Nhà văn Kim Thúy và cuốn "Ru", ấn bản đầu tiên bằng
tiếng Pháp
Đọc: Ru (1)
(tiếp theo)
***
Má tôi thường giận tôi vì tôi quá hạ mình. Má nói với tôi rằng tôi phải bước ra
khỏi bóng tối, rèn luyện những đặc điểm nổi bật của mình để mọi người có thể
nhìn thấy. Mỗi lần má cố kéo tôi ra khỏi bóng tối, ra khỏi cái bóng của chính
mình, tôi lại chìm trong nước mắt đến mức kiệt sức, cho đến khi má bỏ mặc tôi
trên băng ghế sau, ngủ thiếp đi trong cái nóng như thiêu đốt của Sài Gòn. Tôi
dành nhiều thời gian trên lối xe ra vào nhà người ta hơn là trong phòng khách của
họ. Đôi khi tôi bị đánh thức bởi tiếng trẻ con hồn nhiên chạy vòng quanh xe
hơi, lè lưỡi cười khúc khích. Má nghĩ rằng cơ bắp của tôi sẽ khỏe hơn khi vật lộn.
Dần dà rồi má cũng có thể biến tôi thành phụ nữ, nhưng không bao giờ trở thành
công chúa được.
Giờ đây má hối hận vì đã không nuôi dạy tôi thành công chúa, vì má không phải
là hoàng hậu của con gái mình như cách cậu Hai là vua với các con của cậu. Cậu
Hai duy trì địa vị hoàng gia cho đến khi qua đời, mặc dù cậu chưa bao giờ ký giấy
cho giáo viên, xem học bạ hay rửa tay bẩn cho con mình. Đôi khi tôi và chị họ
may mắn được đi trên chiếc Vespa của cậu tôi, chị đứng trước, tôi ngồi sau. Tôi
và chị Sao Mai đã nhiều lần đợi cậu tới đón dưới gốc cây me trước cổng trường
tiểu học, cho đến khi người lao công khóa cửa cổng sau lưng chúng tôi. Ngay cả
những người bán xoài ngâm, ổi muối ớt và củ đậu ướp lạnh cũng đã rời khỏi chỗ vỉa
hè trước cổng trường; khi tôi và Mai đã lóa mắt vì nắng chiều thì mới thấy cậu
từ xa đi tới, tóc bay bay trong gió, miệng nở nụ cười rực lửa, có một không
hai.
Cậu thường ôm chúng tôi vào lòng và ngay lập tức, chúng tôi không chỉ biến
thành công chúa, mà trong mắt cậu, chúng tôi còn là những cô gái xinh đẹp nhất,
được đánh giá cao nhất. Khoảnh khắc hưng phấn đó chỉ kéo dài đến cuối hành
trình: chẳng mấy chốc cậu sẽ có một người phụ nữ trong vòng tay, mà hiếm khi
cùng một người, họ lần lượt trở thành công chúa trong chốc lát của cậu. Hai
chúng tôi phải đợi cậu trong phòng khách cho đến khi công chúa mới không còn là
công chúa nữa. Mỗi người phụ nữ đó đều hài lòng khi nghĩ rằng mình là người được
chọn, ngay cả khi họ biết rõ họ chỉ là một trong nhiều người.
***
Ba má tôi phê phán rất gay gắt thái độ buông thả của cậu Hai. Đó là lý do tại
sao, dù cậu Hai không hề dặn tôi, tôi cũng không bao giờ nói về những lần chờ đợi
dài đằng đẵng bên ngoài trường học hay những buổi tối trong phòng khách của những
người phụ nữ không quen biết. Nếu tôi vạch trần cậu, cậu sẽ không được phép đón
chúng tôi nữa. Tôi sẽ đánh mất cơ hội làm công chúa, khi thấy nụ hôn của mình
biến thành bông hoa trên má cậu. Ba mươi năm sau, má muốn tôi đặt lên má mình
những nụ hôn biến thành hoa đó. Có lẽ tôi đã trở thành công chúa trong mắt má rồi.
Nhưng tôi chỉ là con gái của má, chỉ là con gái thôi.
Từ Quebec, má tôi gửi tiền cho các con trai của cậu Hai để họ có thể vượt biên
bằng thuyền như chúng tôi đã làm. Sau làn sóng thuyền nhân đầu tiên vào cuối những
năm 1970, việc đưa các cô gái ra biển không còn hợp lý nữa vì chạm trán với cướp
biển đã trở thành điều không thể tránh khỏi, một nghi thức của cuộc hành trình,
một chấn thương không thể tránh khỏi. Vì vậy, chỉ có hai cậu con trai lớn lên
đường chạy trốn. Họ đã bị bắt trong chuyến đi. Cha họ, cậu Hai của tôi, vua của
tôi, đã lên án con mình… Có phải vì sợ hai con bị lạc trên biển hay vì sợ liên
lụy đến mình? Khi nghĩ lại, tôi tự nhắc nhủ mình rằng cậu không thể nói với hai
con rằng cậu chưa bao giờ là ba, mà chỉ là vua của họ mà thôi. Cậu Hai hẳn đã sợ
bị vạch mặt công khai là một kẻ chống Cộng. Cậu chắc chắn sợ quay trở lại quảng
trường, nơi từng thuộc về cậu chỉ một thời gian ngắn trước đó... Nếu lúc đó tôi
được lên tiếng, tôi sẽ bảo cậu đừng lên án con mình. Tôi sẽ nói với cậu rằng
tôi chưa bao giờ để lộ việc cậu đến muộn hoặc đề cập đến hành động hoang đàng của
cậu.
***
Jeanne, nàng tiên tốt bụng của chúng tôi với chiếc áo phông, quần bó màu hồng
và một bông hoa cài trên tóc, đã giải phóng tiếng nói của tôi mà không cần dùng
đến lời nói. Chị nói chuyện với chúng tôi - chín học sinh Việt Nam của mình tại
trường tiểu học Sainte - Famille - bằng âm nhạc, bằng ngón tay, bằng bờ vai. Chị
chỉ cho chúng tôi cách chiếm lĩnh không gian xung quanh mình bằng cách thả lỏng
cánh tay, nâng cằm lên và hít thở sâu. Chị lượn quanh chúng tôi như một nàng
tiên, đôi mắt vuốt ve chúng tôi từng người một. Cái cổ duỗi ra tạo thành một đường
liên tục với vai, với cánh tay, cho đến tận đầu ngón tay. Đôi chân chuyển động
thành những vòng tròn lớn như muốn quét các bức tường, khuấy động không khí. Nhờ
có Jeanne mà tôi đã học được cách giải phóng tiếng nói của mình ra khỏi thanh
quản để có thể chạm đến đôi môi.
***
Tôi đã dùng giọng của mình để đọc cho cậu Hai nghe ngay trước khi cậu mất, ngay
giữa lòng Sài Gòn, một số đoạn hoa tình trong Particules élémentaires của
Houellebecq. Tôi không còn muốn làm công chúa nữa, tôi muốn trở thành thiên thần
của cậu, nhắc cậu nhớ rằng cậu đã nhúng ngón tay của tôi vào kem đánh bông ở
quán cà phê Viennois khi hát Besame, besame mucho…
Thân xác cậu, dù đã nguội lạnh, dù đã cứng đờ, được vây quanh không chỉ bởi những
đứa con, bởi những người vợ - cả cũ lẫn mới - bởi những anh chị em của cậu, mà
còn bởi những người không hề quen biết. Hàng ngàn người đến để thương tiếc cái chết
của cậu. Một số mất người yêu, một số mất người phóng viên thể thao, những người
khác mất một cựu thành viên quốc hội, mất một nhà văn, họa sĩ, tay chơi poker của
mình.
