Trong một căn hộ nhỏ của Đại học Texas trước đêm Giáng sinh
năm 1975 hai người bạn ngồi đối diện nhau. Họ ngồi yên trong bóng tối, không
nói một lời nào, đắm chìm trong tư tưởng, hay quá sốc, quá buồn không thể nghĩ
ngợi được gì. Tiên đoán thời tiết nói sẽ có cơn lạnh lớn đang tràn xuống miền
nam và sẽ có tuyết tối nay hay vào lễ Giáng sinh ngày mai. Bên ngoài những bông
tuyết bắt đầu rơi nhẹ trên mái của khu chung cư và trên những cành cây liễu
trong khu xe đậu. Đó là Giáng sinh trắng đầu tiên ở Austin kể từ lúc họ đến học
ở đây. Trong căn hộ rất lạnh vì hai người run lên mặc dù lò sưởi ga chạy không
ngừng.
Trước khi dọn đi Arizona, Bình không tiết lộ gì với tôi về
Phượng, không bảo tôi chàng ăn trưa với Phượng trước khi nàng rời Austin. “Anh
biết không,” Bình vẫn nói bằng một giọng nhẹ, xa vắng, hầu như không nghe được.
“Tôi xem cô ấy như em gái tôi. Tôi không thể phản bội Nhung. Nàng là vợ tôi.
Tôi không muốn phạm tội. Trong cuốn nhật ký Phượng cũng nói không thể, không muốn
vượt qua giới hạn ấy bởi vì cô ấy là người Công giáo và bởi vì cô kính trọng
tôi, không có ý muốn đặt tôi vào tình trạng khó xử,” Bình ngừng kể. “Nhưng
đó là tinh yêu,” tôi buột miệng. “Hy sinh cho người mình yêu là một cách
biểu lộ tình yêu của mình đối với người ấy.” Không có câu trả lời. Tôi
không mong đợi câu trả lời. Và Bình không cần trả lời vì Bình bây giờ đồng ý với
tôi là vì muốn bảo vệ hạnh phúc và danh dự của người mình yêu Phượng trở về hỏa
ngục nàng đã trốn chạy, tiếp tục sống trong cô đơn, tối tăm và tủi nhục cho đến
chết, không để cho người yêu của mình hay biết.
Bình yên lặng hồi lâu trước khi nói trở lại. Trong đêm khuya
yên lặng và tối tăm sự chờ đợi của tôi dường như kéo dài không bao giờ dứt.
Bình dường như vẫn còn xúc động mạnh vì truyện kể của chàng. Điều Phượng viết
trong nhật ký là hiện thân của máu và nước mắt, báo hiệu kết cục bi thảm của
nàng, và Bình cảm thấy phải kể câu chuyện ấy sau khi đọc tập nhật ký của nàng.
“Phượng không nói gì với tôi về chuyện cô ấy đi Pháp. Không một lời nào,” Bình
nói. “Phượng không bao giờ làm thế đối với tôi.” Giọng nói của Bình có vẻ vừa
buồn rầu vừa oán trách. “Phượng cũng hoàn toàn dấu tôi chuyện này,” tôi đồng ý
với Bình. “Khi tôi đến gặp mẹ của Phượng, bà chỉ nói cho tôi biết Phượng nhận
được thư của Souphavong. Có lẽ bà Liêm và Kim không biết Phượng quyết định về lại
Souphavong.” “Phải đấy,” Bình nói. “Tôi cũng chỉ biết khi tôi gọi Kim hỏi chuyện
học hành của cô bé. Tôi chỉ biết chuyện Phượng đi hai ngày trước khi cô ấy khởi
hành. Tin cô ấy đi làm tôi sốc và ngạc nhiên. Tại sao Phượng làm thế khi mới ở
đây chưa lâu và mọi thứ đều tốt đẹp cho cô ấy? Phượng có một việc làm tốt, dường
như được hạnh phúc ở đây, và gia đình cần Phượng. Vì vậy, tôi đi gặp Phượng và
bà Liêm ngay.”
