Đứng bên ngoài khung cổng sắt đã khóa kỹ, Nghi nép vào hàng
dậu được kết bằng cây dâm bụt, nhìn vào bóng tối yên lặng đang bao trùm cả tu
viện. Đây không phải là lần đầu tiên chú về trễ, và cũng không phải là người
duy nhất về trễ như vậy. Các chú ranh mắt, hoặc vô tình hoặc cố ý, và bằng cách
nào đó, đã làm cho một chấn song của cửa sắt gẫy hết một đầu, chỉ cần kéo nhẹ
qua là lách mình vào lọt. Rồi sau đó nắn lại, cánh cửa sắt vẫn lầm lì như không
hề biết đến những cuộc vi hành ngoài luật lệ thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Sư trưởng
của tu viện không hề hay biết. Ông vẫn tin ở sự cứng chắc của nó, như tin vào sự
hiện diện vừa hữu tình vừa vô tình của mình ngự trị khắp tu viện, giám thị mọi
sinh hoạt của các sư tăng trong một thứ kỷ luật nghiêm khắc mà ông cho là đương
nhiên. Không ai nói cho ông biết gì hết. Mọi người đều chuẩn bị sẵn cho mình những
lối ra vào cần thiết. Cánh cửa lại không bao giờ biết nói.
Nhưng lần đầu tiên Nghi vượt ra ngoài giới nghiêm của tu viện không phải ngang
qua cái cổng bao dung ngầm đó. Chú đi bằng ngõ sau. Đó chỉ là một hàng rào bằng
kẽm gai, không có trồng dâm bụt hay một thứ hoa lá nào, chỉ cần cúi rạp mình xuống,
cẩn thận vén các tà áo, có thể ra vào như không. Phía sau tu viện này là một vườn
rau chạy dọc sát rào của nó. Băng qua vườn rau khoảng hai chục thước là một con
đường đất, rộng vừa đủ cho hai chiếc xe đạp tránh nhau.
Bấy giờ là tháng cuối của mùa nghỉ hè. Sau giờ tĩnh niệm thường lệ mỗi tối,
Nghi ra phía sau tu viện để tiểu, vì chỗ này có nhiều bụi chuối kín đáo. Nhìn
dòng nước lấp lánh dội lên đám cỏ, chú nghe trong người khoan khoái, tâm hồn
như mở rộng. Những luống cải xanh mát của khu vườn trước mắt đẹp hẳn lên. Chú
nghe luồng trăng bạc như sương khuya lấp lánh đang nhảy múa chập chờn trên các
luống cải. Âm hưởng ngọt ngào và quyến rũ. Cây cối im lìm trong một cảnh tượng
thanh bình và trang nhã. Lắng tai nghe kỹ hơn, chú nhận ra âm hưởng đó từ phía
bên kia con đường đất lan truyền đến. Ăn cắp chuối trên bàn Phật, hay lẻn qua
vườn rau nhổ bậy vài bụi cải cho những cuộc kiết tập kín đáo, với bánh tráng mỏng
và nước tương dầm ớt thiệt cay, đó không phải là chuyện hiếm có giữa các chú tiểu.
Mặc dù Nghi chưa lần nào được giao phó công tác hái trộm rau, nhưng lẻn chui
qua bên ấy là một việc hết sức tự nhiên.
Lúc này thì cái âm hưởng quyến rũ kia cũng tự nhiên một cách vô tình khiến chú
rạp người xuống, chui qua hàng rào kẽm gai, băng qua vườn, sang tuốt con đường
đất. Nơi đây chú có thể phân định phương hướng phát ra âm thanh chuẩn xác hơn.
Vào giờ này, không chỉ là con đường vắng vẻ, mà cả một khu vực cũng hoàn toàn vắng
vẻ. Suốt con đường về phía tay trái phỏng chừng đó, duy nhất chỉ có một ngôi
nhà ẩn sau nhiều bóng cây rậm rạp. Chú rẽ phía trái, rõ ràng đang có người chơi
đàn trong đó.