Trong số những người này có một quý ông rõ ràng là nghèo túng. Ông mặc áo sơ mi
có cổ đã ố vàng và quần đen nhàu nhĩ được giữ bằng cái thắt lưng đã cũ. Ông đứng
từ xa, dưới bóng cây phượng trĩu hoa đỏ rực màu lửa, bên cạnh chiếc xe đạp
Trung Quốc lấm lem bùn đất. Ông đã đợi hàng giờ để theo đoàn đưa tang đến nghĩa
địa, nằm ở ngoại ô thành phố, trong khuôn viên của một ngôi chùa Phật giáo. Ở
đó, ông lại đứng sang một bên, im lặng và bất động. Một trong những người dì của
tôi đã đến và hỏi ông ấy tại sao lại phải đạp xe cả quãng đường dài như vậy.
Ông có quen biết cậu tôi không? Ông trả lời rằng ông không quen biết cậu tôi
nhưng chính nhờ những lời nói của cậu mà ông vẫn còn sống, để thức dậy mỗi
sáng. Ông đã mất thần tượng của mình. Tôi thì không. Tôi không mất đi thần tượng
hay đức vua của mình, chỉ mất đi một người bạn đã kể cho tôi nghe những câu
chuyện của mình về phụ nữ, về chính trị, hội họa, sách; và chủ yếu là về sự phù
phiếm, bởi vì cậu tôi chưa già đi trước khi mất. Cậu đã làm ngừng thời gian bằng
cách tiếp tục tận hưởng, để sống đến tận cùng với cái nhẹ tênh của một người
trai trẻ.
Vì vậy, có lẽ má tôi không cần làm nữ hoàng của tôi; chỉ đơn giản làm mẹ tôi là
đã quá nhiều rồi, cho dù những nụ hôn hiếm hoi mà tôi đặt lên má bà cũng kém uy
nghi.
***
Má tôi ghen tị với sự thiếu trách nhiệm của cậu tôi, hay đúng hơn là khả năng của
cậu trong việc đó. Bất chấp bản thân, má cũng ghen tị với địa vị vua và hoàng hậu
của anh trai và các em gái mình. Giống như anh trai má, các em gái má cũng được
con cái thần tượng vì nhiều lý do, người thì xinh đẹp nhất, người thì tài năng
nhất, người thì thông minh nhất… Trong mắt các anh chị em họ tôi, má họ luôn
luôn là số một. Đối với tất cả chúng tôi, kể cả các dì và anh chị em họ tôi, má
tôi chỉ là người đáng sợ. Khi còn là cô gái trẻ, má đã là hiện thân của nhân vật
có quyền uy cao nhất. Má sốt sắng áp đặt vai trò chị gái của mình lên những đứa
em nhỏ, vì bà muốn thoát khỏi người anh lớn của mình, người luôn ngấu nghiến mọi
thứ hiện diện xung quanh.
Vì vậy, má đã đảm nhận nhiệm vụ của người đàn ông trong gia đình, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục, Mẹ Bề trên, Giám đốc điều hành của cả họ. Bà ra quyết định, đưa ra những
hình phạt, trừng trị những kẻ vi phạm, bịt miệng những người chống đối… Ông
tôi, với tư cách là chủ tịch hội đồng quản trị, đã không quan tâm đến các công
việc hàng ngày. Bà tôi một tay nuôi con nhỏ và hồi phục sức khỏe sau nhiều lần
sảy thai. Theo má tôi, cậu Hai là hiện thân của tính ích kỷ, tự cao tự đại. Và
vì thế, má được lập làm người quản lý của cơ quan quyền lực tối cao. Tôi nhớ có
hôm bà tôi còn không dám bảo má mở khóa cửa nhà tắm thả mấy đứa em đang bị phạt
vì đi chơi với cậu Hai mà không được phép của má tôi. Khi còn là một cô gái trẻ,
bà đã thực thi quyền lực của mình - một cách ngây thơ - bằng bàn tay sắt. Sự trả
thù của bà đối với sự thờ ơ bỏ mặc của anh trai mình và cách bọn trẻ tôn sùng cậu
ấy được vạch ra một cách kém cỏi, bởi vì các em tiếp tục chơi trong phòng tắm
và làm điều đó khi không có má. Tất cả niềm vui của tuổi thơ tuột khỏi tay má
trong khi, nhân danh phép tắc, má cấm các em gái mình khiêu vũ.
***
Tuy nhiên, mười năm trở lại đây, má tôi đã khám phá ra niềm vui của khiêu vũ.
Má đã chịu để bạn bè thuyết phục mình rằng điệu tango, cha-cha-cha và paso
doble có thể thay thế các bài tập thể dục, rằng chúng chẳng có gì gợi cảm, quyến
rũ hay say sưa cả. Tuy nhiên, kể từ khi má tham gia lớp học khiêu vũ hàng tuần,
thỉnh thoảng má nói rằng ước gì trước đây mình có thể tách khỏi những ngày tham
gia chiến dịch tranh cử để đến với những bữa tiệc nơi anh trai má, ba tôi và
hàng chục ứng cử viên trẻ tuổi khác vui đùa quanh một bàn tiệc. Ngoài ra, hôm
nay má tìm kiếm bàn tay của ba ở một rạp phim và nụ hôn của ba lên má khi tạo
dáng chụp ảnh.
Má bắt đầu sống, để cho mình được cuốn đi, để làm mới mình ở tuổi năm mươi lăm.
***
Về phần ba tôi, ông không cần phải sáng tạo lại chính mình. Ông là người sống
trong hiện tại, không có tình cảm với quá khứ. Ông tận hưởng từng khoảnh khắc của
hiện tại như thể đó vẫn là khoảng thời gian đẹp nhất và duy nhất, không so
sánh, không cân đo đong đếm. Đó là lý do tại sao ông luôn khơi dậy niềm hạnh
phúc lớn nhất, tuyệt vời nhất, dù là cầm cây lau nhà trên bậc thềm khách sạn
hay ngồi trong chiếc limousine trên đường đến cuộc họp chiến lược với bộ trưởng
của mình.
Tôi được thừa hưởng từ ba tôi cảm giác mãn nguyện thường trực ấy. Tuy nhiên,
ông đã tìm thấy nó ở đâu? Có phải vì ông là đứa con thứ mười? Hay vì ông đã chờ
đợi quá lâu để người cha bị bắt cóc của mình được thả? Trước khi người Pháp rời
Việt Nam, trước khi người Mỹ đến, nông thôn Việt Nam đã bị khủng bố bởi các phe
nhóm côn đồ do nhà cầm quyền Pháp đưa vào để chia cắt đất nước. Việc bán một
cái đinh cho những gia đình giàu có để buộc họ trả tiền chuộc cho những người bị
bắt cóc là một thông lệ. Nếu cái đinh không được mua, nó sẽ được đóng vào dái
tai - hoặc nơi khác - trên nạn nhân bị bắt cóc. Ông tôi cũng chịu một cái đinh
như thế được mua bởi gia đình ông. Khi về đến nhà, ông gửi ngay các con lên
trung tâm thành phố sống với các anh em họ, qua đó đảm bảo an toàn và cơ hội tiếp
cận giáo dục. Từ rất sớm, ba tôi đã học cách sống xa ba má, từ bỏ nhiều nơi chốn,
biết yêu quý hiện tại và buông bỏ mọi ràng buộc với quá khứ.
