Đến định cư tại miền Bắc California Hoa Kỳ hơn nửa năm, bỗng
một hôm, tôi nhận được cú điện thoại của Thung từ Texas gọi qua. Thung là bạn học,
cũng là chiến hữu của tôi ngày xưa. Hắn đề nghị gởi vé máy bay mời tôi qua Houston
chơi. Nhân tiện thăm viếng khu vực dễ làm ăn và giá nhà cửa cũng dễ thở hơn nhiều
so với San Jose. Tôi đồng ý. Một tuần lễ sau, một vé máy bay và một cái check
300 Mỹ kim trong bì thư gởi đến. Đây là một món quà khá hậu hỉ ở đất lạ quê người.
Ba ngày sau, tôi lên máy bay của hãng Continental Airlines đi Texas. Bay suốt bốn
tiếng đồng hồ, chiếc Boeing mới hạ cánh xuống phi trường Houston. Thung đón tôi
tại lối ra của khu hành khách. Lần gặp nhau cuối cùng ở quê nhà vào năm 1973, tại
Đại Học CTCT Đà Lạt. Ngày ấy, trông hắn rắn rỏi, khuôn mặt sạm nắng mà hôm nay,
sau mười sáu năm định cư tại Mỹ, hắn hoàn toàn lột xác. Nước da trắng hồng đỏ
au, cái bụng căng tròn, dáng người bệ vệ trông “rất ông chủ”. Mà chủ thực.
Thung làm chủ cái chợ bán đồ biển. Vợ và con quản lý còn Thung lo chạy vòng
ngoài.
Ngày hôm sau Thung đưa tôi đến thăm cơ sở làm ăn của gia đình. Nào phòng mạch nha sĩ của đứa con trai đầu lòng, phòng dịch vụ về bảo hiểm của đứa con gái. Sau đó Thung mời tôi đi ăn trưa.
Nhà hàng có tên Cổ Lũy Restaurant tọa lạc tại khu sầm uất nhất
của người Việt và Hoa tại thành phố Houston. Vào giờ xế trưa, nhà hàng vắng
khách nên chúng tôi chọn chiếc bàn đặt gần quầy thu tiền. Người bồi bàn trao
cho chúng tôi bản thực đơn. Cái tên Cổ Lũy nghe quen thân quá. Tôi nghĩ, có lẽ
chủ nhà hàng là người Quảng Ngãi. Bởi Cổ Lũy là tên một cửa biển từ hai dòng
sông Trà Khúc và Sông Vệ nhập vào. Nơi đây thuyền bè tấp nập ra vào bến tàu Phú
Thọ. Trong tờ thực đơn có món “Hến xúc bánh tráng”. Nhìn thấy hến
mình lại nhớ đến món don. Chẳng cần xem tiếp tờ thực đơn, tôi gọi ngay một tô
don. Cô bồi bàn giọng miền Nam nhìn tôi ngạc nhiên hỏi:
– Don là món gì vậy, nghe lạ quá hỡ ông? Thực đơn nhà hàng
này không có món đó.
Tôi vừa cự nự (kiểu Quảng Ngãi hay co) vừa chỉ cho cô chạy
bàn cái món ruột hến, rồi tiếp:
– Nếu không có don thì cho tôi cái món số 15 này.
Cô gái bồi bàn đi vào bếp. Ngay sau đó, một phụ nữ đứng
tuổi ăn mặc sang trọng từ quầy thu tiền đi thẳng đến bàn chúng tôi. Bà có mái
tóc ngắn làm nổi bật khuôn mặt trái soan đầy đặn với làn da trắng mịn. Thung khều
chân tôi nói nhỏ : “Bà chủ”
– Chào hai anh. Người đàn bà nở nụ cười thân thiện.
– Chào bà chủ, Thung đáp lễ.
– Vị nào thích món don ? bà chủ tươi cười hỏi.
– Thưa bà, tôi ạ.
– Xin lỗi, anh người quê Quảng Ngãi ?
– Tại sao bà biết ?
– Tôi chỉ đoán thôi, bởi vì chỉ có dân sống tại Quảng Ngãi mới
thấy thích thú món don.