Xuyên qua khung cửa sổ, chú thấy một mái tóc chảy dài, nghiêng nghiêng theo âm
điệu to nhỏ và tiết điệu buông lơi của tiếng đàn. Trên cao một chút, bóng đèn sữa
đục được ủ trong một ánh sáng ấm áp của chính nó. Tiếng đàn đột ngột dừng lại.
Chú ngơ ngác. Nhưng bóng người đã hiện rõ trên khung cửa. Chú muốn bỏ chạy, lại
e là vô lễ, hoặc có thể là bị nghi ngờ. Lỡ người ta sang mách bên chùa, nhất định
chú bị phạt nặng. Hàng xóm cũng hay lên chùa than phiền các chú phá phách, và
các chú có khi bị phạt tập thể.
Đợi một lúc, không thấy người đó động tĩnh gì cả, Nghi dợm chân muốn chạy.
Nhưng tiếng nói từ bên trong vọng ra:
– Ai đó?
Nghi không biết phải trả lời mình là ai. Lại có tiếng hỏi:
– Điệu bên chùa phải không?
Cô này nhất định là người Huế. Giọng nói nghe kiểu cách, nhưng dịu dàng. Nghi
có cảm tình ngay.
– Dạ.
– Chừng ni điệu còn đi mô khuya rứa?
Nghi không trả lời ngay, và không chút ngần ngại, đẩy cánh cổng đi vào.
Cổng chỉ khép hờ.
– Dạ, nghe đàn. Chạy đi coi thử.
Gương mặt chú hiện rõ qua ánh đèn đang hắt ra ngoài. Chỏm tóc lệch qua một bên,
phủ mép trán. Đôi mắt sáng ngây thơ dưới hàng mi dài và cong. Chú đưa tay lên
vuốt chỏm tóc.
– Dạ, thưa cô.
– Điệu chun qua rào hả?
Chú cười. Chớp hai hàng mi tinh nghịch. Nụ cười của trẻ thơ, trong trắng và hồn
nhiên, nhưng quá nhỏ nhoi và khiêm tốn giữa một thế giới đòi hỏi quá nhiều sự
trang nghiêm và kính cẩn. Tuổi thơ hiếm hoi cho một tâm hồn tập sự săn đuổi những
ước mơ ngoài tầm với bắt của con người.
Cô cũng mỉm cười theo chú, đưa tay hất ngược mái tóc về phía sau:
– Điệu vô trong ni đi.
Cô bước sang trái mở cánh cửa. Chú lách mình bước vào. Căn phòng, ngoài cái bàn
nhỏ và một cái kệ sách, chỉ có một vật lạ đối với Nghi là cây đàn kê sát vách
tường nhìn nghiêng ra khung cửa sổ. Chú đi thẳng lại đó, níu hai tay lên thùng
đàn, cúi nhìn chăm chú những phím đen trắng chen nhau sắp thành một hàng thẳng.
Sự thích thú hiện rõ trên đôi mắt. Cô ngồi xuống, trên cái băng ngắn đặt trước
cây đàn và tựa một nửa người lên dãy phím.
– Điệu đi tu chi rứa?
– Dạ. Nghi ở với Thầy.
Chú thừa dịp, đặt cả bàn tay lên phím đàn và ấn xuống. Âm thanh so le nhau cùng
tấu lên. Khi cất tay, chú nghe chúng ngân dài, lẫn vào thùng đàn như đang chìm
sâu vào trong bóng tối hun hút phía sau.
– Điệu thích đàn không?
– Thầy cấm. Mấy Thầy lớn bên chùa lén học, bị Thầy bắt được phạt hoài.
– Mấy Thầy lớn?
– Dạ lớn lắm. Lớn bằng cô.
– Chú tên chi?
– Dạ
Chú nhích người ra, đứng nhìn thẳng xuống phím đàn, nắm chặt bàn tay phải, chĩa
ngón trỏ thọc lên một phím đen. Ngón tay bị trợt sang, thọc luôn xuống phím trắng.
Hai âm thanh nối nhau, to nhỏ không tề chỉnh.
– Điệu muốn học đàn hả?
Tiếng đàn chạy lui vào vách tường, có lẽ vậy. Chú nhón gót chân nhìn.
Nhưng lưng đàn dựa sát vách.
– Thầy la chết.