***
Đó là lý do tại sao ba không bao giờ tò mò muốn biết ngày sinh thực sự của
mình. Ngày chính thức được ghi trên giấy khai sinh của ông tại tòa thị chính ứng
với cái ngày không có bom đạn, không có mìn nổ, không có con tin bị bắt. Các bậc
cha mẹ có thể đã nghĩ rằng sự tồn tại của con cái họ bắt đầu vào ngày đầu tiên
cuộc sống trở lại bình thường, chứ không phải vào giây phút chúng thở hơi thở đầu
tiên.
Tương tự như vậy, ba chưa bao giờ cảm thấy cần phải thăm lại Việt Nam sau khi rời
đi. Hôm nay, những người từ nơi sinh của ba đến thăm thay mặt cho các nhà phát
triển bất động sản, đề nghị ba xin chứng thư cho ngôi nhà của ông nội. Họ nói rằng
mười gia đình giờ đang sống ở đó. Lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy ngôi nhà,
nó đã được sử dụng như một doanh trại bởi những người lính Cộng sản được chuyển
sang làm lính cứu hỏa. Những người lính đó lập gia đình trong một ngôi nhà lớn.
Họ có biết mình đang ở trong một tòa nhà do một kỹ sư tốt nghiệp trường Quốc
gia Cầu đường Pháp danh tiếng xây dựng? Họ có biết ngôi nhà là lời cảm ơn của
ông thúc bá tôi gửi đến ông nội tôi, anh trai mình, người đã gửi ông sang Pháp
học? Họ có biết rằng mười đứa trẻ đã được nuôi dưỡng ở đó nhưng hiện đang sống ở
mười thành phố khác nhau vì đã bị đẩy ra khỏi vòng tay gia đình? Không, họ
không biết gì cả. Họ không thể biết: họ được sinh ra sau khi người Pháp rút lui
và trước khi phần lịch sử đó của Việt Nam được dạy cho họ. Có lẽ họ chưa bao giờ
nhìn thấy khuôn mặt người Mỹ ở gần mà không có ngụy trang, cho đến khi những du
khách đầu tiên đến thị trấn của họ cách đây vài năm. Họ chỉ biết rằng nếu cha
tôi lấy lại ngôi nhà và bán nó cho một nhà đầu tư, họ sẽ nhận được một khoản
tài sản nhỏ, phần thưởng cho việc nhốt ông bà nội tôi trong căn phòng nhỏ nhất
trong ngôi nhà của họ trong những tháng cuối đời.
Có những đêm, những người lính cứu hỏa, say xỉn, bắn xuyên rèm cửa để ông tôi
câm lặng. Nhưng ông đã ngừng nói sau cơn đột quỵ, chuyện đó xảy ra trước cả khi
tôi ra đời. Tôi chưa bao giờ nghe thấy giọng nói của ông.
***
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông nội của tôi ở bất kỳ tư thế nào ngoài nằm ngang,
duỗi người trên chiếc giường đi văng bằng gỗ mun khổng lồ có chân chạm khắc.
Ông luôn mặc bộ đồ ngủ màu trắng tinh tươm không một nếp nhăn. Cô Năm, chị của
cha tôi, người đã từ bỏ hôn nhân để chăm sóc ba má, luôn canh chừng sự sạch sẽ
của ông tôi một cách đầy ám ảnh. Cô sẽ không chịu nổi dù chỉ một vết nhỏ nhặt
nhất hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của sự thiếu chú ý. Đến giờ ăn, một người giúp việc
ngồi sau lưng ông để giữ cho ông thẳng lưng, trong khi cô tôi đút cho ông ăn từng
miếng một. Món ăn yêu thích của ông là cơm với thịt heo quay. Những lát thịt
heo được cắt mịn đến mức giống như được băm nhỏ. Nhưng chúng không được băm quá
nhỏ, mà chỉ được cắt thành những miếng nhỏ hai milimét vuông. Cô trộn chúng với
cơm trắng đựng trong một cái chén màu xanh và trắng có viền bạc quanh miệng để
tránh sứt mẻ. Nếu những cái chén được đưa ra phơi ngoài nắng, người ta có thể
nhìn thấy những phần trong mờ ở chỗ có chạm nổi. Chất lượng của chúng được khẳng
định bởi ánh sáng lấp lánh làm lộ ra sắc xanh lam ở các hoa văn. Những cái chén
nép mình dịu dàng trong tay cô tôi mỗi bữa ăn, mỗi ngày, trong nhiều thập niên.
Cô thường cầm trên tay một cái bánh gạo, mỏng và ấm, thêm vài giọt nước tương
và một miếng bơ Bretel nhỏ nhập từ Pháp đựng trong hộp thiếc màu đỏ có chữ
vàng. Thỉnh thoảng tôi cũng được thưởng thức bánh gạo này khi chúng tôi đến
thăm ông.
Hôm nay, ba tôi làm món này cho các con trai tôi khi được bạn bè từ Pháp về cho
một ít bơ Bretel. Các anh trai tôi chế giễu ba tôi một cách trìu mến vì ông
dùng những từ so sánh nhất thái quá để mô tả thứ bơ đóng hộp đó. Dù vậy, tôi đồng
ý với ông. Tôi yêu mùi hương của bơ này vì nó làm tôi nhớ đến ông nội tôi, người
đã chết với những người lính cứu hỏa.
Tôi cũng thích dùng những cái chén màu xanh có viền bạc để bày món kem cho các
con trai của mình. Đó là những đồ vật duy nhất mà tôi xin từ cô tôi, người đã bị
đuổi ra khỏi nhà sau cái chết của ông bà nội tôi. Cô trở thành một Phật tử, sống
trong một túp lều sau một đồn điền trồng cọ, không có của cải vật chất gì ngoại
trừ cái giường gỗ không nệm, cái quạt gỗ đàn hương và bốn cái chén màu xanh của
cha mình. Cô do dự một thoáng trước khi nghe theo thỉnh cầu của tôi: những cái
chén tượng trưng cho sự gắn bó cuối cùng của cô với bất kỳ mối quan tâm trần tục
nào. Cô mất ngay sau khi tôi đến thăm túp lều ấy, quanh cô là các sư sãi đến từ
một ngôi chùa gần đó.
***
Tôi về Việt Nam làm việc đã ba năm nhưng chưa một lần về thăm quê nội cách Sài
Gòn hai trăm năm mươi cây số. Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi thường nôn mửa suốt
đường đi bất cứ khi nào tôi thực hiện hành trình kéo dài mười hai tiếng đồng hồ
đó, mặc dù má tôi đã đặt gối trên sàn xe để giữ cho tôi nằm yên. Những con đường
bị thủng với những vết nứt sâu. Phiến quân cộng sản gài mìn vào ban đêm và những
người lính thân Mỹ rà phá chúng vào ban ngày. Tuy nhiên, đôi khi một quả mìn
phát nổ. Thế là, chúng tôi phải đợi hàng giờ để những người lính lấp hố mìn và
thu dọn xác người. Một ngày nọ, một người phụ nữ bị xé thành từng mảnh, bao
quanh là những bông bí màu vàng, nằm vương vãi, xác xơ. Chắc là cô ấy đang trên
đường ra chợ để bán rau. Có lẽ họ cũng tìm thấy xác của đứa bé con cô bên vệ đường.
Hay không phải. Có thể, chồng cô đã chết trong rừng trước đó. Cũng có thể, cô ấy
là người phụ nữ đã mất người mình thương yêu bên ngoài ngôi nhà của ông ngoại
tôi, tỉnh trưởng.