– Thế bà cũng là người Quảng Ngãi, đúng không?
– Anh nghĩ sao mà đoán ra thế?
– Chỉ nhìn cái tên hiệu Cổ Lũy của nhà hàng là biết ngay.
– Nầy ông anh, trước kia ở Quảng Ngãi, anh sống ở huyện nào
vậy?
– Tôi ở thị xã, trên đường Quang Trung.
Ngã Tư Chính Quảng Ngãi
Người đàn bà nhìn tôi một chặp lâu rồi quay vào bên trong
nhà hàng. Lát sau, món ăn được bưng ra. Một tô bún chả cá cho Thung và một dĩa
ruột hến xúc bánh tráng cho tôi. Lâu lắm rồi tôi mới nghe lại mùi hến. Hến ở
quê nhà ruột nhỏ, dai và thơm. Còn hến đóng hộp nhập cảng con lớn, mềm lại mất
hết mùi vị. Ngày xưa, mỗi lần đi Huế, tôi nhất định phải ăn cho được một lần
cơm hến. Đi đâu xa trở về Quảng Ngãi, tôi không thể nào quên ăn một bữa don cho
đã cơn ghiền.ORT THIS AD
Cô bồi bàn bưng hai ly nước cam vắt đến bàn chúng tôi
nói của bà chủ mời, có kèm theo một tấm danh thiếp trao cho tôi. Mặt sau danh
thiếp là chữ viết của bà chủ nhà hàng mời riêng tôi đến nhà vào chiều Thứ Bảy.
Đặc biệt, bà khoản đãi món don do bà nấu. Phần dưới là số phone và địa chỉ nhà
riêng. Trên đường về, tôi hỏi Thung:
– Cậu nghĩ sao cái trường hợp lạ lùng này ?
– Ở quê người, nhớ cố hương, gặp người Việt đã mừng rồi huống
chi lại là đồng hương Quảng Ngãi. Bà ấy mời cậu đến nhà có lẽ để hỏi thăm tin tức
bà con ở quê nhà. Cứ nhìn dáng dấp bà ấy với cái cơ ngơi nầy là cậu hiểu ngay
bà ta là dân trụ ở đây khá lâu. Biết đâu cơ may đem đến cho cậu công ăn việc
làm ở thành phố này.
Bạn tôi suy luận như thế. Riêng tôi, vì lạ đất lạ người nên
có phần bồn chồn, áy náy.
Hương vị của món hến xúc bánh tráng làm tôi nhớ đến kỷ niệm
ngày mới lớn nơi quê nhà. Tôi từ trên quê xuống tỉnh học, ở trọ nhà người chị
thứ Tư trên đường Quang Trung Thị xã Quảng Ngãi. Anh chị dành cho tôi căn phòng
trên căn gác lửng. Có ban-công nhô ra làm mái hiên cho tầng dưới. Thông thường
mỗi sáng, tôi thức dậy học bài rất sớm. Đường phố vẫn còn sương mù vướng mắc đó
đây. Hàng cây bên đường trĩu nặng những hạt sương khuya, dấu kín bóng đêm trong
vòm lá sum sê. Khi chân trời vừa rựng đỏ khuất sau hàng tre hướng Đông, là tiếng
rao hàng ăn buổi sáng bắt đầu râm ran trước đường nhựa. Nào xôi, bánh bột lọc,
cháo gà, bánh canh, bánh mì… đủ các loại hàng ăn vặt, và cũng đủ các loại âm
thanh. Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng hơi khàn, giọng Huế, giọng Bắc, giọng Nam…
Duy có tiếng rao: “Ai ăn don ho..o..o.. ông” là khiến tôi để ý. Tiếng
“ho..o..o..ông” sau cùng kéo dài không đủ hơi chứng tỏ người rao hàng không phải
giọng của người đứng tuổi. Tiếng rao nghe lánh lót như chim non mới tập hót, âm
điệu ngây thơ rời rạc. Tôi ngồi học mà vẫn để ý đến tiếng rao bán don vang lên
trước nhà. Tiếng rao như bị sương lạnh buổi sáng sớm làm đông lại không thoát
ra được, nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi hút mất ngoài xa.
