Tôi xa quê đã lâu, lâu đến nỗi không còn có thể nói
hay đọc được tiếng mẹ đẻ một cách lưu loát và trôi chẩy nữa. Trên
đường lưu lạc, có hôm, tôi lỡ bước đến Ayutthaya –
nơi được vua U Thong chọn làm kinh đô của Xiêm La, từ thế kỷ XIV.
Nhìn thành quách, đền đài, phế tích điêu tàn giữa
ánh nắng chiều mà không khỏi bùi ngùi, và chợt nhớ đến bài thơ
(“Thăng Long Hoài Cổ”) của Bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hoá gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương …
Vì vốn liếng biết tiếng Việt nghèo nàn (và vì
cách dụng từ có khuynh hướng hàn lâm của tác giả) nên tôi không dám
chắc là đã hiểu hết được cái tâm cảm áo não của bà, sau một cuộc
bể dâu. May mắn là ngay bên dưới bài thơ thượng dẫn còn có thêm vài
câu chú thích, tuy ngắn gọn nhưng khá tường tận:
“Thăng Long là kinh đô nước ta từ đời nhà Lý đến đời nhà Lê,
đến đời Minh Mệnh nhà Nguyễn thì đổi ra tỉnh Hà Nội. Đi qua cố đô, Bà huyện
Thanh Quan, đại biểu cho giai cấp sĩ phu Bắc Hà, bâng khuâng trước sự di đô đổi
triều, đau lòng trước sự tang thương.”
Thì ra là thế!
Tôi vốn không sính chuyện thơ văn (và cũng chả có
tinh thần nghinh tân hay hoài cựu gì sất cả) nên hoàn toàn không cảm
thấy “bâng khuâng” chi hết, “trước sự di đô đổi triều tang thương” xẩy
ra trong thời đại của chính mình. Điều may mắn là dân Việt không chỉ
toàn cái thứ thất phu và vô cảm như tôi nên mọi diễn biến thời cuộc,
cùng tâm tình của thế nhân, đều đã được giới “sỹ phu Bắc Hà” ghi
nhận:
- Lê Phú
Khải: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang, không khí hồ hởi vui tươi sau
chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như
toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những
cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của cải cách ruộng đất, của cải tạo tư sản, đấu
tố …”
- Nguyễn Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng
lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu
hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp
trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu
cũng bị nhà nước trưng thu luôn.”
- Nguyễn
Văn Luận: “Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè
nghe ngóng từng ‘chính sách’ mới ban hành… Hà Nội đói và rách, khoai sắn
chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải ‘cung cấp’ một năm theo ‘từng người trong
hộ’. Mẹ may thêm chiếc quần ‘đi lao động’ thì con nít cởi truồng.”
- Bùi
Ngọc Tấn: “Quản lý chặt dạ dày, hộ khẩu, duy trì tình trạng thiếu
đói cả ở nông thôn và thành phố, chia nhau từng mét chỉ, nửa cây kim, nửa
cái bát sành…”
Cuộc hý trường kế tiếp, xẩy ra 21 năm sau (năm 1975)
cũng thê lương và thảm thương không kém: Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu
Công Lý/ Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do! Tuy đã mất tự do và công
lý nhưng nhiều người cầm bút vẫn còn giữ được lương tâm, và đã
khẳng khái nói lên mọi cảm nghĩ chân thật của mình, dù thuộc bên
thắng cuộc:
- Nhà
văn Dương
Thu Hương: “Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân
chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ.”
- Nhà
thơ Phan
Huy: “Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô/ Giận đảng giận đoàn bao
năm phỉnh gạt.”
- Nhà
báo Trần
Quang Thành: “Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt
Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới.”
- Nhà
báo Huy
Đức: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo
khoa của chúng tôi.”
Nó khác ra sao?