Một ngày nọ, khi chúng tôi đang ẩn sâu trong bóng tối của chiếc xe thùng trên
đường đi hái dâu tây hay đậu, má kể cho tôi nghe về một người phụ nữ, một người
làm công nhật, người thường đợi chủ của mình ở chỗ đối diện với nhà của ông ngoại
tôi vào mỗi buổi sáng. Và mỗi sáng người làm vườn của ông tôi mang cho cô ấy một
phần xôi gói trong lá chuối. Mỗi sáng, đứng trên chiếc xe tải chở mình vào rừng
cao su, cô nhìn người làm vườn đi khuất giữa vườn hoa giấy. Một sáng nọ, cô
không còn thấy anh băng qua con đường đất để mang bữa ăn sáng đến cho cô nữa. Rồi
một buổi sáng khác… và một buổi sáng khác nữa. Một đêm nọ, cô ấy đưa cho má tôi
một tờ giấy viết đậm những dấu chấm hỏi, ngoài ra không còn gì khác. Má tôi
không bao giờ gặp lại cô ấy trên chiếc xe tải đầy công nhân. Cô gái trẻ đó
không bao giờ trở lại đồn điền hay vườn hoa giấy. Cô biến mất mà không biết rằng
người làm vườn đã vô vọng xin phép cha mẹ mình để được cưới cô. Không ai nói với
cô ấy rằng ông tôi đã chấp nhận yêu cầu của cha mẹ người làm vườn để gửi anh ấy
đến một thị trấn khác. Không ai nói với cô rằng người làm vườn, tình yêu của
cô, đã buộc phải ra đi, không thể để lại cho cô một lá thư bởi cô không biết chữ,
bởi cô là một thiếu nữ mà lại đi làm cùng với đàn ông, bởi da cô đen thui vì nắng
cháy.
***
Bà Girard cũng có làn da rám nắng như vậy mặc dù bà không làm việc trên ruộng
dâu tây hay ngoài đồn điền. Bà Girard đã thuê má tôi dọn dẹp nhà cửa mà không
biết rằng má chưa bao giờ cầm chổi trước ngày đầu tiên đi làm. Bà Girard là một
phụ nữ có mái tóc vàng kim giống như Marilyn Monroe, với đôi mắt xanh, xanh
lam, ông Girard, người cao, tóc nâu, là chủ nhân đầy tự hào của một chiếc ô tô
kiểu cổ bóng loáng. Ông bà thường mời chúng tôi đến ngôi nhà màu trắng của họ với
bãi cỏ được cắt tỉa hoàn hảo và những khóm hoa bố trí dọc lối vào và trong nhà,
mỗi phòng đều được lót thảm. Họ chính là hiện thân của giấc mơ Mỹ của chúng
tôi.
Con gái của họ đã mời tôi đến các cuộc thi trượt patin của mình. Chị ấy trao lại
cho tôi những chiếc váy đã trở nên quá nhỏ, một trong số đó là chiếc váy suông
bằng vải bông màu xanh lam với những bông hoa nhỏ màu trắng và hai dây buộc
trên vai. Tôi mặc nó vào mùa hè, và cả mùa đông bên ngoài chiếc áo cổ lọ màu trắng.
Trong những mùa đông đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi không biết rằng mọi loại
quần áo đều có mùa của nó, rằng chúng tôi đơn giản không được mặc tất cả những
thứ quần áo mình có. Khi trời lạnh, không còn phân biệt, không biết phân loại y
phục, chúng tôi măc đúp áo này lên áo kia, hết lớp này đến lớp khác, như những
người vô gia cư.
***
Cha tôi đã lần tìm được ông Girard ba mươi năm sau. Ông không còn sống trong
ngôi nhà cũ nữa, vợ ông đã bỏ ông và con gái thì đang đi nghỉ, đang tìm kiếm một
mục đích, một cuộc sống. Khi cha tôi báo cho tôi biết tin này, tôi gần như cảm
thấy có lỗi. Tôi tự hỏi phải chăng chúng tôi đã không hề vô tình đánh cắp giấc
mơ Mỹ của ông Girard bởi vì quá ham muốn giấc mơ đó.
***
Ba mươi năm sau, tôi cũng tìm được người bạn đầu tiên, Johanne. Bạn ấy không nhận
ra tôi, dù qua điện thoại hay gặp trực tiếp, bởi bạn chưa bao giờ nghe tôi nói,
bởi trước đây chúng tôi chưa bao giờ trò chuyện vì biết tôi bị câm điếc. Bạn ấy
không thực sự nhớ mình đã muốn trở thành bác sĩ phẫu thuật, trong khi tôi luôn
trả lời các cố vấn hướng dẫn ở trường trung học rằng tôi thích ngành phẫu thuật,
giống như Johanne vậy.
Các cố vấn hướng dẫn thường gọi tôi lên văn phòng của họ hàng năm vì có một khoảng
cách rõ ràng giữa điểm số của tôi và kết quả kiểm tra IQ của tôi, gần như là
kém cỏi. Làm sao tôi không tìm ra được từ khác loại trong loạt từ “ống tiêm,
dao mổ, hộp sọ, cái khoan” trong khi tôi có thể thuộc lòng một đoạn văn về
Jacques Cartier? Tôi chỉ nắm vững những gì đã được dạy riêng cho tôi, truyền lại
cho tôi, trao tặng cho tôi. Đó là lý do tại sao tôi hiểu từ bác sĩ phẫu thuật
nhưng không hiểu từ cưng hay tiệm tắm nắng hay cưỡi trên lưng ngựa. Tôi có thể
hát quốc ca nhưng không hát được bài “The Chicken Dance” hay bài hát chúc mừng
sinh nhật. Tôi tích lũy kiến thức một cách ngẫu nhiên, giống như con trai Henri
của tôi, nó có thể phát âm poire nhưng không phát âm được maman, bởi vì quá
trình học tập của chúng tôi không điển hình, đầy những đoạn đường vòng vèo và
khúc khuỷu, không có sự tăng dần, không có logic. Tôi cũng đã định hình ước mơ
của mình theo cách tương tự, qua các cuộc gặp gỡ, qua bạn bè và những người
khác.
Đối với nhiều người nhập cư, giấc mơ Mỹ đã trở thành hiện thực. Khoảng ba mươi
năm trước, ở Washington, Quebec, Boston, Rimouski hay Toronto, chúng tôi thường
đi qua toàn bộ những khu phố với những vườn hồng trải rộng, những cây cổ thụ
hàng trăm năm tuổi, những ngôi nhà bằng đá, nhưng những địa chỉ mà chúng tôi
đang tìm kiếm không bao giờ xuất hiện trên một trong những những cánh cửa đó.
Bây giờ, dì Sáu của tôi và chồng dì, dượng Sáu, sống ở một trong những ngôi nhà
đó. Họ đi lại trên khoang hạng nhất và phải dán một tấm biển ở phía sau ghế để
các nữ tiếp viên ngừng mời họ sô cô la và sâm-banh. Ba mươi năm trước, trong trại
tị nạn Mã Lai của chúng tôi, cũng chính dượng Sáu bò còn chậm hơn đứa con gái
tám tháng tuổi vì bị suy dinh dưỡng. Và cũng chính dì Sáu dùng cái kim khâu mà
mình có để may quần áo mà kiếm tiền mua sữa cho con gái. Ba mươi năm trước,
chúng tối sống trong bóng tối cùng nhau, không có điện, không có nước máy,
không có sự riêng tư. Ngày nay, chúng tôi phàn nàn rằng ngôi nhà của dì dượng
quá lớn và đại gia đình của chúng tôi thì quá nhỏ để có thể trải nghiệm cùng một
cường độ các lễ tiệc - kéo dài đến tận bình minh - như khi chúng tôi thường tụ
tập tại nhà của ba má tôi trong những năm đầu tiên ở Bắc Mỹ.