Một hôm, tôi đang đứng tập mấy động tác hít thở trên
ban-công, chợt tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” quen thuộc vang lên phía dưới
đường. Tôi vạch bức mành nhìn xuống thấy một người con gái mặc chiếc áo bà ba
trắng thân hình mỏng mảnh với gánh don trên vai.
“Ê don”, tôi gọi cô nàng đứng lại rồi vộï vàng xuống thang
gác.
Gánh don đã được đặt trước hiên nhà, nàng đứng đó chờ tôi mở
cửa.
– Anh ăn don? Nàng hỏi khi tôi nhẹ nhàng lách mình qua cánh
cửa sắt. Là một cô bé ước chừng mười mười bốn, mười lăm. Mái tóc vừa chấm vai
che một bên khuôn mặt trái soan còn măng tơ. Tôi nhìn vào ngực cô bé, đôi nhũ
hoa hồng hồng như hai núm quả cau nhú bên trong làn vải mỏng không áo lót, khiến
cô bé cúi mặt thẹn thùng. Bạn học của tôi, những cô nữ sinh cùng cỡ tuổi đã bắt
đầu chưng diện se sua, áo ngoài áo trong, phần trên phần dưới đủ cả, không khác
chi người lớn. Còn cô bé, với chiếc quần đen, áo bà ba trắng mộc mạc nổi bật
nét đẹp của người con gái chân quê.
– Anh ăn don?
Cô bé nhắc lại lần nữa, tôi sực tỉnh trả lời :
Tôi ăn ngon lành. Miệng hít hà vì ớt cay. Cái lưỡi tê tê mùi
cay nồng của loại ớt xiêm vô cùng hấp dẫn làm cho nước mắt nước mũi tuôn ra.
Nhìn cách ăn rất thật tình của tôi, cô bé cứ che miệng cười. Một tô, hai tô rồi
ba tô. Cô bé trợn trừng đôi mắt, đôi mắt bồ câu đen lay láy. Cô kêu lên :
– Coi chừng bể bụng đó, anh Hai !
Ô, lần đầu tiên tôi được một người con gái gọi bằng anh. Anh
Hai. Mười sáu tuổi, học lớp đệ Tứ rồi đấy nhé. Thế mà cha mẹ, anh chị cứ gọi
tôi là Út Đẹt. Mẹ tôi thường nhắc chuyện hồi tôi còn nhỏ. Đã bốn, năm tuổi rồi
mà vẫn còn bú và ăn cháo. Các bà chị tôi chế nhạo hoài mỗi lần tôi ôm vú mẹ. Chị
Hai tôi hay trách mẹ tôi nhiều nhất :
– Mẹ ơi, mẹ cưng chiều nó quá làm sao nó thành người lớn.
Mẹ tôi cười, nhỏ nhẹ bảo :
– Các chị lớn cả rồi còn em nó út ít mà”.
Chị tôi bực mình bảo:
– Chừng đó tuổi mà chưa chịu dứt sữa. Chẳng lẽ đến khi đi học,
mẹ phải mang vú đến trường cho Út sao?
Chị Hai nói xong bỏ đi. Mẹ vò đầu tôi, tóc còn ướt nhẹp mồ
hôi, âu yếm :
– Giàu út ăn, khó út chịu, Mẹ có sữa con nhờ.
Cái hòn đá bàn dưới bến sông, nơi để giặt áo quần là chỗ ngủ
của tôi trong những buổi trưa hè. Nền nhà lót gạch trước bàn thờ là giường ngủ
của tôi trong những đêm nóng bức. Các chị tôi thường hay đùa cợt:
– Thằng Út cứ ăn chay nằm đất kiểu nầy, lớn lên nó trở thành
thầy chùa là cái chắc.
