ngày trở về của đứa con hoang
[Trích đoạn]
1.
Ai cũng biết André Gide là nhà văn Pháp, giải Nobel năm
1947. “Ngày trở về của đứa con hoang” là một câu chuyện ngụ ngôn trong Thánh
Kinh Thiên Chúa (Luc XV, II, 32).
2.
Dở lại Phúc Âm Thánh Luc (Chương XV), ta đọc:
Người nọ có hai đứa con trai. Đứa ít tuổi hơn thưa cùng
cha: “Xin cha cho con phần gia tài của con”. Người cha liền chia gia tài. Mấy
ngày sau đứa con thứ nhặt nhạnh tất cả của cải của mình và đi tới một phương xa
đem tiền ra phung phí trong những cuộc chơi bời tửu sắc. Khi y đã tiêu hết tiền
thì ở phương ấy bỗng xảy ra nạn đói kém trầm trọng. Y khởi sự thấy thiếu thốn
nên phải xin đến giúp việc cho một thế gia trong vùng, người này sai y về ruộng
chăn heo. Chàng thanh niên thực muốn nhét đầy bụng thứ đậu dành cho heo ăn mà
chẳng ai cho.
Hồi tưởng lại mình, y tự nhủ: Có biết bao nhiêu người làm
công trong nhà cha ta có bánh ăn dư thừa mà ta đành chết đói ở đây!… Ta phải chỗi
dậy đi tìm cha ta. Ta sẽ thưa cùng người: “Lạy cha, con thực đáng tội với Trời,
với cha; con không còn đáng gọi là con của cha nữa; con chỉ xin cha đãi con như
người làm công trong nhà”. Chàng bèn chỗi dậy và đi về tìm cha. Từ xa, người
cha đã trông thấy chàng. Bối rối vì cảm động, ông chạy ra đón con, ôm chầm lấy
cổ con và hôn con luôn mãi. Người con mở đầu: “Thưa cha, con thực đắc tội với
Trời, với cha, con không đáng gọi là con của cha nữa.” Song người cha đã kêu bảo
tôi tớ: Hãy mau mau đem áo của con ta ra bận cho nó; hãy lấy nhẫn đeo vào tay
nó, lấy dép xỏ vào chân nó. Hãy đem một con dê béo ra làm thịt đi! Phải làm một
bữa tiệc thật linh đình! Vì con ta đây đã chết, nay lại sống lại, đã lạc nay lại
tìm thấy…” Bữa tiệc khoản đãi liền nay lúc ấy…
Bây giờ người con lớn đang ở ngoài đồng. Khi trở về gần tới
nhà, người ấy nghe thấy tiếng đàn hát liền gọi một tên đầy tớ lại hỏi cho biết
có việc gì. “Em cậu đã trở về rồi! Ông sai mổ bê béo (ăn mừng) vì thấy cậu vẫn
được mạnh giỏi!” Người con lớn tức, giận, không chịu vào nhà. Bấy giờ người cha
vội ra năn nỉ con. Đứa con ấy nói: “Con vất vả làm việc với cha từ bao nhiêu
năm! Không bao giờ con không vâng giữ lời cha. Thế mà chẳng bao giờ cha cho con
một con dê nhỏ để đãi bạn bè. Còn đối với đứa con đã xài phí hết cơ nghiệp cho
điếm, thì cha đã vội giết bê béo để ăn mừng, khi nó vừa thoạt trở về!”; người
cha liền đáp; “Con ơi! Con ở với cha luôn luôn từ trước đến nay. Những gì của
cha đều thuộc của con. Nhưng phải làm tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay lại sống
lại, đã lạc nay lại tìm thấy!” (Bản dịch của H.M.T)
Đứa con trai hoang đàng ấy tượng trưng những gì? Người cha? Đứa con trai lớn? Tôi yêu đứa
con hoang đàng ấy lắm và tôi cũng cảm động đau đớn hối hận trước tấm lòng vô hạn
của người cha; đứa con trai lớn kia chỉ đáng cho ta thương hại và không đáng
cho ta ghét. Đứa con hoang đàng trôi thân lạc chợ ấy cao hơn đứa con trai lớn
kia gấp trăm vạn lần.
