Năm 2024 là năm đánh dấu 70 năm ngày đất nước chia đôi
(1954-2024), dòng sông Bến Hải đã làm biên giới giữa hai miền. Miền Bắc thuộc về
Cộng Sản, miền Nam là vùng Quốc Gia tự do.
Năm đó, tôi 18 tuổi cùng với gia đình theo gần một triệu người
bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Chuyện của tôi gần giống như hai bài nhạc mà mọi người
thường hát, là bài “Nỗi Lòng Người Đi” của Anh Bằng và bài “Gửi Người
Em Gái” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh.
Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều…
Tôi cũng có một cô hàng xóm mười sáu tuổi, trước khi đi vào
Nam, cô gửi cho tôi một lá thư và kèm theo một tấm hình. Có một điều trái ngược
với hai bài hát trên là cả hai chúng tôi không ai ở lại Hà nội cả. Chúng tôi
tìm gặp lại được nhau ở Saigon, nhưng mối tình học trò của một thời lãng mạn
như bong bóng mùa mưa tan lúc nào không hay.
*
Nhớ lại thời gian mới vào Nam, cha tôi được chuyển ra làm việc
ở Đà Nẵng, cả gia đình phải đi theo trừ tôi ở lại Sài Gòn vì muốn tiếp tục theo
học trường Chu văn An. Trong những ngày đầu, chưa có chỗ trọ, tôi đạp xe đến trại
học sinh di cư Phú Thọ, nhưng trại đã đóng cửa, nhìn vào ngổn ngang rác rưởi.
Tôi tìm đến Nhà hát Lớn thành phố, lúc đó vẫn còn một số người di cư vào muộn
nên chưa giải tỏa. Tôi đang đứng lớ ngớ ở đại sảnh, thì gặp một anh bạn lễ mễ
khuân hành lý đi xuống. Sau khi biết tôi đang cần nơi trú ngụ, anh bèn dẫn tôi
lên đến khúc ngoặt của cầu thang tầng thứ ba, bảo tôi cứ dọn đến chiếm chỗ của
anh vì anh đã có một nơi ở bên ngoài rồi. Anh giục tôi về dọn đến ngay. Hành
trang của tôi chẳng có bao nhiêu. Tôi may mắn có một cái xe đạp để di chuyển, một
vali nhỏ đựng quần áo, một ít vật dụng và một giường xếp kiểu nhà binh.
Mỗi lần đi học về, tôi thường nằm một mình, qua khung kính vỡ
nhìn xuống những cảnh sinh hoạt dưới đường. Từ đó tôi thấy được cái công viên,
mà sau này được dựng tượng một người lính Thủy Quân Lục Chiến cầm súng xung
phong. Tôi nhìn thấy cái bồn phun nước mà xe cộ chạy quanh suốt ngày, nhìn dọc
theo phố Bonard, xa xa là bùng binh chợ Bến Thành. Trước mặt Nhà hát Lớn là phố
Catinat, một khu phố Tây có nhiều người ngoại quốc áo quần sang trọng qua lại.
Những người thợ chụp hình photostop trên công viên thường bất ngờ nhắm chụp những
khách qua lại, sau đó dụ họ mua hình.
Tôi thấy một người đàn ông giữ xe hơi, cứ mỗi lần có xe nào
đến đậu trước Nhà hát Lớn, là ông ta cầm chổi lông gà lăng xăng chạy đến, mở cửa
xe và lấy chổi quơ bụi quanh xe. Sau đó ông ta chờ đóng cửa, rồi cúi rạp người
nói với họ những câu tiếng Tây gì tôi không được rõ. Lúc chủ xe trở lại, ông ta
lập lại những động tác cũ, và cung kính đứng chờ để nhận tiền. Ngày nào tôi
cũng nhìn cái hoạt cảnh kiếm tiền của ông ta, quá dễ dàng, mà chẳng phải trả một
đồng thuế nào cho bãi đậu xe của thành phố.
Nhà hàng Givral ở ngay góc đường, mỗi lần tôi đi xuống phố đều
nhìn vào thấy quá xa lạ với mình, mà mãi bốn, năm năm sau tôi mới có dịp vào ngồi
uống cà phê như họ.
Hồi đó, mỗi buổi sáng vào khoảng tám giờ, một xe lambretta
ba bánh của sở Thông Tin đến đậu trước Nhà hát Lớn, mở loa phóng thanh vang suốt
khu phố những bản tin và những bài bình luận. Xen kẽ là ba bài nhạc mà tôi nhớ
mãi. Bài “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương gợi lại bao nhiêu kỷ niệm vể
thành phố mà mình vừa rời bỏ, bài “Ngày Trở Về” của Phạm Duy thấm cái nỗi
buồn của người thương binh sau mười năm chiến tranh lê bước trở về làng xưa và
bài “Về Miền Nam”, tôi nhớ là của Trọng Khương với biết bao hùng khí của
cả triệu người theo gót người xưa Nam tiến đi làm lịch sử.