Tôi là đứa con thứ bảy trong gia đình. Những tá điền, người
làm cho cha mẹ tôi đều gọi tôi là cậu Bảy Út. Thế mà bác Tám Đang ở xóm dưới
dám đặt cho tôi biệt danh “Bảy Thưa” chỉ vì mấy cái răng cửa của tôi mọc hơi
sưa một chút. Cái thân hình của tôi hồi đó mỏng như thân con nhái bén. Da dẻ sần
sùi khô khốc bởi suốt ngày cứ để lưng trần chạy ngoài nắng. Mỗi lần bạn bè rủ
tôi đá banh trên ruộng lúa mới cắt, chúng nó cứ la oang oang cái tên “Bảy Thưa”
nghe chẳng đẹp tý nào ấy:
– Ê, Bảy Thưa đưa banh qua cho tao. Nào, Bảy Thưa banh đây
sút vào…
Tức lắm, tôi bèn ra một điều kiện:
– Nếu bọn bay còn gọi cái tên “Bảy Thưa” nữa là tao bỏ chơi.
Nhóm thằng Thới xóm Thọ Đông đang chiêu dụ tao đó. Liệu hồn!…
– Nầy cô bé, sao không múc tiếp một tô nữa?
– Anh à, em chưa hề thấy người nào ăn đến ba tô don mà còn
kêu thêm nữa, ăn no quá mất ngon, thôi để ngày mai nghe anh,
Tiếng “nghe anh” của cô bé sao mà êm đềm quá, ngọt ngào quá.
Bỗng nhiên tim tôi đập rộn ràng. Tôi muốn hỏi tên cô bé nhưng cứ ngại ngùng,
đành phải móc tiền ra trả. Cô bé đi rồi, tiếng rao “Ai ăn don ho..o..ông” đã
văng vẳng ngoài xa mà tôi vẫn còn đứng nhìn theo thẫn thờ. Sáng hôm sau, cô bé
cất tiếng rao hàng rồi đặt gánh don trước hiên nhà chờ đợi. Tôi lại vội vàng mở
cửa :EPORT THIS AD
– Nầy, đằng ấy tên gì vậy ?
– Em tên Thuyền
Cô bé trả rồi dạn dĩ nhìn tôi hỏi:
-Thế còn tên anh ?”
– Hạo. Hạo, cái tên lạ quá !
Cô bé nhắc lại tên tôi rồi cười bẽn lẽn. Đôi tay Thuyền múc
don lẹ làng, vén khéo không hề rơi rớt. Tôi để ý lần này, cô bé đem theo một
cái tô cỡ lớn hơn, khác hẳn với những cái tô khác chồng trên miệng ui. Cô tự ý
bẻ bánh tráng cho vào tô trước khi đổ don vào. Vừa làm cô bé vừa giải thích :
– Làm thế nầy don còn giữ được độ nóng, và hương don không bị
loãng.
Cô bé trao tô don cho tôi, vô tình tôi đặt bàn tay chạm phải
tay nàng. Bé cúi mặt thẹn thùng khiến hai tai nàng rựng đỏ, Thuyền bảo :
– Mỗi sáng anh ăn hai tô nầy là đủ rồi.
Từ đó, sáng nào tôi cũng ăn don của cô bé Thuyền. Thỉnh thoảng
chị tôi mua ốc don tươi về nấu. Thông thường chị thêm vào nồi don cả thịt bằm,
tóp mỡ, nhưng tôi ăn một cách lơ đãng chẳng thấy hấp dẫn tý nào. Chị tôi chế giễu
:
– Thằng Út nó đâu có mê don, chỉ mê con nhỏ bán don.
Có lần tôi cố tình giữ bàn tay Thuyền bên dưới tô don, cô bé
cứ để nguyên nhìn tôi với ánh mắt long lanh tình tứ.
Chặp lâu sau, nàng rút tay về hối thúc:
– Người ta thấy kìa, ăn đi kẻo nguội.
Thế là suốt mùa don, cô bé Thuyền ít có buổi sáng nào vắng mặt.
Ăn hoài tôi đâm ghiền. Ngày nào Thuyền không đến là suốt ngày đó tôi thấy trống
vắng lạ thường. Tôi nhớ hương vị của don, tôi nhớ khuôn mặt của Thuyền. Suốt ba
tháng hè tôi không về quê lấy cớ học bài thi. Có lẽ nhờ ăn don mà thân thể tôi
đẫy đà. Da dẻ tôi thêm hồng hào trắng mịn. Bà chị tôi phát giác sự “thay da đổi
thịt” của thằng em út. Chị chế nhạo: “Nghèo nghèo, nợ nợ kiếm cô vợ bán
don. Mai sau có chết cũng còn cặp ui”.