Chúng tôi có 25 người, đôi khi là 30 người, đến Montreal từ Fanwood,
Montpelier, Springfield, Guelph, cùng nhau sống trong một căn hộ nhỏ, ba phòng
ngủ trong suốt kỳ nghỉ Giáng sinh. Bất cứ ai muốn ngủ một mình phải di chuyển
vào bồn tắm. Điều không thể tránh khỏi là những cuộc trò chuyện, những tràng cười
và những cuộc cãi vã diễn ra suốt đêm. Mỗi món quà chúng tôi dành tặng nhau đều
là món quà thật sự, bởi vì nó thể hiện sự hy sinh và nó đáp ứng một nhu cầu, một
mong muốn hay ước mơ. Chúng tôi đã quá quen thuộc với những giấc mơ của những
người gần gũi và thân yêu nhất của mình: những người mà có lúc chúng tôi đã nằm
sát chặt bên nhau nhiều đêm liền. Hồi đó, tất cả chúng tôi đều có những giấc mơ
giống nhau. Trong một thời gian dài, chúng tôi bắt buộc phải có cùng một giấc
mơ, đó là giấc mơ Mỹ.
***
Khi tôi mười lăm tuổi, dì Sáu của tôi, lúc đó đang làm việc trong một nhà máy
chế biến thịt gà, đã đưa cho tôi một hộp trà vuông bằng nhôm có in hình các loại
rượu mạnh của Trung Quốc, cây anh đào và đám mây màu đỏ, vàng và đen. Dì Sáu đã
viết vào mỗi tờ trong mười mảnh giấy, gấp đôi bỏ vào hộp trà, tên một nghề, một
nghiệp, một ước mơ mà dì dành cho tôi: nhà báo, thợ làm tủ, ngoại giao, luật
sư, thiết kế thời trang, tiếp viên hàng không, nhà văn, nhân viên nhân đạo,
giám đốc, chính trị gia. Nhờ món quà đó mà tôi biết được có những nghề khác
ngoài nghề y, và tôi được phép mơ những giấc mơ của chính mình.
***
Tuy nhiên, một khi đã đạt được, giấc mơ Mỹ, nó sẽ không bao giờ rời bỏ chúng
tôi, giống như một bộ phận cấy ghép hay một khối u vậy. Lần đầu tiên tôi đi
giày cao gót, mặc váy thẳng và xách cặp đến một nhà hàng-trường học dành cho trẻ
em kém may mắn ở Hà Nội, người phục vụ bàn trẻ tuổi không hiểu tại sao tôi lại
nói chuyện với em bằng tiếng Việt. Lúc đầu tôi nghĩ em ấy không hiểu giọng miền
nam của tôi. Nhưng, vào cuối bữa ăn, em thẳng thắn nói với tôi rằng tôi béo quá
nên không thể là người Việt Nam được.
Tôi đã dịch lời nhận xét đó cho những người chủ của mình, họ vẫn cười về điều
đó đến tận hôm nay. Sau này tôi mới hiểu rằng em ấy không nói về cân nặng 45 kí
của tôi mà là về giấc mơ Mỹ đã khiến tôi trở nên to hơn, nặng hơn, có trọng lượng
hơn. Giấc mơ Mỹ đó đã mang đến cho tôi tự tin trong giọng nói, quyết tâm trong
hành động, chính xác trong ham muốn, tốc độ trong dáng đi và sức mạnh trong ánh
nhìn của tôi. Giấc mơ Mỹ đó khiến tôi tin rằng mình có thể có mọi thứ, tôi có
thể đi khắp nơi trên chiếc xe có tài xế riêng trong khi ước lượng sức nặng của
quả bí do một người phụ nữ với đôi mắt nhòe đi vì mồ hôi chở trên chiếc xe đạp
rỉ sét; tôi có thể nhảy theo cùng nhịp điệu với những cô gái lắc hông ở quán
bar để làm lóa mắt những người đàn ông có những chiếc túi dày cộp đầy căng đô
la Mỹ; tôi có thể sống trong căn biệt thự hoành tráng của một người nước ngoài
xa xứ và cùng những đứa trẻ chân đất đến ngôi trường nằm ngay bên vỉa hè, nơi
hai con phố giao nhau.
Nhưng người phục vụ trẻ nhắc tôi nhớ rằng tôi không thể có tất cả, rằng tôi
không còn quyền tuyên bố mình là người Việt Nam vì tôi không còn sự mong manh,
sự bấp bênh và nỗi sợ hãi của họ nữa. Và em đã đúng khi nhắc nhở tôi điều đó.
***
Vào khoảng thời gian đó, người chủ của tôi, có trụ sở tại Quebec, đã cắt một
bài báo từ một tờ báo ở Montreal nhắc lại rằng “quốc gia Québéc” là của người
da trắng, rằng đôi mắt xếch của tôi tự động xếp tôi vào một thể loại riêng, dù
Quebec đã cho tôi mơ giấc mơ Mỹ của mình, dù nó đã nâng niu tôi suốt ba mươi
năm trời. Thế thì biết thích ai dây? Không ai cả hay tất cả mọi người? Tôi đã
chọn thích quý ông đến từ Saint - Félicien, người đã yêu cầu tôi bằng tiếng Anh
dành cho anh mình một điệu nhảy. “Hãy theo chàng trai ấy,” anh ấy nói với tôi.
Tôi cũng thích người đạp xe xích lô ở Đà Nẵng đã hỏi tôi được trả bao nhiêu để
đi theo ông chồng “da trắng”. Và tôi thường nghĩ về người đàn bà bán đậu phụ
năm xu một chiếc, ngồi dưới đất trong một góc khuất của một khu chợ ở Hà Nội,
nói với người hàng xóm rằng tôi từ Nhật Bản đến và đang tiến bộ rất nhiều với
tiếng Việt của mình.
Cô ấy đã đúng. Tôi phải học lại tiếng mẹ đẻ, thứ tiếng mà tôi đã từ bỏ quá sớm.
Trong mọi trường hợp, tôi đã không thực sự làm chủ nó hoàn toàn vì đất nước bị
chia đôi khi tôi sinh ra. Tôi đến từ miền Nam, vì vậy tôi chưa bao giờ nghe người
miền Bắc nói cho đến khi tôi trở lại Việt Nam. Cũng như vậy, người miền Bắc
chưa từng nghe tiếng người miền Nam trước ngày thống nhất. Giống như Canada, Việt
Nam có hai nỗi cô đơn của riêng mình. Ngôn ngữ của miền Bắc Việt Nam đã phát
triển phù hợp với hoàn cảnh chính trị, xã hội và kinh tế lúc bấy giờ, với những
từ mô tả cách bắn hạ máy bay bằng khẩu súng máy đặt trên mái nhà, cách sử dụng
bột ngọt để làm cầm máu nhanh hơn, cách phát hiện ra nơi trú ẩn khi còi báo động
vang lên. Trong khi đó, tiêng Việt miền Nam đã tạo ra những từ để diễn tả cảm
giác Coca - Cola sủi bọt trên lưỡi, thuật ngữ gọi tên gián điệp, phiến quân, cảm
tình viên Cộng sản trên đường phố miền Nam, và những cái tên để chỉ những đứa
trẻ sinh ra từ những đêm hoang dã với lính Mỹ.