Một hôm đang nằm nhìn ra ngoài qua khung kính vỡ, tôi chợt
thấy một cậu bé lặng lẽ đến ngồi cạnh tôi và cùng nhìn xuống đường. Sau một hồi
trò chuyện, tôi theo em lên thăm gia đình em ngụ trên lầu ba. Họ là những người
trong các làng đạo từ vùng Thanh Hóa khi hiệp định đình chiến Genève được ký kết,
họ tìm cách ra Hải Phòng để được di chuyển vào Nam. Cộng Sản đã cố ngăn cản bằng
đủ mọi cách, mãi sau họ mới thoát được và nhờ chuyến tầu há mồm cuối cùng tới
được bến bờ tự do. Bố của em là một ông giáo làng. Có nhiều ngày, tôi đạp xe chở
em lang thang đi thăm khắp phố phường. Thỉnh thoảng, bố mẹ em mời tôi cùng ăn
những bữa cơm di cư thanh đạm. Ít tháng sau, em cho tôi biết gia đình em và các
người cùng làng sắp đi định cư ở một vùng xa. Tôi lên từ giã họ. Thấy con có vẻ
quyến luyến tôi, bố em mời tôi cùng đi với họ. Nhân có dịp lễ Giáng Sinh, tôi
nhận lời. Tối hôm sau, có xe đến đón và chở chúng tôi đến tập trung tại đình
Phú Nhuận để sáng sớm sẽ khởi hành đến chỗ định cư.
Đoàn xe vận tải hơn chục chiếc nối đuôi nhau, xe nào cũng chở
đầy dân di cư, thực phẩm và các dụng cụ phá rừng làm rẫy. Khi ra khỏi thành phố,
tôi không định hướng được họ sẽ đi về đâu.Tôi cũng không muốn hỏi, tìm chỗ nằm
dựa vào đống hành lý, nhìn núi rừng chạy lùi đằng sau. Xe chạy suốt ngày đến gần
tối, dừng lại giữa đường lộ, hai bên là rừng, phía trước phía sau cũng chỉ thấy
rừng. Mọi người khuân hành lý xuống xe, mệt mỏi đứng ngẩn ngơ, sau đó theo người
hướng dẫn lội bộ đến một khu nhà sàn của người Thượng, mở lương khô ra ăn và tối
đó ngủ trong căn nhà dài của họ.
Sáng sau, trong làn sương lạnh của núi rừng, tôi thức giấc
đã thấy mọi người tụ tập ở bên ngoài. Một số đàn ông nai nịt sẵn sàng và mang
theo dao rừng. Tôi bước ra nhập vào với họ và theo chân một vị linh mục dẫn đầu.
Đoàn người băng qua đường, dẫm trên cỏ ướt. Những người đi trước vung dao, phạt
lối làm quang đường để các người sau tiến lên. Băng một quãng rừng, cả
đoàn dừng lại bên một dòng suối. Tôi còn nhớ rõ hình ảnh lúc đó. Mọi người đứng
yên lặng, có một cái gì rưng rưng thật là thiêng liêng của giây phút khởi đầu.
Vị linh mục tìm một tảng đá cao bước lên đứng trước mọi người. Bên dưới, nước
suối chẩy ào ào trắng xóa sau những tảng đá.
Họ bắt đầu đọc kinh, kinh “Kính Mừng” và kinh “Lạy Cha”. Tôi
cũng cùng đọc với họ. Lời kinh của chúng tôi âm vang trong khu rừng nguyên thủy
còn đọng sương sớm. Hai bài kinh này tôi đã thuộc lòng trong những năm đầu tản
cư 1946 chạy giặc Pháp ở các làng đạo vùng trung du Bắc Việt. Lúc đó tôi
học trường đạo ở nhà thờ, ngủ chung với đám trẻ trong nhà mà gia đình tôi đang
tạm trú. Sáng nào cũng bị đánh thức dậy từ sáng sớm cùng các người lớn đọc
kinh, giọng còn ngái ngủ. Tối đến, tôi cũng cùng họ đọc kinh trước khi đi ngủ.
Thành thử dù không phải là con chiên, tôi đã thuộc nằm lòng hai bài kinh nói
trên từ thuở ấu thời. Sau đó là bài giảng của vị linh mục mà tôi còn nhớ một đoạn:
“ÔngMoses lúc đi lánh nạn đem theo đoàn giáo dân đã tìm đến một dòng suối
trong một khu rừng để định cư. Những ngày qua chúng ta cũng đã đi lánh nạn vượt
qua hàng ngàn cây số và hôm nay đến được nơi đây, trong khu rừng này, bên cạnh
dòng suối như xưa Moses đã đến. Chúng ta sẽ đốn cây làm nhà, phá rừng phá rẫy để
trồng trọt như người xưa. Đây là miền đất hứa của chúng ta và của các con cháu
chúng ta sau này…”.