Năm đó tôi đậu bằng Trung Hoc Đệ Nhất Cấp, cha mẹ tôi cho
tôi theo người anh họ vào Sài Gòn tiếp tục học. Tôi từ biệt Quảng Ngãi mà nghe
lòng mình buồn tê tái. Tôi ra đi lúc trời chớm Thu, những cơn mưa đầu mùa đã
làm cho nước sông dâng cao. Tôi còn nhớ lời Thuyền dặn: “Khi nào nước sông dâng
cao thì don không còn nữa. Chừng ấy em sẽ không còn dịp gặp anh, chỉ còn biết hẹn
anh vào mùa don tới đầu tháng Hai âm lịch”.
Biết như thế nhưng sáng nào tôi cũng trông tiếng rao của
Thuyền. Tôi mong gặp nàng để nói lời từ biệt. Giờ phút chót ngồi trên xe đò mà
tôi vẫn dõi mắt đợi chờ, hy vọng Thuyền xuất hiện. Khi xe chuyển bánh, mẹ và chị
tôi mắt rưng rưng lệ nắm tay tôi từ giã. Tôi không cầm được xúc động đã òa
khóc. Lần đầu tiên tôi xa mẹ xa chị, xa gia đình cách gần ngàn cây số. Tôi cảm
thấy nỗi cô đơn như đè nặng lên lồng ngực mình. Tôi thương mẹ, thương chị.
Nhưng tình của tôi đối với Thuyền vừa nồng nàn vừa xót xa. Tôi xót thương vì cuộc
sống của nàng quá lam lũ. Tuổi vừa lên ba, cha Thuyền đã tử nạn theo tàu đánh
cá ngoài khơi khi bị cơn bão bất ngờ ập tới. Mồ côi cha, mẹ ở vậy nuôi Thuyền
ăn học hết bậc Tiểu học. Mới chừng ấy tuổi mà phải từ giã ghế nhà trường, lăn lộn
vào trường đời. Mẹ nấu don, Thuyền gánh bán dạo hàng ngày đi về trên mười cây số.PORT
THIS AD
o O o
Vào những ngày sắp nghỉ Hè, tôi nhận được thư của chị
tôi : “…Đầu mùa don năm nầy, con bé bán don trở lại. Sáng nào nó cũng đặt
gánh don trước cửa nhà chị. Lâu lâu nó rao lên “Ai ăn don hông” rồi
đứng đó đợi chờ. Người ta không biết nó đợi chờ ai, nhưng chị, thì chị đoán biết.
Thời gian kéo dài cả tháng trời, chị thấy tội nghiệp nên thỉnh thoảng kêu don của
nó cho cả nhà ăn buổi sáng. Đôi mắt nó thật buồn, cứ lén nhìn sâu vào trong nhà
mà không dám hỏi. Một hôm, cầm lòng không được, chị cho nó biết là em vào Sài
Gòn học đã gần một năm. Sau đó chị không còn thấy con bé bán don trên con đường
nầy nữa…”
Đêm đó tôi nằm mơ nghe thấy tiếng rao: “Ai ăn don
ho..o..ông” như tiếng chim cuốc lẻ đôi khắc khoải gào khan suốt mùa Hè thương
nhớ rồi cuối cùng chết khô theo con trống, chung tình. Thuyền ơi, hãy tha thứ
cho tôi. Những rạo rực tình yêu đầu đời đã làm cho con tim em phải se thắt vì
phân ly.
Rồi thời gian trôi qua, ba năm miệt mài đèn sách đã giúp tôi
quên hình ảnh cô gái bán don ngày nào. Sau khi lấy xong bằng Tú Tài toàn phần,
tôi về thăm Quảng Ngãi. Vào buổị sáng, tôi dậy sớm cùng chị tôi chuẩn bị về quê
thăm cha mẹ. Đang xếp áo quần vào va-li chợt tôi nghe tiếng rao “Ai ăn don
ho..o..ông”. Tôi vội vàng chạy ra ban-công gọi :
– Ê ! Cô bán don.