Đứa con hoang đàn
ấy là mỗi người trong chúng ta, là những kẻ phạm tội, những kẻ bê tha rượu chè,
những nghịch tử, những kẻ du côn, những kẻ phá trời phá đất, những người ruồng
bỏ xã hội hay bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ sống ngoài vòng, những kẻ étrangers,
những outsiders, những exilés, những kẻ désaxés, déséquilibrés, những putains,
những kẻ khùng điên, những tử tù, những hiện tượng thuần tuý, những quái vật,
những Raskolnikov hay Sonia hay Kirilov hay Gregor Samsa hay Joseph K. hay
Caligula hay Meursault hay Martha hay Sisyphe.
Đứa con hoang
đàng bẩn thỉu dơ dáy ấy là Strindberg hay Nietzsche hay Dostoievsky hay Henry
Miller hay Van Gogh hay D. H. Lawrence hay Rimbaud hay Lautréamont hay Kafka
hay Henry Miller hay Thomas Wolfe hay James Joyce hay Blaise Cendrars hay Lenau
hay Leopardi hay Charles Henay Ford hay Caragiale hay Antonin Artaud hay Jean
Genet hay Lucrèce hay Eschyle hay Sophocle hay Hàn Mặc Tử hay Przybyszewski hay
Knut Hamsun hay Céline…
Tôi tưởng tượng
như trên, nhưng tôi nghĩ cũng có kẻ khác không nghĩ thế; mỗi người có một đời sống,
tôi không phê bình phán đoán lối sống của anh và xin anh cũng đừng phê bình
phán đoán lối sống của tôi. Cám ơn anh.
…
Thomas Wolfe là một
trong vài ba hiện tượng lạ lùng nhất của văn học Mỹ; Thomas Wolfe chết lúc 38
tuổi (sinh năm 1900 và chết 1938); Wolfe viết văn ào ào như suối chảy, hàng
ngàn trang, hàng triệu chữ, hằng đống bản thảo, ban ngày đi dạy học, tối thức
suốt đêm viết, viết, viết… đến lúc mệt Wolfe bước ra ngoài trời khuya lạnh lẽo
đi lang thang tê dại khắp đường phố rộng lớn như một thằng điên. Cà phê, rượu,
thức đêm, làm việc đêm, đi đêm, bấy nhiêu cũng đủ giết Wolfe và chàng chết lúc
38 tuổi là cũng phải. Nếu ta gọi Faulkner, Hemingway, John Dos Passos, Eugene
O’ Neill, John Steinback, Erskine Caldwell là thiên tài, nếu ta gọi những nhà
văn trên là thiên tài thì ta phải gọi Thomas Wolfe là siêu thiên tài. Tôi sẽ trở
lại Thomas Wolfe, tôi sẽ viết riêng một bài dài (hoặc một quyển sách dày) để gợi
lại hình ảnh phi thường phi phi thường của Thomas Wolfe (đối với những con người
như Thomas Wolfe, Henry Miller, hay Blaise Cendrars, suốt đời tôi đều phải trở
lại thăm viếng luôn; đó là giòng suối ngọt thơm giúp tôi đỡ chết khát giữa cuộc
đời nóng bức khô hạn này).
Tôi buồn vì hôm
nay tôi chỉ nói rất sơ sài về Thomas Wolfe, nói đến một khía cạnh rất nhỏ là “Ngày
trở về của đứa con hoang”.
Thay vì bàn đến
những quyển tiểu thuyết vĩ đại của Thomas Wolfe như Look Homeward, Angel hay Of
Time and the River hay The Web and the Rock hay You Can’t Go Home again, tôi
đành phải nhượng bộ với đề tài hôm nay và chỉ viết về truyện ngắn “The Return
of The Prodigal” (Ngày trở về của đứa con hoang) trong quyển The Hills Beyond của
Thomas Wolfe.
Truyện “The
Return of The Prodigal” rất giản dị đơn sơ; câu chuyện rất tĩnh mịch và rất ồn
ào. Truyện gồm hai phần: phần đầu rất lặng lẽ, rất tịch mịch; phần sau rất
huyên náo ồn ào; tác giả đưa ta đi vào hai thế giới trái ngược hẳn nhau.