***
Nhờ lính Mỹ mà dượng Sáu của tôi mới có thể mua được chỗ đi vượt biên cho mình
và vợ, dì Sáu của tôi, và đứa con gái rất nhỏ trên cùng một chiếc thuyền với
chúng tôi. Ba má của người dượng đó trở nên rất giàu có nhờ nước đá. Lính Mỹ
thường mua cả cây dài một mét, rộng và dày hai mươi phân để đặt dưới gầm giường
của họ. Họ cần hạ nhiệt sau nhiều tuần toát mồ hôi vì sợ hãi trong rừng rậm Việt
Nam. Họ cần sự an ủi của con người, nhưng không muốn cảm thấy hơi nóng từ cơ thể
của chính họ hoặc của những người phụ nữ được thuê theo giờ.
Họ cần những làn gió mát của Vermont hoặc Montana. Họ cần sự mát mẻ đó để trong
giây lát họ có thể ngừng nghi ngờ có một quả lựu đạn được giấu trong tay của mọi
đứa trẻ đang chạm vào những sợi lông trên tay họ. Họ cần cái lạnh đó để không đầu
hàng những đôi môi đầy đặn thì thầm vào tai họ những lời yêu thương giả dối, để
xua đi tiếng kêu khóc của những người đồng đội với xác thân tan nát. Họ cần phải
lạnh lùng để bỏ mặc những người phụ nữ đã sinh con với họ mà không bao giờ quay
lại gặp họ, không bao giờ họ để lộ danh tánh của mình.
Hầu hết những đứa con của lính Mỹ trở thành trẻ mồ côi, vô gia cư, bị tẩy chay
không chỉ vì nghề nghiệp của mẹ chúng mà còn vì cha chúng nữa. Chúng là mặt khuất
của cuộc chiến. Ba mươi năm sau khi người lính Mỹ cuối cùng rời đi, Hoa Kỳ đã
quay trở lại Việt Nam thay mặt những người lính của họ để phục hồi những đứa trẻ
chịu thiệt thòi đó. Chính phủ đã cấp cho họ một danh tính hoàn toàn mới để xóa
bỏ danh tính đã bị hoen ố. Một số trẻ em lần đầu tiên có địa chỉ, nơi ở, cuộc sống
đầy đủ. Tuy nhiên, một số không thích nghi được với sự giàu có như thế.
Một lần, khi tôi đang làm phiên dịch cho cảnh sát New York, tôi đã gặp một
trong những đứa trẻ đó, giờ đã trưởng thành. Cô gái không biết chữ, lang thang
trên đường phố Bronx. Cô ấy đến Manhattan trên một chiếc xe buýt từ một nơi mà
cô ấy không thể gọi tên. Cô hy vọng rằng chiếc xe buýt sẽ đưa cô trở lại chiếc
giường làm bằng hộp các tông, ngay bên ngoài bưu điện Sài Gòn. Cô khẳng định
mình là người Việt Nam. Dù cô ấy có nước da ngăm đen, mái tóc dày dợn sóng,
dòng máu châu Phi, những vết sẹo sâu hoắm, cô ấy là người Việt Nam, chỉ người
Việt Nam thôi, cô ấy lặp đi lặp lại không ngừng. Cô ấy cầu xin tôi dịch cho
viên cảnh sát cô mong muốn được trở lại khu rừng rậm của chính mình. Nhưng viên
cảnh sát chỉ có thể thả cô vào khu rừng rậm của Bronx. Giá mà có thể, tôi hẳn
đã yêu cầu cô ấy sà vào người tôi. Giá mà có thể, tôi hẳn đã xóa sạch khỏi thân
thể cô mọi dấu vết mà những bàn tay bẩn thỉu đã để lại. Tôi bằng tuổi cô ấy.
Không, tôi không có quyền nói tôi bằng tuổi cô ấy: tuổi của cô được đo bằng số
lần mắt nổ đom đóm vì bị đánh đập chứ không phải bằng năm, bằng tháng, bằng
ngày.
Nhiều lúc ký ức về người con gái ấy vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi tự hỏi cơ hội sống
sót của cô ấy ở thành phố New York là bao nhiêu. Hoặc nếu cô ấy vẫn còn ở đó.
Liệu viên cảnh sát có nghĩ về cô ấy thường xuyên như tôi không. Có lẽ dượng Sáu
của tôi, người có bằng tiến sĩ thống kê từ Princeton, có thể tính toán được con
số rủi ro và trở ngại mà cô ấy đã phải đối mặt.
Tôi thường yêu cầu người dượng ấy làm phép tính, ngay cả khi dượng chưa bao giờ
tính quãng đường mà mình đã đi mỗi sáng trong suốt một mùa hè để đưa tôi đến lớp
học tiếng Anh, hay số sách dượng mua cho tôi, hay số ước mơ mà dượng và dì đã
khiến tôi mơ ước. Tôi cho phép mình hỏi dượng nhiều điều. Nhưng tôi chưa bao giờ
dám hỏi liệu dượng có thể tính được xác suất sống sót của ông An hay không.
Ông An đến Granby cùng chuyến xe buýt với gia đình chúng tôi. Mùa đông cũng như
mùa hè, ông đứng dựa lưng vào tường, một chân gác lên lan can thấp, ngậm điếu
thuốc lá. Ông là hàng xóm của chúng tôi. Trong một thời gian dài, tôi cứ nghĩ
ông bị câm. Nếu tôi tình cờ gặp ông hôm nay, tôi sẽ nói rằng ông mắc chứng tự kỷ.
Một hôm ông trượt chân do sương mai. Và uỵch một cái, ông bị ngã ngửa. UỴCH!
Ông kêu to “UỴCH!” mấy lần rồi phá lên cười. Tôi quỳ xuống đỡ ông dậy. Ông dựa
vào tôi, nắm tay tôi, nhưng không đứng dậy. Ông đang khóc. Ông cứ khóc, khóc
hoài, rồi bỗng nhiên dừng lại, và xoay mặt tôi về phía bầu trời. Ông hỏi tôi
nhìn thấy màu gì. Màu xanh da trời. Rồi ông giơ ngón tay cái lên và chỉ ngón trỏ
về vào thái dương tôi, hỏi tôi một lần nữa bầu trời có còn xanh không.
Trước đây công việc của ông An là lau sàn nhà máy làm ủng cao su ở Granby, ông
đã từng là một thẩm phán, một giáo sư, một người tốt nghiệp đại học Mỹ, một người
cha và một người tù. Giữa mùi cao su và sức nóng của phòng xử án Sài Gòn, trong
hai năm, ông đã bị buộc tội làm thẩm phán, kết án những người đồng bào Cộng sản.
Trong trại cải tạo, đến lượt ông bị phán xét, mỗi sáng ông phải xếp hàng với
hàng trăm người khác cũng thuộc phe thua cuộc trong cuộc chiến.
Khu trại bao quanh bởi rừng rậm đó là chỗ để tù nhân lui về để tự phê bình và
viết ra bản tự kiểm điểm, tùy theo thành phần chính trị của họ - phản cách mạng;
phản quốc; cộng tác với người Mỹ - và để suy ngẫm về việc chuộc lại lỗi lầm của
họ trong khi chặt cây, trồng ngô, rà phá bom mìn.