Tôi nhanh chân xuống thang gác mở cửa. Cô bán don đứng đợi
dưới mái hiên nhà. Thoáng nhìn, tôi tưởng một thiếu phụ nào khác không phải
Thuyền. Nhưng không, làm sao tôi nhầm lẫn được. Âm thanh tiếng rao của Thuyền
như mọc rễ trong ký ức của tôi. Cũng thân hình mảnh khảnh đó nhưng cao hơn và
già dặn hơn. Chính là Thuyền của ba năm về trước.Tôi hỏi:
– Thuyền phải không?
Nàng nhìn tôi đăm đăm, rồi những giọt nước mắt lăn tròn trên
má. Tôi thấy loáng thoáng trên ngực áo nàng vết ố của những giọt sữa đã khô. Đứng
sát vào Thuyền, tôi đặt tay lên vai nàng bảo:
– Em để gánh xuống đây, múc don cho anh ăn nhé.
– Không. Don em đã cuối mùa, gặp luồng nước bạc (nước lụt),
em không bán cho anh đâu.
Nói xong, nàng đưa tay áo quệt nước mắt, trở gánh quay lại
con đường cũ. Tôi đứng nhìn theo nàng mà nghe hồn trĩu nặng. Tôi cố lắng nghe
tiếng rao “ai ăn don ho..o..ông” lần cuối cùng của Thuyền lẫn lộn với tiếng rao
hàng khác nhưng tuyệt nhiên im lặng, chỉ còn sót lại hương don thoảng bay trong
gió.
o O o
Chiều Thứ Bảy, Thung bỏ tôi trước căn nhà số 28… trên đường
White Forge thành phố Sugarland. Căn nhà lầu ở khu mới xây khá đồ sộ. Vách tường
áp gạch màu nâu đỏ trông thật mát mắt. Tôi đứng tần ngần một hồi lâu mới bấm
chuông. Người phụ nữ ở quán Cổ Lũy hôm trước mở cửa, gục đầu chào rồi mời tôi
vào khu phòng khách trang hoàng lộng lẫy. Bộ sô-pha da màu vàng nhạt choán cả một
góc phòng. Chiếc TV cỡ lớn cùng dàn karaoke với hệ thống âm thanh chiếm trọn
góc phòng đối diện. Bà chủ rót trà :
– Mời anh dùng nước, nàng trao tôi tách nước rồi tự giới thiệu:
– Tôi tên là Mary, chồng tôi là người Mỹ đưa tôi sang đây từ
năm 1972. Xa quê mình lâu quá, nay gặp người đồng hương tôi mừng lắm. Và đặc biệt
là dân ở Quảng Ngãi mà lại thích ăn don như anh.
– Bà ở huyện nào ? tôi tò mò hỏi :
– Huyện Tư Nghĩa xã Tư Nguyên.
Bà Mary nhìn tôi định hỏi tiếp điều gì, nhưng bà lại đổi thế
ngồi, xoay người sang hướng khác bưng bình trà rót thêm nước vào tách cho tôi.
Bà nói :
– Thôi, để lát sau mình nói chuyện tiếp, giờ mời anh dùng
món ăn quê nhà kẻo nguội mất.
Tôi theo nàng đến phòng ăn. Mùi don từ trên bếp bốc hơi thơm
lừng. Bà chủ nhà bưng hai tô don hơi lên nghi ngút đặt trên bàn có cả bánh
tráng nướng, đĩa ớt xiêm và lá hành xắt nhỏ.
Bà tươi cười bảo :
– Đây là don chính hiệu từ Quảng Ngãi đấy nhé. Người ở ngoài
tỉnh cứ hiểu lầm don là hến. Thực ra don và hến là hai loại ốc khác nhau. Ốc
don dài, vỏ mỏng, ruột don có tua màu hồng thoạt trông như cái đuôi. Nước don
ngọt và ít nồng hơn hến vì don chỉ sống nơi vùng sông nước lợ gần cửa biển.