Câu chuyện đơn sơ
như vầy: Eugene Gant là một nhà văn rất nổi danh; tiếng tăm vang lừng khắp nơi,
đi đâu ai cũng nể vì trọng vọng duy chỉ có quê hương chàng là khước từ chàng, bởi
vì chàng đã xây dựng những nhân vật tiểu thuyết theo những người ở quê hương mà
chàng đã sống hồi còn bé thơ. Gần như tất cả những người ở quê hương chàng đều
phản đối chàng và có kẻ còn hăm doạ chàng; bởi thế trong vòng bảy năm trời
chàng không trở về quê hương nữa, chàng trở thành một kẻ bị lưu đày và một kẻ
lang thang giang hồ lãng tử, And for seven years thereafter he did not go home
again, he became an exile and a wanderer (“The Return of The Prodigal”, The
Hills Beyond, Pyramid books, tr. 93). Trong bảy năm trời lang bạt kỳ hồ, chàng
vẫn lưu luyến nhớ quê hương, chàng nhớ quê hương đến nỗi chàng tưởng tượng hình
dung ngày trở về quê hương như sau: ngày ấy là một đêm gió loạn vào mùa thu,
trong một thành phố bé nhỏ ở một vùng đồi núi quê hương, chàng bước đi lặng lẽ
trên một con đường hoang vắng và mưa rơi lạnh lẽo, gió lướt lê thê buồn thảm,
cũng những nhà cửa ấy như độ nào nhưng bây giờ trông thê lương biết bao, khi bước
đi đến một ngôi nhà cũ kỹ nọ, chàng dừng bước, buồn bã nhấn chuông, một bà cụ
già yếu chậm chạp bước ra mở cửa, chàng hỏi thuê phòng để ngủ một đêm rồi sáng
lên đường; bà cụ lếch thếch dẫn chàng đến một phòng trống lạnh, chàng bơ phờ bước
vào; lúc bà cụ đi khỏi rồi, chàng lấy hai tay vò lên mái tóc rối, lắc đầu tắt
đèn và đau đớn lắng nghe tiếng giông bão ào ào đập vào nhà, chàng ngủ nhưng rồi
đột nhiên bỗng sực thức dậy vì chàng nghe một tiếng nói mơ hồ xa xôi, chàng tự
nhủ: phải chăng đó là giông bão với một triệu tiếng nói? Phải chăng đó là mưa?
Phải chăng đó là bóng tối đã vây phủ ngôi nhà cũ của cuộc đời và đem tiếng nói
về cho im lặng? Hay đó là sự ghê rợn của im lặng lạnh lẽo đã làm ngày trở về của
tôi chẳng thành ngày trở về, đã làm tôi trở thành một kẻ xa lạ trong nhà này,
mà chính mẹ của tôi đã quên tôi?
Is it the storm that has million voices? Is it the rain? Is
it the darkness that fills an old house of life and give a tongue to silence?
Or is it the terror of cold silence that makes of my returning no return and of
me an alien in this house where my very mother has forgotten me? (trang 102) Bà
cụ già yếu cho thuê phòng ấy chính là mẹ chàng và ngôi nhà cũ xưa ấy là ngôi
nhà chàng đã sống thuở bé thơ, nhưng hỡi ơi, mẹ chàng không còn nhận ra chàng nữa.
Đó là những gì chàng đã tưởng tượng, nhưng tưởng tượng vẫn
luôn cách xa thực tại. Chàng đã tưởng tượng chàng sẽ trở về quê hương lặng lẽ
âm thầm như trên, nhưng sự thực lại khác, vì lúc chàng trở về nhà, mọi sự đều xảy
ra khác hẳn trí tưởng tượng chàng, cả quê hương nhộn nhịp đón rước chàng, bạn
bè, người thân quyến thuộc đầu kéo đến vây bủa chàng, hỏi chàng, điện thoại réo
ầm cả nhà, mẹ chàng phải trả lời liên miên, hết điện thoại của người này mời
chàng, đến điện thoại của người khác, chuông điện thoại kéo suốt ngày, rồi những
lời nhì nhằng của mẹ; “con hãy nên đi dự… họ có địa vị cao trong xã hội… con
nên… ông X giàu có lắm”. Truyện chấm dứt với câu sau đây: “Lại điện
thoại nữa kìa con! Con hãy chờ một phút – Mẹ sẽ trả lời cho họ”. There goes
that phone again! Just a minute, son, – I’ll anwer it (trang 119).
