1
Bùi Giáng qua đời tại Sài-gòn tháng 10-1998, tới tháng 10
năm này, 2023, đúng là 25 năm, một phần tư thế kỷ “Vắng bóng người Điên
giữa kinh thành”.
Trong tất cả các bút hiệu của Bùi Giáng, Sáu Giáng là tên hiệu
dễ thương với mọi người, Bùi Giáng lại thích “anh Sáu Giáng” nhất; bởi/từ cái gốc
gác quê mùa, đồi sim, ruộng lúa, tiếng gà trưa, con cò bãi nước xa, cái nền nhà
lát gạch hoa, đứa con thứ sáu trong gia đình tộc Bùi, thằng bé Giáng tập bò tập
đi.
Con người càng bao năm càng cao dần, nhưng chẳng cao bằng
cây mít cây tre trong vườn. Anh Sáu rời vườn xưa ra đi, vẫn mang hình bóng tre
mít trong lòng, nhưng tre mít chẳng bao giờ biết trong vuờn quê này từng có Sáu
Giáng. Sáu Giáng là ai? Chính anh cũng mơ màng, trôi dạt, đến nhớ nhung chính
mình.
“Lên đường gõ cửa nhà ma
Kêu thằng Bùi Giáng bước ra tao chào”
2
Tháng 10 năm nay, 2023, nghe râm ran qua mạng rằng các nơi,
Sàigòn. Đà Nẵng, Huế, cả Hà Nội đều có lễ giổ, tưởng niệm Bùi Giáng. Cuộc đồng
loạt mở lòng tưởng nhớ này rất đúng tầm lễ nghĩa. Nhưng cũng ngặt cho anh Sáu.
Hẳn là sẽ có hương trầm chuông mõ, lời tưởng niệm, diễn văn,
hoặc ai đó đọc bài thơ tặng Bùi Giáng. Có một lần ở Hà Nội, mần lễ tưởng niệm
Bùi Giáng, rất nhiều phát biểu yêu thơ ca Bùi Giáng, bao nhiêu người nhận đã từng
gặp Bùi Giáng chuyện trò, nhưng tấm hình chân dung Bùi Giáng to đùng treo trong
hội trường là hình của…họa sĩ Th. H. Vị này, đang sống nhăn, già, nghèo, sống
nhờ tại chùa Nghệ sĩ, một hình thức nhà cứu tế dưỡng lão, tại Gò Vấp.
Gập ghềnh, gian truân hơn, nhân dịp này, Bùi Giáng có thể được
tưởng thưởng cái huy chương Lao động hạng Nhứt; được nhận giải văn chương.
Rất khiêm nhượng, Bùi Giáng cũng như bao người có thực tài,
khi cầm bút chẳng ai nghĩ mình đang lao động. Mặc dù có động -- động não; và có
lao – lao tâm lao trí, cần cù mới có tác phẩm, nhưng nó không nằm trong hai từ
lao động thường hằng như cày bừa bửa củi.
Trong văn chương thi họa, bọn người ấy cũng mang một xác
thân lấm đầy những bụi trần gian, lẫn lộn đời thường. Nhưng họ có thêm một
riêng Cõi để chan hòa. Giữa khung trời huyền vi, viễn mộng, chẳng ai trong họ
thấy nơi xa xa có treo lơ lửng một cục tiền, tấm huy chương, cái bằng danh dự,
trả giá. Họ ẩn mình, lánh xa đám đông, những trò đời làm vẩn đục sự tinh khiết
của tâm hồn.
Bùi Giáng cũng minh triết tự biết mình, cô đơn như người
trăm năm cũ.
Nguyễn Du từng tự hỏi:
“Văn tự hà tằng vi ngã dụng – chữ nghĩa ta dùng giúp được
gì cho ta”
Nguyễn Khuyến cũng từa tựa Nguyễn Du thuở kia, “Sách
vở ích gì cho buổi ấy!”
Tan Đà đau đớn hơn :
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”.
3
Tôi chưa hề khen thơ Bùi Giáng hay. Thơ không phải chén mắm tôm, kẻ mê tơi, người
bịt mũi.
Đến với anh Sáu Giáng là đến với một nơi chốn có cái để nhìn
ngắm, có nắng ngoài kia, bóng mát dưới tầng lá này, có bốn mùa ấm lạnh cây kia
đứng một mình.