Ngày nối tiếp nhau như các mắt xích của một sợi dây xích - mắt đầu buộc chặt
quanh cổ họ, mắt cuối cùng buộc vào tâm trái đất. Một buổi sáng, ông An cảm thấy
sợi xích của mình ngắn lại khi ông bị lôi ra khỏi hàng và bắt quỳ xuống bùn trước
những ánh mắt len lén, sợ hãi, trống rỗng của những người đồng nghiệp cũ, thân
hình họ chỉ còn da bọc xương trong mớ vải rách. Ông bảo tôi rằng khi kim loại
nóng hổi của khẩu súng lục chạm vào thái dương, trong một hành động nổi loạn cuối
cùng, ông đã ngẩng đầu lên nhìn bầu trời. Lần đầu tiên, ông có thể nhìn thấy
các sắc thái của màu xanh da trời, tất cả đều đậm như nhau. Cùng nhau, chúng
khiến ông lóa mắt gần như mù lòa. Cùng lúc đó, ông nghe thấy tiếng cò súng rơi
vào im lặng. Không thanh âm, không tiếng nổ, không máu, chỉ có mồ hôi. Đêm đó,
những sắc thái màu xanh da trời mà ông đã nhìn thấy lúc ban ngày lướt qua mắt
ông như một đoạn phim được chiếu đi chiếu lại.
Ông An đã sống sót. Trời đã cắt đứt xiềng xích cho ông, đã cứu ông, giải thoát
ông, trong khi một số người khác chết ngạt, khô héo trong chốn giam cầm, không
còn cơ hội để đếm những sắc xanh của bầu trời. Sau đó, hàng ngày, ông tự đặt
cho mình nhiệm vụ liệt kê những sắc màu đó - cho những người khác.
***
Ông An đã dạy tôi về sắc thái. Ông Minh thôi thúc tôi viết. Tôi gặp ông Minh
trên chiếc ghế băng bằng nhựa màu đỏ trong một nhà hàng Tàu ở Côte-des-Neiges,
nơi ba tôi làm công việc giao hàng. Tôi làm bài tập về nhà trong khi chờ ba hết
ca. Ông Minh ghi chú cho ba về những đường một chiều, những địa chỉ nhà riêng,
những khách hàng cần tránh. Ông đang chuẩn bị để trở thành một người giao hàng
nghiêm túc và nhiệt tình như hồi ông học văn học Pháp tại Sorbonne. Ông đã được
cứu không phải bởi bầu trời mà bởi viết lách. Ông đã viết một vài cuốn sách
trong thời gian ở trại cải tạo - luôn luôn viết trên một mẩu giấy mà ông có được,
xong trang này tiếp trang khác, hết chương này tới chương khác, một câu chuyện
dài bất tận. Nếu không viết, ông sẽ không nghe thấy tiếng tuyết tan, cây đâm chồi
hay mây trôi trên bầu trời. Ông cũng sẽ không nhìn thấy ngõ cụt của một ý tưởng,
tàn tích của một ngôi sao hay kết cấu của dấu phẩy. Những đêm khi ông ở trong bếp
sơn những con vịt gỗ, ngỗng Canada, vịt trời, vịt cổ xanh, theo cách phối màu
do người chủ khác của ông cung cấp, ông thường đọc cho tôi nghe những từ trong
từ điển cá nhân của mình: chàm đồng tiền, tiếng rên rỉ, âm thanh tứ phương, giờ
lâm tử, ký sinh trùng Sacculina, logarit, xuất huyết - giống như một câu thần
chú, giống như một cuộc diễu hành về phía trống không.
***
Mỗi người chúng tôi đã được cứu vớt theo cách khác nhau trong thời bình hay thời
hậu chiến của Việt Nam. Riêng gia đình tôi được Anh Phi cứu.
Chính Anh Phi, con trai một người bạn của ba má tôi, người đã tìm thấy gói vàng
mà ba tôi đã ném từ ban công tầng ba nhà chúng tôi trong đêm. Hôm trước đó, ba
má tôi bảo tôi kéo sợi dây thừng chạy dọc hành lang nếu có người nào trong số
mười người lính sống trong nhà đi lên tầng của chúng tôi. Ba má đã ngồi hàng giờ
trong phòng tắm để thu dọn những miếng vàng mỏng và những viên kim cương giấu
dưới những viên gạch nhỏ màu hồng và đen. Sau đó, họ bọc chúng cẩn thận trong
nhiều lớp túi giấy màu nâu trước khi ném chúng vào bóng tối. Gói vàng đã hạ
cánh, đúng như dự đoán, vào đống đổ nát của ngôi nhà đã bị phá hủy từng thuộc về
người hàng xóm cũ bên kia đường.
Thời đó, trẻ em phải đi trồng cây để tỏ lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ tinh thần,
Hồ Chí Minh, và chúng cũng phải kiếm những viên gạch còn nguyên vẹn từ chỗ các
đống đổ nát. Do đó, việc tôi đi tìm gói vàng trong đống đổ nát không gây nghi
ngờ gì. Nhưng tôi phải cẩn thận, vì một trong những người lính ở nhà chúng tôi
được giao nhiệm vụ theo dõi chúng tôi đi đâu và đi cùng ai. Biết rằng mình đang
bị theo dõi, tôi lướt qua chỗ đó quá nhanh nên không thể tìm thấy gói vàng,
ngay cả sau lần thử thứ hai. Ba má nhờ Anh Phi tìm giùm. Sau khi lục lọi xong,
anh bỏ đi với một bao đầy gạch. Vài ngày sau, gói vàng miếng được trả lại cho
ba má tôi. Sau đó, ba má đưa nó cho người tổ chức cuộc vượt biển của chúng tôi.
Tất cả các lượng vàng đều nằm trong đó. Trong cái thời bình hỗn loạn này, cái
đói thay thế lý trí, sự bất an lấn át đạo lý là điều bình thường, nhưng điều
ngược lại vẫn đúng một cách hiếm hoi. Anh Phi và má anh là những ngoại lệ đó. Họ
đã trở thành anh hùng của chúng tôi.
***
Nói thật, anh Phi đã là người hùng của tôi từ lâu, trước khi anh ấy đưa hai ký
rưỡi vàng cho ba má tôi, bởi vì mỗi khi tôi đến chơi nhà anh, anh thường ngồi với
tôi trước bậc cửa và làm cho một cái kẹo xuất hiện sau vành tai tôi thay vì giục
tôi chơi với những đứa trẻ khác.
Chuyến đi đầu tiên của tôi một mình, không có ba má bên cạnh, là đến Texas, để
gặp lại Anh Phi và lần này là cho anh ấy một chiếc kẹo. Chúng tôi đang ngồi cạnh
nhau trên sàn nhà tựa lưng vào chiếc giường đơn của anh ấy trong ký túc xá đại
học thì tôi hỏi anh tại sao lại đưa trả gói vàng cho ba má tôi, trong khi người
mẹ góa bụa của anh phải nấu cơm độn với bo bo, miến và bắp để nuôi anh và thêm
ba em trai nữa. Tại sao có hành động trung thực anh hùng đó? Anh vừa cười vừa nói
với tôi và liên tục dùng cái gối đập vào đầu tôi rằng anh ấy muốn ba má tôi có
tiền để trả cho chuyến vượt biên của chúng tôi vì nếu không anh ấy sẽ không có
một cô em gái nhỏ để trêu chọc. Anh ấy vẫn là một anh hùng, một anh hùng thực sự,
bởi vì anh ấy không thể không là anh hùng, bởi vì anh ấy là anh hùng mà không hề
hay biết và không muốn trở thành.
***
Tôi muốn trở thành một nữ anh hùng đối với em gái nhỏ bán thịt lợn nướng bên
ngoài bức tường của ngôi chùa Phật giáo đối diện với văn phòng ở Hà Nội. Em bé
rất ít nói, lúc nào cũng làm việc, mải miết với những lát thịt lợn đang cắt rồi
cho vào hàng chục chiếc bánh mì Pháp mà em đã xẻ dọc đến ba phần tư chiều dài.