Đêm Giáng Sinh, mọi người quây quần quanh ngọn lửa ngoài trời,
cạnh đó là hình một cái hang được dựng lên một cách đơn sơ với hình ảnh chúa
Hài Đồng nằm trong máng lừa. Trời lạnh, bóng tối mênh mông, giữa cái tĩnh lặng
âm u của núi rừng, bụi lửa hồng theo gió cuốn lên cao. Hình như trên có một vị
sao đang dổi ngôi, háo hiệu một tin mừng. Qua ngọn lửa đang rực cháy, tôi nhìn
thấy những nét phong ba vẫn còn trên khuôn mặt của họ. Họ bắt đầu đọc kinh, vẫn
những bài kinh muôn thuở, sau đó họ cất tiếng ca, không phải là bài thánh ca,
cũng không phải là bài nhạc Giáng sinh mà là một bài ca tôi đã nghe nhiều lần
trong các buổi lễ được tổ chức theo kiểu dã chiến mà một số nhỏ giáo dân tụ họp
trong sân vận động đường Phan Đình Phùng, Saigon những ngày đầu chưa có nhà thờ.
Tiếng ca cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho cả một dân tộc đang trong nỗi trầm
luân:
Mẹ hãy ra tay ban phước bình an
Để Việt Nam qua hết nguy nàn”.
Những năm đó hình như không có hay rất ít các bài thánh ca
hay nhạc Giáng Sinh bằng tiếng Việt được hát. Năm Đệ Nhất trường Chu văn An tôi
mới học được bài thánh ca đầu tiên do Linh mục Vị, giáo sư Anh ngữ dậy, cha dậy
bản “Silent night” nhưng bằng Anh ngữ. Tôi cũng không rõ bài ca này được
Nhạc sĩ Hùng Lân chuyển dịch sang tiếng Việt năm nào. Lời dịch phá cách quá tuyệt
vời khác xa với nguyên bản và những lời ca tiếng Việt của các nhạc sĩ khác .
Ngay từ hai câu đầu, “Silent night”, đêm yên lặng ba âm thành bốn âm “Đêm
Thánh vô cùng”, vừa cảm thấu được cái thiêng liêng vừa thấy cả một sự cao rộng
vô cùng tận. Ngay cả câu sau cũng thế, “Holy night” thành “Giây phút
tưng bừng”.
Nhạc sĩ Hùng Lân là thầy dậy nhạc lớp tôi những năm đầu bậc
trung học ở trường Chu văn An, Hà nội. Thầy đã làm những bản nhạc nổi tiếng đi
vào lịch sử từ những năm 1945-46. Tôi có được một căn bản âm nhạc nhờ cách dậy
và những bộ sách âm nhạc giáo khoa của thầy, nên hồi đó tôi có thể xử dụng được
các nhạc cụ giản dị như Banjo, Mandoline và Hạ-uy-di khá nhuyễn.
*
Tôi ở lại với họ thêm ít ngày nữa, theo họ vào rừng phạt cỏ
làm lối đi, đốn cây dựng những căn lều tạm cho tới khi có chuyến xe lên tiếp tế,
tôi từ biệt họ trở lại Sài Gòn. Cậu bé tiễn tôi ra tận xe. Khi xe chạy xa tôi vẫn
thấy em đứng lặng nhìn theo cho đến khi xe lái quặt khuất vào một quãng đường rừng.
Từ đó tôi không được tin của họ, tôi chỉ có thể đoán ra nơi
họ định cư là trên quốc lộ đi Đà Lạt, chắc là vùng Blao.
Tôi trở lại chỗ cầu thang lầu ba của Nhà hát Lớn, xung quanh
đã vắng lặng, nhiều gia đình đã đi dịnh cư ở các nơi khác. Tôi nằm một
mình trên ghế bố mỗi khi đi học về, bâng khuâng nhìn xuống đường. Vẫn mấy người
thợ chụp hình photostop kiên nhẫn đứng đưa những tấm hình mời khách, vẫn người
giữ xe lăng xăng chạy từ xe nọ tới xe kia, vẫn những khách ngoại quốc ra vào
quán cà phê Givral góc phố… Nghĩ đến những ngày vừa qua, nghĩ đến những người
mình đã chia sẻ một phần lịch sử với họ, tự nhiên thấy lòng buồn vô hạn, nghĩ rằng
chắc mình sẽ không bao giờ còn có dịp được gặp lại họ nữa.
Chẳng bao lâu, Nhà hát Lớn đóng cửa không nhận người tị nạn
nữa.