Bùi điên, Bùi cô đơn, nhưng Bùi rất thân ái với cuộc đời,
yêu cả những chủng loài vô danh nhỏ bé, bọn này chẳng dính dấp chi tới diễn
văn, tưởng thưởng.
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi
Trần gian ôi! cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn.
Bùi đầy lòng quyến luyến, biết ơn trần gian:
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu
Bùi kỹ lưỡng, thầm trách cả chim chóc thiếu tình giả biệt:
Bay về tổ chín từng cao,
con chim vĩnh biệt quên chào mái hiên
Bùi Giáng thông tuệ, linh ứng, tiên tri chính xác, cả ngày
mình xa ngái bầy trẻ con thân mến:
Ông chào các con,
Ông từ viễn mộng tương lai
Về trong hiện tại ngàn mai giậy giàng
Mậu Dần mật thể thênh thang
Ông về chín suối đá vàng chào con
Năm 1998 là năm Mậu Dần, bổn mạng Thành Đầu Thổ. Bùi Giáng mất
đúng ngày 7 tháng 10 năm ấy.
4
Không những gởi lời tạ từ, Sáu Giáng còn uống chung rượu với
em, tâm tình rất mực. Em đây, em gái Huế dịu dàng, em châu thổ thênh thang
thang Châu Đốc Long Xuyên, em hưu nai ngã Bảy Ngã Ba phố thị, em Mọi từng than
thở cùng Marilyn Monroe, nàng tài danh này tự tử bất ngờ khi minh tinh màn bạc
hãy còn rực rỡ tháng ngày:
Mọi nhỏ – Tại sao chị tự tử?
Monroe – Tại vì chị là người da trắng. Huống hồ nữa
là...
Mọi nhỏ – Là sao huống nữa?
Monroe – huống nữa là màu da trắng của chị còn trắng
hơn tất cả màu da của mọi người da trắng khác.
…
Monroe – Chị tự tử đã đành. Sao em cũng tự tử? Em ở trong rừng mát mẻ, em tự tử
làm gì cho phí mất màu da bồ quân bánh mật của em như thế?
Mọi nhỏ – Em
đâu có tự tử. Chính là thật ra cái hòn đạn nó tự tử em.
Sài-gòn vẫn sáng ửng
nắng vàng để rong chơi, “Đi lên đi xuống đã đời du côn”, nhưng Bùi
Giáng tự biết ngã đường chia biệt:
Uống với em trước
giờ giã biệt.
Uống xong ly
rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt
nhớ đã từng đầu tiên.
Uống như uống
nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng
tới phiền muộn sau
Uống xong ly
rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ
quên nhau muôn đời
Em còn ở lại
vui chơi
Suốt năm suốt
tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về
suốt suối vàng
Trùng phùng Lý
Bạch nghênh ngang Tản Đà
Em còn ở với
sơn hà
Anh còn mất
hút gần xa mất hoài
[Uống rượu]
Viết về Bùi
Giáng, lòng ta rưng rưng.
Như, cái buổi
sáng đầu tiên thức giấc, sau một khuya khoắt người thân yêu của ta vừa qua đời.
5
Với Bùi Giáng,
Thơ và Sống là một. Ông có bước qua nhiều lĩnh vực chữ nghĩa, biên khảo, dịch
thuật, triết luận, nhưng tựu trung dù quánh đặc hay phiêu bồng, luôn không rời
khỏi cái hồn và phong vận thi ca nơi ông.
Bùi Giáng là
thoát ngoài, một Tâm vô sở trú, nhưng ông không là một người hư vô chủ nghĩa.
Ông ở trong cõi đời thân mật và đầy trách nhiệm, một kẻ dấn thân. Ông xúi giục
một cách nhiệt tình cuộc vào đời, tuy ngôn ngữ trầm tư, ẩn mật:
“Muốn suy tư
đúng lối không thể không lên đường dâu biển mấy cuộc trải qua, giấn mình vào
sinh ra tử, mấy lần đọ mặt với lá cỏ hư không vắng lặng đọan trường”.