– Thì cứ chun qua rào như tối ni. Thầy biết mô.
– Đâu được.
Bỗng nhiên chú xoay người lại.
– Thưa cô, Nghi về.
Và chú tự động đến mở cửa, cắm đầu chạy thẳng. Bóng người lại xuất hiện qua
khung cửa sổ. Nhưng chú không quay đầu nhìn lại.
Băng qua vườn cải, rồi lách mình chun qua hàng rào, chú chạy thẳng về phòng.
Trong bóng tối của căn phòng, chợt có tiếng nói:
– Mi chết?
Tiếp theo, có tiếng người lăn trên giường, tiếng vỗ chát và tiếng hô:
– Ê, làm gì kỳ vậy.
Nghi biết đó là giọng của chú Đảm. Còn kia chắc là chú tiểu Mùi. Chỉ có chú này
mới hay ngủ mớ kiểu đó.
Những ngày kế tiếp Nghi hình như quên bẵng vụ chui rào của mình. Chú vẫn đùa giỡn,
vẫn chăm chỉ làm công việc một chú tiểu trong chùa. Bổn phận hành điệu của chú
là châm trà, lau bàn ghế và quét dọn trong phòng của sư trưởng. Không ai biết
tuổi thơ trôi qua như vậy đang ấp ủ sự gì. Sự thành kính khi bưng ấm trà để vào
khay. Sự ngăn nắp khi treo xâu tràng hạt vào tủ kính. Khi sửa lại ngay ngắn một
bình hoa, một cây viết trên bàn, một quyển sách mà sư trưởng đang học dở. Tất cả
những thứ đó không phải là kiểu cách mà người ta có thể nhìn thấy trong đôi mắt
đen láy kia.
Hằng ngày, chú lại phải học về ý nghĩa của sự vô thường, khổ đau và giả tạo
đang đè nặng kiếp người. Mắt chú vẫn trong sáng. Nụ cười vẫn hồn nhiên. Thân tứ
đại giả hợp, như cây bên bờ sông, như cỏ bên bờ giếng. Tất cả đều là mộng tưởng,
thì chắc gì cái vô thường và khổ não kia của kiếp người không là mộng tưởng.
Nhưng chú thích học những thứ đó. Thích nhìn sự giả tạo đó qua những hàng chữ
nhỏ ngay ngắn và chú lại càng thích nắn nót sao cho chúng được ngay ngắn trang
nghiêm như chữ viết của sư trưởng.
Đêm trăng cũng thường quyến rũ chú. Những đêm như thế, chú hay ra phía sau tu
viện, ngồi bó gối thu hình trong bóng cây. Nội cả tu viện này, chỉ có sư trưởng
mới để ý. Vì sư biết rằng, đó là lúc chú đang ngồi khóc một mình. Thỉnh thoảng
bắt gặp, sư dẫn chú về phòng. Căn phòng cho các chú tiểu ngủ chung. Chỉ có bốn
chú, hơn kém nhau vài tuổi. Sát góc phòng là bàn thờ nhỏ. Đó là bàn thờ đặc biệt
sư trưởng lập riêng cho chú. Bây giờ thì các chú nhỏ kia đã ngủ hết. Sư đốt lên
một ngọn nến. Giữa bàn thờ hiện rõ ảnh bán thân của một thiếu phụ, tuổi khoảng
trên ba mươi, gương mặt hao hao giống chú. Sư đốt nhang cắm vào bát và nói rất
nhỏ:
– Má con vẫn ở bên con đó. Con không thấy, nhưng má con thấy. Con đừng khóc như
vậy nữa mà má con buồn. Ngồi đó với má. Lát nữa tắt đèn mà ngủ.
Sư trở ra. Chú ngồi xuống. Nhìn ảnh. Nhìn ngọn nến bập bùng. Một năm có biết
bao lần như vậy. Hằng ngày chú vẫn chăm chỉ học, vẫn hăng say đùa giỡn với
chúng bạn và thỉnh thoảng vẫn thường ngồi khóc một mình. Ngọn nến do đó cũng lần
hồi truyền vào da thịt chú sự nóng cháy kín đáo giữa cảnh khuya tịch mịch trang
nghiêm đầy thành kính đó.