Ông Châu
Hiển Lý (bộ đội tập kết) cho biết: “Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh
quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội
chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. ‘Tính hơn hẳn’ của
chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt
cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”
Với thời gian, cùng với sự “tồi dở” và “thối nát
về mọi mặt” mỗi lúc được “phơi bầy rõ rệt” hơn, dân Việt đều trở
nên hoài cổ ít nhiều. “Bao giờ trở lại ngày xưa?” (hay “Ngày xưa ơi
biết bao giờ trở lại?”) có lẽ là lời than thở đầu môi, sau mỗi cuộc
hý trường ở đất nước này:
Nguyễn Đình Toàn (1936 – ) : Sài Gòn ơi! Ta mất
người như người đã mất tên/ mất từng con phố đổi tên đường/khi hẹn nhau ta lạc
lối tìm/ ôi tình buồn như đã sống thêm (Sài
Gòn Niềm Nhớ Không Tên).
Hoàng Anh Tuấn (1932 – 2006) : Mưa hoàng hôn, năm cửa
ô sầu hắt hiu trong ngục tù/ Tủi thân nhớ bao ngàу qua/ Mưa ngùi thương nhòa
trên giòng sông Hồng Hà/ Ôi còn đâu vàng son mùa thơ hiền hòa/ Đau lòng Tháp
Rùa, Thê Húc bơ vơ, Thành Đô xác xơ! (Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội).
Tuy kẻ mất người còn nhưng Nguyễn Đình Toàn, Hoàng
Anh Tuấn, Vũ Thành … đều thuộc về một thế hệ đã qua. Họ có “dĩ
vãng vàng son” để mà hoài cổ, và đó là chuyện thường tình. Điều
bất thường là lớp trẻ bây giờ cũng thế, cũng có khuynh hướng … nhìn
lui!
Ngày 4 tháng 10 năm vừa qua, nhà báo Lê
Anh Hùng đã ghi lại một bức ảnh của chính ông, trong bộ cánh
rất chỉnh tề và lịch sự, cùng với câu hỏi: “Bao giờ cho đến ngày
xưa?”
Ngày xưa nào?
Lê Anh Hùng sinh năm 1973. Ông chào đời chưa bao lâu thì
“cả
nước đã quy về một mối, một mối hận thù, một mối đau thương”!
Tuổi thơ, cũng như tuổi trẻ của ông (e ) đều không êm đềm hay tươi vui
lắm. Vậy mà ông vẫn hoài cảm (hay hoài cổ) thì nghĩ cũng hơi kỳ.
Cuộc sống (xem chừng) mỗi lúc một tệ hại hơn với tất cả mọi người
dân Việt, bất kể tuổi tác hay thành phần – trừ đám lãnh đạo ở đất
nước này:
- Nguyễn
Phú Trọng: “Nhìn tổng quát, đất nước có bao giờ được như
thế này không?”
- Nguyễn
Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với
bạn bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do
chúng ta duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”
- Nguyễn
Xuân Phúc: “Việt Nam tuy là nước có thu nhập thấp nhưng có chỉ số hạnh
phúc cao thứ 5 thế giới.”
- Nguyễn
Mạnh Hùng: “Tôi có một niềm tin rằng người Việt Nam sẽ làm ra những
thứ mà thế giới chưa từng làm”.
Sự tự tín, lạc quan và tin tưởng (hay hoang tưởng)
của họ không khỏi khiến tôi nhớ những câu than trách của nhà
báo Nguyễn
Thông : “Đám cai trị xứ này cũng không hẳn là mù mắt, nhưng sự mù đầu
mù óc, mù tư duy, suy nghĩ thì quá rõ. Như các cụ xưa bảo, đường quang chẳng đi
lại đâm quàng bụi rậm. Quờ quạng cây gậy lý luận khua khoắng dò đường, chỉ đâm
vào ngõ cụt.”
Sau cả nước “đâm quàng vào bụi rậm” rồi toàn dân
lại “đâm vào ngõ cụt” thì hỏi ai mà không hoài cổ?
Tưởng Năng Tiến