Truyện gồm có hai phần: phần thứ nhất là phần Eugene Gant tưởng
tượng ngày trở về quê hương; phần thứ hai là Eugene Gant thực sự trở về, chứ
không phải tưởng tượng. Trong phần đầu, ta đi vào một thế giới lặng lẽ trầm buồn,
ta chỉ bước nhè nhẹ khe khẽ. Trong phần sau, ta lọt vào một thế giới huyên náo ầm
ĩ, làm mệt cả thần kinh.
Truyện “The Return of The Prodigal” chỉ đơn sơ như trên và
dù Thomas Wolfe chẳng nói gì rõ ràng nhưng ta có thể thấy được, cảm được nỗi bực
mình của Eugene Gant khi trở về quê hương; bảy năm trước, cả quê hương từ bỏ
chàng, bảy năm sau lúc trở về, cả quê hương ào đến đón rước chàng, quấy rầy
chàng với tiếng chuông điện thoại, với những lời mời mọc ầm ĩ, phá mất sự cô
đơn, đánh mất đời sống nội tâm của chàng. Mặc dù Thomas Wolfe không nói gì rõ
ràng, nhưng ta có thể đoán rằng đứa con hoang ấy (Eugene Gant) sẽ bỏ nhà đi nữa
vì không chịu nổi không khí ngột ngạt đó.
Trong tác phẩm cũng như trong cuộc đời, Thomas Wolfe vẫn là
một đứa con hoang không bao giờ trở về, dù có trở về nhà đi nữa, rồi sớm muộn
gì cũng lại bỏ đi luôn.
3.
Gide viết truyện ngày với tấm lòng đau đớn không cùng:
“Lạy Chúa, như một đứa con nít, hôm nay con xin quỳ trước
Chúa, mặt đẫm đầy lệ” (Mon Dieu, comme un enfant, je m’agenouille
devant vous aujourd’hui, le visage trempé de larmes).
Sau một thời gian sống bê tha hoang phí hết tiền bạc, đến
lúc quá đói khổ, không thể chịu đựng được nữa, đứa con hoang mới trở về nhà
cha, đứng từ đồi cao xa xa, hắn nhìn thấy mái nhà đun khói chiều, nhưng hắn vẫn
chưa về nhà, hắn chờ cho tối hẳn mới dám về để màn đêm che giấu sự bần cùng của
hắn… Nhưng hắn không thể chịu đựng được nữa, hắn chạy xuống đồi và bước vào sân
nhà, chó không nhìn ra hắn và sủa, hắn muốn nói với mấy người đầy tớ nhưng
chúng ngờ vực tránh ra chạy đến báo tin cho chủ. Người cha chạy ra dang hai tay
đón con và sau đó mở tiệc ăn mừng ngày trở về của đứa con hoang:
Sau khi đã nói
chuyện với cha, đứa con hoang phải đối đáp với người anh cả:
Sau đó, người mẹ
tỏ vẻ lo âu về đứa con út; người mẹ nhờ hắn săn sóc trông nom đứa em út, bởi vì
đứa em út cũng có những cử chỉ hành động như anh nó, cũng muốn hoang đàng bỏ
nhà đi như anh nó. Tối đêm đó, hắn bước vào phòng ngủ của em út, hai anh em nói
chuyện đối đáp với nhau khá lâu, sau cùng đứa em út ấy lại lên đường bỏ nhà cha
mẹ mà đi, cũng như hắn ngày xưa. Truyện chấm dứt với lời ân cần nhắn gởi của hắn
trước khi đứa em út lên đường:
Chính đoạn kết luận
này đã làm truyện “Le Retour de L’enfan prodigue” của Gide trở nên đặc biệt lạ
thường. Đoạn kết luận này đã làm buồn lòng Francis Jammes và Paul Claudel, vì
Jammes và Claudel vẫn mong chờ ngày Gide trở lại đạo công giáo (cf. Pierre de
Boisdeffre, Métamorphose de la littérature, I, trang 118-119).
Thế là Gide vẫn
là đứa con hoang và không bao giờ chịu trở về mái nhà cha. Những người bạn thân
của Gide như Claudel, Julien Green, Charles du Bos, Jammes đều mong chờ ngày trở
về của Gide (tức là theo đạo công giáo) nhưng họ đã thất vọng.
[Hết trích]