Chú tắt cây nến. Thay vì leo lên giường ngủ, chú bước ra ngoài, đẩy nhẹ cánh cửa
và khép lại. Phía sau tu viện, trăng vẫn sáng. Vườn cải bên kia vẫn im lặng.
Buổi chiều, thầy trị sự sai các chú tiểu chuyển đống ngói ở sân trước ra đây, dự
định lợp lại miếu thờ bà Ngũ Hành. Dạo này, các sư trong chùa hay cãi nhau kịch
liệt. Nhất là thầy trị sự cứ bị phản đối và bị sư trưởng khiển trách hoài. Thầy
cho là các thứ kim, mộc gì đó trong đất tu viện khắc nhau. Thầy nảy ra ý kiến
thờ bà Ngũ Hành để mọi việc êm thắm. Miễu của bà được xây từ lâu rồi, trước khi
có mặt thầy trị sự và có luôn cả trước sư trưởng. Tu viện này vốn là một ngôi
chùa tư được nhường lại cho Giáo Hội, làm chỗ tu học cho các sư trẻ. Nhưng các
sư này đa số lại hay nghịch. Về đây chưa bao lâu, họ đã lật úp bát nhang của bà
và viết vào vách miễu ngay chỗ bà ngự bốn chữ “Bà đã đi rồi”. Trải qua hai đời
sư trưởng và bốn đời trị sự, nay đến thầy trị sự này mới có ý định mời bà về lại.
Nghe thầy trị sự giải thích tại không có bà nên tu viện hay xảy ra những chuyện
tranh chấp tư tưởng, các chú nhỏ lại càng không muốn bà trở lại. Vì các sư nếu
cãi nhau nhiều sẽ bị phạt nhiều, bù vào chỗ họ hay ăn hiếp các chú. Nhất là chú
Đảm và chú Mùi bị thầy trị sự phạt quỳ nhiều nhất, nên muốn thầy bị sư trưởng
quở trách thích đáng. Hai chú nhỏ này rủ Nghi tối nay, đợi khi các sư ngủ hết,
hè nhau ra đái lên đống ngói thật nhiều để bà không dám về. Họ dấu chú Tiểu
Đài, vì chú này được thầy trị sự thương, sợ mách lại.
Sau bữa cơm tối, họ đã chuẩn bị uống nước thật nhiều để đái cho thật nhiều.
Nhưng các sư chưa ngủ mà hai chú đó đã ngủ say hết. Nhớ mật ước, quên cả cơn
khóc vừa rồi, quên má và quên sư trưởng, chú phăng phăng leo lên đống ngói đứng
đái, xoay người tứ phía y hệt như tưới rau. Chú cảm thấy hứng thú vô cùng. Và
chợt nhớ mấy người trước chui qua vườn cải.
Đái xong, chú chạy thẳng về phía hàng rào, chạy suốt sang con đường đất, và chạy
luôn một mạch vào nhà có người đánh đàn hôm nọ. Và chú chợt nhớ mình chưa biết
tên cô.
Ánh sáng còn hắt ra ngoài cửa sổ. Nghi thấy cô đang cúi đầu trên sách, hai tay
vo tròn cây viết, vòng lên đầu quyển. Chú vịn tay leo lên khung cửa sổ.
– Thưa cô.
Cô giật mình, quay phắt người lại. Hai mắt mở to kinh ngạc. Nghi thấy hai con mắt
đó dễ thương hết sức. Không đợi cô trả lời, Nghi hỏi luôn:
– Nghi chưa biết tên cô.
Cô mỉm cười. Nghi thấy cái gì ở cô cũng khác má mình hết. Nhất là nụ cười. Nghi
không nhớ má chú đã cười như thế nào. Thậm chí không nhớ rõ là có cười lần nào
không. Ảnh thờ trong phòng thì không bao giờ cười. Ngày thường, Nghi không hề để
ý xem các cô lên chùa khi nói chuyện với các sư họ cười như thế nào. Các vong
linh thờ sau điện Phật cũng có người cười. Mỗi khi các chú được sai lau ảnh,
chú Đảm thường hay la lên:
– Người chết cũng cười tụi bây ơi.