Bình ngừng kể, đoạn bỗng nhiên cao giọng, nói nhanh dường
như vẫn còn khổ tâm hay giận hờn khi nhớ lại chuyện xảy ra. “Anh biết tôi thấy
cái gì không? Dường như bà Liêm vừa mới khóc. Kim ngồi trước mặt mẹ, đầu cúi xuống
và im lặng thay vì học bài hay làm bài tập trong phòng như thường lệ. Tôi không
thấy Phượng. Bà Liêm buồn bã chào tôi, bảo tôi Phượng đi Pháp vài hôm nữa. Bà
nói Phượng đi mua sắm mấy thứ cần thiết cho chuyến đi. ‘Em nó sang Pháp ở với
chồng nó,’ giọng bà Liêm nghẹn lại dường như bà đang cố kìm hãm cơn cảm xúc. Rồi
bà ngừng nói. Tôi sửng sốt và bối rối, không biết nói gì với bà Liêm. Tôi ngồi
xuống ghế, không nói nên lời, cũng không hỏi bà sau khi Phượng đi rồi bà và Kim
sẽ đi đâu.
Độ mười phút sau, có tiếng cửa mở và Phượng trở về. Tim tôi
đập mạnh với những tình cảm mâu thuẫn—bối rối, thương xót, buồn rầu, một cảm
giác nặng nề về một sự mất mát, và cả giận hờn nữa. Phượng trông ngạc nhiên khi
thấy tôi, nhưng liền sau đó trong đôi mắt thoáng vẻ buồn rầu, trách móc cho đến
bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Phượng cũng trông mệt mỏi, hốc hác. Nhưng rất nhanh
nàng giữ lại vẻ vui mừng thường lệ khi thấy tôi. ‘Hi anh,’ nàng chào tôi
bằng tiếng Anh. Rôi chuyển sang tiếng Việt Phượng nói một hơi, bằng một giọng tự
nhiên. ‘Tuần tới em sang Pháp sống với chồng em.’ (Nàng nói nhanh nhưng chậm lại
dường như nhấn mạnh ba bốn chữ sau cùng của câu nói để cho tôi chú ý đến tình
trạng hôn nhân của nàng. Giọng Bắc của Phượng thường êm ái, dễ nghe nhưng hôm
nay nghe quá lạnh lẽo, hững hờ, nặng nề khiến tôi cảm thấy sốc.)
Sau đó thay vì chờ phản ứng của tôi, Phượng quay sang mẹ
nàng nói huyên thuyên không ngừng những chuyện đâu đâu không liên quan về chuyến
đi của nàng, hình như cố ý tảng lờ tôi. Thái độ của Phượng khiến tôi kinh ngạc.
Hình như nàng muốn dấu tôi điều gì. Có phải vì tôi là người ngoài không quan trọng
đối vời nàng và gia đình nàng và do đó không đáng cho nàng tiết lộ bí mật của
nàng, không có quyền được biết việc nàng đang làm? Nhưng tại sao khi thấy tôi
Phượng nhìn tôi với cặp mắt buồn bã và oán trách ấy? Tôi cảm thấy bị chạm tự ái
bởi cách nàng đối xử tôi nhưng cùng trong một lúc kinh hoảng bởi hành động liều
lĩnh nàng đang làm. Không phải anh bảo tôi rằng bà Liêm nói Souphavong có viết
thư bắt buộc Phượng trở về với hắn? Tôi rất lo đến sự an nguy của Phượng bởi vì
sự tàn bạo của Souphavong thời gian nàng ở Vientiane. Trông không giống như
tính của Phượng chút nào. Tuy dịu dàng và vui vẻ, Phượng có thể chống đối mạnh
mẽ nếu nàng bị áp bức. Tôi nhớ khi làm việc tại quán bar nói tiếng Pháp nàng
cãi với người quản lý và sau đó bỏ việc bởi vì nàng cảm thấy bị kỳ thị. Bởi vì
Souphavong tính tình hung bạo, Phượng có thể nhờ luật sư can thiệp chấm dứt hôn
ước với hắn. Tại sao nàng chịu khuất phục mệnh lệnh của một tên là nguồn gốc sự
đau khổ và tự hành hạ bản thân của nàng như thế? Làm thế nào Phượng không sợ hậu
quả hành động liều lĩnh của nàng mà nàng và mọi người trong gia đình nàng ai
cũng biết? Có phải nàng tự ý hành động, theo ý muốn của nàng hay có thúc đẩy,
ép buộc mạnh mẽ nào đến độ nàng chống lại không nỗi?