Từ tư thế này Bùi
Giáng luôn là một kẻ “Sống thật”, qua cái nhìn trực diện vào hố thẳm địa cầu. Lời
Bùi Giáng:
“Những người
làm văn nghệ hoặc không làm văn nghệ, nhưng có dở sống dở chết trong bi kịch
thời đại đều nghe rõ tiếng kêu của Weil, của Einstein. Khoa học giết người, triết
học giết người. Khoa học giết người, ta nhìn thấy rõ. Triết học giết người, ta
nhìn không thấy rõ… Khoa học đã hồn nhiên gây bóng tối. Nhưng cái ghê tởm nhất
là cái bóng tối từ ở giữa lòng triết học tỏa ra.”
Bùi Giáng là một
nhân phận trọn đời hiến tế cho thi ca. Tận hiến ấy thể hiện một thiên tài rực rỡ
và kỳ vĩ, nhưng ông không trong khoảnh vùng hạn hẹp, trong cái gọi rằng thời thế,
thời cuộc, được định vị qua lịch sử chính trị. Ông là một tự do. Là thể điệu
vĩnh trường, trọn một đời không để mình bị một định chế nào trói buộc.
Cõi thơ Bùi Giáng
rộng tỏa qua mọi thể điệu, mọi nếp gấp nhưng ông không, và chưa hề hô hào cho một
thể chế trị nước đương quyền nào, một chủ nghĩa tư tưởng, ý thức hệ chính trị
nào. Với ông, không phải bận rộn, cực nhọc moi móc, tìm kiếm những hận thù để
hô hào con đường lửa máu cho đấu tranh, giải thoát. Nơi Bùi Giáng là cõi an
nhiên tự tại. Và, thừa trí huệ để hiểu ra sự sa đọa, cuộc đoạn trường điêu linh
như một đương nhiên, chúng ta không hề và chẳng thể rên rỉ mà thoát ra ngoài.
Từ vị trí này, trần
gian chỉ còn là một hí trường – chỉ là nơi chốn bày ra trò vui buồn của tạo
hóa; hay chỉ là một giấc Nam kha – một giấc ngủ trưa ngắn ngủi, thức giấc lúc nồi
kê chưa chín, đã thấy trọn/suốt cuộc hành trình đời mình trong một cơn mơ
thoáng chốc, trong ấy đã thấy ngay mình đưa tang mình; cũng vậy, trong mơ
trần thế, Trang Tử đã thấy mình hóa bướm; hoặc, rất có thể trần gian ấy, là một
“lò cừ nung nấu”, cách nói của Nguyễn Gia Thiều - mỗi phận người được số mệnh
trau chút qua những nỗi đau, buồn thẳm, đọa đày.
6
Có rất nhiều nhận
xét, cho rằng Việt Nam chỉ có hai nhà thơ lớn, Nguyễn Du và Bùi Giáng. Đúng sai
hạ hồi phân giải, nhưng đây không là câu nói qua đường. Dịch giả Bửu Ý có một tập
sách viết về Bùi Giáng, tựa đề, Bùi Giáng truyền nhân của Nguyễn Du.
Cảm hoài về nhân
thế có chỗ giống nhau, thực tế về tự thân giữa hai thiên tài Nguyễn Du và Bùi
Giáng lại rất đổi khác nhau.
Nguyễn Du ra làm
quan dưới triều Vua Gia Long với một nỗi lòng đau. Bậc sĩ phu, kẻ nghĩa liệt
không ai làm bầy tôi, thờ hai vua – Trung thần bất sự nhị quân, một
trung thần không thể làm quan dưới hai vua. Vua cuối cùng của triều trước [tiên
triều] và vị vua đầu của triều kế tiếp. Không kể Vua Quang Trung, triều Lê mới
là tiên triều với dòng họ Nguyễn Du. Thân phụ Nguyễn Du, Nguyễn Nghiễm là đại
thần của Nhà Lê. Nổi đau này là một Đoạn trường, một tiếng thét Tân Thanh, nơi
Nguyễn Du. Nàng Kiều là biểu kiến của nổi trôi, phận bạc.
Bùi Giáng khác
hơn. Không có một tiểu sử bị nắng mưa đời dày xéo như Nguyễn Du.
Bùi Giáng, cõi tự
tại, thong dong rất mực.