Tôi bưng tô don ăn ngon lành, ăn thật tình. Ớt cay, don
nóng, tôi hít hà, nước mắt nước mũi chảy ra. Bà chủ nhà đưa tissues cho tôi với
ánh mắt đầy xúc động. Một tô rồi hai tô, bà ngồi nhìn tôi ăn và khuyến khích
thêm tô nữa nhưng tôi vỗ bụng lắc đầu từ chối. Nàng bảo :
– Anh sợ vỡ bụng đấy à?
Câu nói của bà chủ khiến tôi sực nhớ đến Thuyền, cô gái bán
don thời tôi còn trung học ở Quảng Ngãi. Cô bé đã từ chối bán cho tôi tô thứ tư
với câu : “Coi chừng bể bụng”. Tôi ngước nhìn bà Mary, tâm sự:
– Ăn don hôm nay khiến tôi nhớ đến kỷ niệm thời niên thiếu ở
quê nhà. Tôi là khách ăn thường xuyên của cô gái bán don tên Thuyền. Tôi thương
nàng và tội nghiệp hoàn cảnh cô ấy. Mới mười mấy tuổi đầu đã phải bỏ học thay Mẹ
đi bán don dạo. Buổi sáng nào Thuyền cũng gánh don đến trước nhà tôi trọ học và
chăm sóc tô don cho tôi như người chị lo cho em. Sau nầy tôi vào Sài Gòn học đã
quên bẵng cô bé bán don. Ba năm sau trở về Quảng Ngãi, tôi tình cờ gặp lại nàng
cũng với gánh don trên vai, nhưng cô bé đã trở thành thiếu phụ. Thuyền đã từ chối
không bán don cho tôi còn bảo…
Vừa nói đến đây, chợt bà Mary cướp lời tôi, lên tiếng
:
– Em không bán cho anh đâu, don em cuối mùa lại gặp
luồng nước bạc!
Bà chủ nhà đã nói lên nguyên văn câu nói của Thuyền ngày
xưa, ẩn chứa sự trách móc giận hờn, khiến tôi giật mình sửng sốt. Tôi nhìn vào
mắt bà Mary, hình như long lanh ánh nước. Tôi kêu lên:
– Thuyền phải không?
Thuyền ngày xưa không trả lời câu hỏi của tôi chỉ đưa tay áo
lau dòng lệ. Mary bây giờ với giọng ngậm ngùi:
– Vâng, em là Thuyền của 37 năm về trước. Em đã nhận
ra anh ngay khi anh cho biết chỗ ở trước kia là đường Quang Trung. Đó là con đường
dạt dào hạnh phúc trên mỗi bước đi của em hồi đó, mà cũng là con đường mang đầy
xót xa thương nhớ ngày anh rời xa.
Thuyền đứng dậy đến ôm vai tôi :
– Cảm ơn anh đã cho em một tình cảm trân quý, dù là đối với
một cô gái bán don nghèo hèn. Suốt quảng đời đen tối về sau này, tình anh là ngọn
đèn thắp sáng cho em trong những đêm mịt mù sương tuyết. Hạo ơi – cái tên nghe
lạ quá – ngày đó em đã nói với anh như thế. Nhưng sau nầy mỗi khi gặp những đau
khổ chất chồng, chính cái tên Hạo trở nên thân thương sưởi ấm lòng em.
Tôi nắm lấy tay nàng, nói như một triết gia:
– Đời như một dòng sông, chuyển đổi không ngừng. Xưa kia
Thuyền là cô gái bán don, ngày nay Mary là chủ một nhà hàng lớn nhất nhì ở đây.
Chúc mừng em. Chúc mừng người đồng hương Quảng Ngãi đã nắm bắt được cơ hội vươn
lên trên xứ người.
Sau buổi hàn huyên, Thuyền đưa tôi ra tận xe khi bạn tôi đến
đón. Lên xe rồi, tôi thấy nàng còn quyến luyến nhìn theo, đưa mấy đầu ngón tay
áp vào môi hôn. Tôi hít một hơi thật sâu vào lồng ngực, chợt nghe hương don còn
nồng trong hơi thở.