Chú Mùi lẩn quẩn đâu đó, chạy lại nói:
– Ê ! Coi chừng quả báo chết mi không được cười đa nghen. Quả báo rụng răng hết.
Nụ cười của cô, Nghi thấy cũng dễ thương như đôi mắt của cô.
– Như Khuê. Được chưa? Điệu ni coi rứa mà hoang hè.
Nghi nhảy vào trong. Thất vọng, thất vọng nhìn cây đàn đã bị đậy nắp phím. Chú
nhớ lại tiếng đàn hôm trước. Cô có thể đọc trên mắt chú thấp thoáng sự tìm kiếm,
vì chúng chập chạp lướt trên thùng đàn. Mặt thùng màu nâu bóng loáng, mà mắt
chú thì lúc nào cũng sáng, và bây giờ chúng lại lấp lánh trong sự tìm kiếm mơ hồ.
– Muốn đàn hả?
– Cô đàn chớ Nghi đâu biết đàn.
– Để cô dạy cho, Thầy điệu không biết mô.
Chú nghiêng đầu ra khung cửa. Nghe ngóng. Bên phải là sân cỏ nhỏ, chạy lùi về
phía sau nhà. Góc rào kia là một cây hòe. Trước mắt, rải rác vài khóm hoa mà
Nghi không biết là thứ hoa gì. Như Khuê cũng đến đứng dựa cửa sổ nhìn ra với
chú. Cô nhắc:
– Cô dạy Nghi học đàn
– Học liền hả cô? Thích thiệt. Nghi dở đàn
Quả tình, Nghi đang khoái chí. Chú quay lại với cây đàn. Rảo mắt nhìn quanh, rồi
đặt tay vào hai núm sắt. Khắp cả cây đàn, chỉ có hai cái núm đó là Nghi thấy có
thể nắm được. Nắm và kéo, mảnh gỗ bật lên, nhưng kéo không ra. Phần trên nắp
phím vẫn không động đậy. Chú dở ngược lên, định giật mạnh. Như Khuê chận lại:
– Coi, hư của người
Cô đẩy nhẹ nắp phím thụt vào thùng đàn. Nghi cao hứng. Mười ngón tay bấu luôn cả
vào phím. Chúng thi nhau chạy nhảy tứ tung. Âm thanh rộn rã.
– Bữa ni học chi kịp. Khuya rồi. Bữa khác, Nghi nhớ qua thiệt sớm
– Dạ đâu có được. Giờ đó Nghi phải trả bài cho thầy. Mà qua hoài, thầy biết phạt
chết.
Đêm đã khuya. Mặc dù đây chỉ là một khu ngoại ô cách trung tâm Sài Gòn không mấy
xa, nhưng vào giờ này, có lẽ cả xóm đã ngủ hết. Nhà cửa thưa thớt, cách nhau
vài chục thước. Thêm nhiều cây cối và tàn rộng khiến cho chúng càng thêm biệt lập
và khuất nhau. Chú tiểu ở chùa, quen sự tự nhiên của mình đối với khách thập
phương lai vãng, nên không biết thế nào là thân hay sơ. Biết mặt và biết tên,
chừng đó như đã đủ để trở thành bà con ruột thịt. Nghi lúc nào cũng cao hứng,
Như Khuê tự nhiên thấy mình đã thân thiết với chú vô cùng. Cô muốn hôn lên đôi
mắt thần tiên của chú. Cửa chùa không biết có vĩnh viễn khép kín nổi con người
có cái phong vận như thế. Nhưng chắc cũng có mấy ai có thể nhìn suốt qua đôi mắt
kia mà thấy được bóng dáng của huyễn mộng phù sinh. Cô đâu biết, và chưa bao giờ
thấy sự thành kính của chú và đôi mắt mông lung như khói trầm. Dù vậy, ngay lúc
này, cô thấy rõ hơn ai hết, có lẽ vậy, sự nóng cháy đam mê trong đôi mắt thần
tiên đó. Thế mà cô cũng chưa bao giờ thấy được sự nóng cháy của một ngọn nến lẻ
loi giữa đêm khuya tịch mịch. Cô bỗng thấy trong thâm tâm mình bây giờ y hệt
như một họa sĩ vẽ trúc đã mọc đầy trúc trong bụng. Cô mong cho sự nóng cháy kia
không sớm bị dập tắt dưới những kỷ luật lạnh lùng nơi tu viện. Cô có cảm giác
mười đầu ngón tay của mình đang vuốt nhẹ lên mặt hồ với những lượn sóng nhỏ.