Lý Bạch xưa đã từng
uống rượu của triều đình, Đào Tiềm đã lỡ ra làm quan sau mới “Qui khứ lai từ”;
Bùi Giáng không hẳn đã hơn Đào Tiềm, Lý Bạch nhưng ông xuất xử không như thế.
Khuất Nguyên giải
quyết bế tắt qua buông mình xuống dòng Mịch La, Bùi Giáng cũng thấy ra là đời đời,
mãi mãi nơi nao, cũng chỉ là “Địa địa xứ xứ giai Mịch La”- khắp chốn
nơi, đâu cũng là chốn nên nhảy ùm tự vẩn. Nhưng ông thanh thản rong chơi; kịch
liệt đùa rỡn, luôn thông thái đổi mới cách chơi ngày ngày; nguy nga tạo dựng một
nhân sinh quan rộng tỏa trên mọi nẻo đường tư tưởng; mãi tràn lan cuộc vui cùng
nhân gian tháng rộng năm dài.
7
Ghê thật, Bùi
Giáng đỉnh cao. Bùi siêu nhiên viễn mộng. Có thật như rứa không? Giỡn chơi
hoài. Bùi Giáng có những chuyện vui ít ai ngờ. Ngộ là chàng Khờ, anh Ngố, chẳng
sai.
Hai chuyện này
vui.
- Năm 1971, anh
em xúi Bùi Giáng gởi thơ dự thi Giải thưởng Toàn quốc, lấy tiền uống rượu chơi.
Bùi Giáng gom nhặt một mớ, không phải nguyên một tập thơ nào. Nộp. Không được
giải nào, thậm chí giải khuyến khích! Hà Thượng Nhân, một giám khảo phê, ‘Thơ
cà rỡn, thiếu nghiêm túc, khó hiểu”.
- Vào giữa thập
niên 90 thế kỷ trước, trong nước, anh Nguyễn. Đg. Tr. một nhà thơ trẻ, đang chủ
trương một nguyệt san văn chương. Vốn yêu mến và kính trọng những nhà văn nhà
thơ tiền bối, anh có lòng mần một số báo đặc biệt về Bùi Giáng. Anh khéo nói
làm sao Bùi Giáng mê tơi, không những đồng ý, mà còn hăng hái, tự tay viết một
lá thư vui vầy, ký ngay tên Sáu Giáng cuối thư. Lá thư được trình trọng in ngay
trang đầu số báo.
Số báo ra đời, in
khá đẹp. Sáu Giáng vác một cái chuỗi chà đi tìm nhà thơ chủ nhiệm báo.
Trong số báo này,
anh bạn trẻ khá vô ý, đăng những bài viết, kể lễ ba chuyện trà dư tửu hậu không
đáng, những giai thoại về Bùi Giáng, hư cấu, vẽ vời, quá dung tục.
Gặp nhau, quán nhậu
81 đường Trần Quốc Thảo, Sáu Giáng chửi “Thèng tồ lô, đồ bôi boác” [giọng Quảng
Nam, dịch nghĩa, “Thằng tào lao, đồ bôi bác”].
Cô Dung mang ra
ba chai bia, ba cái ly bự. Bùi Giáng bảo Dung, “Không bỏ đóa”. Dung vô tình,
thuận tay bỏ luôn cục nước đá vào ly anh Sáu. Bất ngờ, mặt hầm hầm, Bùi Giáng
thò ngay bàn tay bụi bẩn vào ly móc cục nước đá, nạt “Tổ choa mi tau bổ không bỏ
nước đóa sô mi bỏ”. Dung sợ khiếp đứng yên, chưa kịp phản ứng gì. Chỉ một vài
giây đồng hồ, vẫn cục nước tổ bự trong lòng tay, ông lại nạt Dung, “Tau ném chết
cha mi sô mi còn đứng đó, không chạy đi”.
Bùi Giáng là vậy.
Cơn giận dỗi lơ lửng như cái hoa vàng trên dòng nước nhẹ trôi.
Một trời dâu bể,
một đời thơ. Hai mươi lăm năm qua, vẫn như là ngày vừa qua, “Có phải anh Sáu đó
không?”
Giữa con đường
Nguyên Xuân:
“Xin chào nhau
giữa con đường,
Mùa Xuân phía
trước miên trường phía sau”.
Lão Xá,
Gác đền
Rao, tháng 10 – 2023