Thật khó mà nhìn thấy khuôn mặt của em khi than đã được đốt trong cái thùng kim
loại đen xỉn do dầu mỡ bám tụ nhiều năm, bởi vì đám khói và tro than cứ bao
trùm, khiến em ngạt thở, chảy nước mắt. Người anh rể thì phục vụ khách và rửa
bát đĩa trong hai chậu nước đặt ngay mép vỉa hè, cạnh cái cống lộ thiên. Em bé
chắc khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi, và xinh đẹp tuyệt trần dù đôi mắt mờ
sương và hai má lấm tấm tro và bồ hóng.
Một ngày nọ, tóc em bắt lửa cháy, làm cháy cả một phần chiếc áo sơ mi polyester
trước khi người anh rể kịp đổ nước rửa bát bẩn lên đầu. Người em phủ đầy rau xà
lách, những lát đu đủ xanh, ớt, nước mắm. Tôi đến thăm trước bữa trưa ngày hôm
sau, đề nghị một công việc dọn dẹp văn phòng và gợi ý em đăng ký một lớp học nấu
ăn và học tiếng Anh. Tôi chắc chắn rằng tôi sẽ dành cho em giấc mơ đẹp nhất.
Nhưng em đã từ chối, từ chối tất cả, chỉ bằng một cái lắc đầu. Tôi rời Hà Nội,
bỏ em lại vỉa hè, không thể khiến em hướng ánh mắt về một chân trời không khói
lửa, tôi không thể trở thành anh hùng như Anh Phi, như bao người đã được nhận
diện, nêu danh, được phong anh hùng trên đất nước Việt Nam.
Hòa bình từ họng súng đại bác tất yếu sinh ra hàng trăm, hàng nghìn giai thoại
về các dũng sĩ, về các anh hùng. Trong những năm đầu sau ngày Cộng sản chiến thắng,
sử sách không đủ trang để kể hết các anh hùng, nên phải ghi vào sách toán: đồng
chí Công mỗi ngày bắn rơi hai máy bay, vậy đồng chí ấy bắn hạ được bao nhiêu
chiếc máy bay trong một tuần?
Chúng tôi không còn học đếm với chuối và thơm nữa. Lớp học biến thành một trò
chơi khổng lồ với các hiểm nguy, với những tính toán về những người lính đã chết,
bị thương hoặc bị bắt làm tù binh và những chiến thắng ái quốc, hoành tráng và
đầy màu sắc. Tuy nhiên, màu sắc chỉ được minh họa bằng từ ngữ. Hình ảnh minh họa
thì đơn sắc, giống như con người, có lẽ để ngăn chúng tôi quên đi mặt tối của
thực tế. Tất cả chúng tôi đều phải mặc quần đen và áo tối màu. Nếu không, những
người lính mặc quân phục kaki sẽ đưa chúng tôi đến đồn để thẩm vấn rồi cho đi cải
tạo. Họ cũng bắt những cô gái tô mắt màu xanh. Họ nghĩ rằng những cô gái này phải
có mắt đen, và họ là nạn nhân của bạo lực tư bản chủ nghĩa. Có lẽ vì lý do đó
mà họ đã bỏ màu xanh da trời khỏi lá cờ Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Khi chồng tôi mặc cái áo phông đỏ có hình sao vàng đi trên đường phố Montreal,
người Việt Nam đã quấy rối anh ấy. Sau đó, ba má tôi bắt anh cởi nó ra và thay
bằng một cái áo sơ mi của ba tôi không vừa khổ người của anh. Mặc dù bản thân
tôi không bao giờ có thể mặc một thứ như vậy, nhưng tôi đã không bảo chồng tôi
đừng mua nó vì bản thân tôi đã từng tự hào thắt một chiếc khăn quàng đỏ quanh cổ.
Tôi đã biến biểu tượng thiếu niên Cộng sản đó thành một phần trong tủ quần áo của
mình. Tôi thậm chí còn ghen tị với những người bạn có dòng chữ Cháu ngoan Bác Hồ
thêu màu vàng ở phần hình tam giác nhô ra sau vành cổ áo. Họ là “những đứa con yêu
quý của đảng”, một địa vị mà tôi không bao giờ có thể đạt được vì thành phần
gia đình của mình, mặc dù tôi học đứng đầu lớp hay trồng nhiều cây nhất khi
nghĩ về người cha của hòa bình. Mỗi lớp học, mỗi phòng làm việc, mỗi ngôi nhà đều
phải treo ít nhất một bức ảnh Hồ Chí Minh trên tường. Ảnh của ông thậm chí còn
đánh bật cả những bức ảnh của tổ tiên mà trước đây không ai dám động đến vì rất
linh thiêng. Tổ tiên - dù họ có thể là những tay cờ bạc, bất tài hay bạo lực -
tất cả đều trở nên đáng kính và bất khả xâm phạm một khi họ đã chết, một khi họ
được đặt trên bàn thờ với hương, hoa quả, trà. Bàn thờ phải đủ cao để tổ tiên
nhìn xuống chúng ta. Tất cả con cháu phải mang tổ tiên của họ không phải trong
trái tim của họ mà là trên đầu của họ.
Mới vừa rồi ở Montréal, tôi thấy một bà ngoại Việt Nam hỏi đứa cháu một tuổi:
“Thương Bà để đâu?” Tôi không thể dịch cụm từ đó, chỉ chứa bốn từ, hai trong số
đó là động từ, thương và để. Theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “Yêu bà mang ở
đâu?” Đứa trẻ lấy tay sờ vào đầu. Tôi đã hoàn toàn quên mất cử chỉ đó, điều mà
tôi đã thực hiện hàng nghìn lần khi còn nhỏ. Tôi đã quên rằng tình yêu đến từ
cái đầu chứ không phải trái tim. Trong toàn bộ cơ thể, chỉ có cái đầu là quan
trọng. Chỉ riêng việc chạm vào đầu một người Việt Nam đã xúc phạm không chỉ anh
ta mà cả phả hệ của anh ta. Đó là lý do tại sao một cậu bé Việt Nam tám tuổi
nhút nhát đã trở thành một con hổ dữ khi đồng đội Québéc xoa đầu cậu để chúc mừng
cậu đã bắt được quả bóng đầu tiên.
Nếu một dấu hiệu của tình cảm đôi khi có thể bị coi là một sự xúc phạm, thì có
lẽ cử chỉ yêu thương không có tính phổ quát: nó cũng phải được dịch từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác, phải được học. Trong tiếng Việt, có thể phân loại, định
lượng nghĩa của tình yêu thông qua các từ cụ thể: yêu theo thị hiếu (thích);
yêu mà không phải lòng (thương); yêu say đắm (yêu); yêu ngây ngất (mê); yêu mù
quáng (mù quáng); yêu biết ơn (tình nghĩa). Không thể nói đơn giản yêu là yêu,
yêu mà không có lý trí.
Tôi may mắn vì đã học được cách tận hưởng niềm vui được gối đầu lên tay ba má,
và ba má tôi may mắn vì có thể chiếm được tình yêu của con cái khi các con hôn
lên tóc họ một cách tự nhiên, không hình thức, trong một buổi cù lét trên giường.
Bản thân tôi chỉ chạm vào đầu ba tôi một lần. Ba bảo tôi tựa vào đầu ông khi
tôi bước qua lan can thuyền.
(còn tiếp 1 kỳ)
Kim
Thúy
Nguyễn Quang biên dịch