Cô ngồi lại trước cây đàn. Bàn tay trái mở rộng, đầu ngón trái và ngón út cũng ấn
nhẹ lên hai phím đen, ngón trỏ và ngón áp út điểm đều đặn trên các phím đen trắng
bất thường. Nghi chưa bao giờ thấy ở đâu có sự dịu dàng bao la như những ngón
tay đó của cô bây giờ. Chú đưa tay lên vuốt chỏm tóc. Bất chợt, chú cũng xòe rộng
bàn tay trái, đập lên các phím đàn. Như Khuê vừa đàn vừa la:
– Đừng phá. Để người ta đàn cho mà
Nghi rút tay lại. Chạy vòng qua phía tay phải của cô. Nhìn một lúc, chú lại thò
tay phải ra, đập một lượt bốn phím trắng.
– Phá hoài hà. Không đàn nữa.
Chú đứng lui, núp sau lưng cô. Như Khuê đứng dậy. Cô nhìn thấy chú ngơ ngác, thất
vọng.
– Nghi mấy tuổi?
– Mười hai.
– Học ở mô?
– Nghi sắp lên đệ lục. Nghi đi học buổi sáng. Ngoài trường Hồ Ngọc Cẩn đó, cô
biết không?
– Hằng ngày Nghi có hay ra khỏi chùa đi chơi không?
– Cô hỏi nhiều vậy. Nghi mỏi chân rồi.
Chú chống tay, nhảy lên ngồi trên khung cửa sổ.
– Đâu có được. Phải có Thầy dẫn mới được đi. Còn không thì trốn đi như tối nay
đó.
Như Khuê cười. Chú tiểu này quả có lí lắc thật. Cô thích được nắm chỏm tóc của
chú mà vuốt dài xuống, Cô đứng tựa mình lên khung cửa và nhìn lên bầu trời.
Trăng khuya, lác đác vài ngôi sao. Một ngôi sao… xa quá…
– Nghi buồn ngủ chưa.
– Chưa. Nghi thức suốt đêm 30 rạng mùng 1 tết.
– Chi rứa.
– Tại quen. Hồi trước, má Nghi dẫn Nghi tới Thầy, rồi đi đâu mất. Tết năm đó,
nhớ má Nghi không ngủ được.
Mấy tháng sau nghe thầy nói má Nghi chết rồi. Ở đâu không biết. Nghi có bàn thờ
má trong phòng.
Như Khuê nghe cánh tay chú đụng vào người, Cô nhìn lại. Chú đang kéo chỏm tóc
sang một bên.
– Nghi muốn về chưa?
– Chừng nào cô buồn ngủ Nghi về. Thầy chắc tưởng Nghi ngủ trong phòng. Ủa. Nghi
về chớ. Mai mốt cô qua chùa chơi
Chú nhảy ngay xuống đất và chạy thẳng ra cổng. Như Khuê đứng nhìn bóng trắng
khuất ngoài hàng rào bông bụp.
Ngang qua thiền thất, Nghi thấy sư trưởng bắc ghế ngồi nhìn ra phía trước cổng.
Cổng sắt đã khép kín. Con đường kéo dài bất tận. Tiếng đàn buông lơi và chạy suốt,
mất hút ngoài kia. Nghi lén nhìn sau lưng sư trưởng và sư trưởng thì nhìn vào
bóng tối của con đường vì sư biết đó là Piano Sonata 14 với tiến nhịp của
sostenuto, chậm nhưng vĩnh viễn chìm sâu trong bóng tối như những làn sóng nhỏ
ôm bóng trăng mà ngủ vùi trên bến cát.
Cho đến lúc, Nghi cũng biết được rằng, đó là bản Piano Sonata 14…
Tuệ Sỹ