Bình ngừng nói một lát. Chưa bao giờ tôi thấy chàng nói hùng
hồn, mạch lạc, nhưng bị kích thích mạnh mẽ đến thế. Phượng chết rồi nhưng chàng
còn quan tâm đến nàng, đến sự việc xảy ra cho nàng, dường như nàng có thể còn sống
nếu sự việc được giải quyết thuận lợi cho nàng. Tôi cảm thấy như bị lôi cuốn
vào chuyện của Phượng và Bình do chính Bình tạo dựng lại như là một nhân vật
chính và người kể chuyện, đến độ tôi tự nhiên buột miệng góp phần bổ túc mặc dù
không được mời gọi. “Sự thôi thúc, ép buộc đến từ tình yêu Phượng tìm thấy trên
miền đất này nhưng sau đó phải chạy trốn tình yêu đó,” tôi buột miệng nói, theo
giòng suy nghĩ diễn ra trong tâm tư, không cố ý trực tiếp trả lời câu hỏi của
chàng, nhưng rõ ràng muốn nói thay cho Phượng và góp phần vào câu chuyện bi thảm
về mối tình của nàng, suy nghĩ nàng ra đi vì bạn. Phượng viết như thế
trong nhật ký. Đó là mối tình đầu của nàng. Cuộc hôn nhân của nàng với
Souphavong chỉ là một sự trao đổi. Phượng tìm được tình yêu ở đây lần đầu và
cũng là lần cuối, nhưng để rồi phải trốn chạy tình yêu đó. Nhưng chúng ta không
thể trốn chạy tình yêu được vì đó là nghiệp lực của mình. Nó theo ta cho đến chết,
đòi hỏi được người sống thừa nhận và hiểu biết, nếu không họ (người chết) không
được yên ổn”. Đó là lý do tại sao trong nhật ký Phượng viết rằng nàng xem
nhân vật Dido của Virgil như người chị linh hồn. Trong cơn cảm xúc nàng cảm thấy
được an ủi bởi nhân vật văn chương không có thật này trong hành trình đơn độc đến
cõi chết. Cả hai chị em đều chung thủy với tình yêu cho đến hơi thở cuối cùng
và muốn được thừa nhận như thế sau khi chết.”
Bình không trả lời suy nghĩ của tôi. Có lẽ đối với chàng
không còn ý nghĩa gì nữa bởi vì tất cả đều là những lời rỗng tuếch. Có lẽ Bình
đắm mình vào giòng tư tưởng và hoài niệm nên không nghe tôi nói. Hay có lẽ
chàng chỉ muốn kể câu chuyện, bởi vì cắt nghĩa hay lý luận điều không thể sửa đổi,
cứu chữa, hay phục hồi, hay bởi vì kể chuyện, nghĩa là nói về quá khứ, là một
cách sám hối và ý hướng muốn đền tội. Tôi cảm thấy thật ngu ngốc khi lý luận với
chàng. Bây giờ bàn bạc suy ngẫm về chuyện không cứu chữa được nữa là điều không
thích hợp và vô ích. Chỉ có kể chuyện là có thể làm Bình cảm thấy dễ chịu vì đó
là một hình thức thú tội. Do đó, sau khi ngừng kể trong chốc lát giọng Bình
nghe đều đều trở lại, “Tôi từ giã bà Liêm và Phượng đêm hôm đó với lòng nặng
trĩu và với những tình cảm trái ngược lẫn lộn. Tôi giận Phượng. Nếu Kim không
nói, có lẽ tôi không biết chuyện Phượng ra đi. Tại sao nàng đối xử tôi như một
người ngoài trong lúc có lần nàng thề với tôi ngoài gia đình nàng tôi là người
nàng tin tưởng và sẽ hỏi ý kiến trong bất cứ vấn đề gì. Nhưng tôi có thể làm gì
nếu nàng hỏi ý kiến tôi? Tôi xấu hổ, cảm thấy tội lỗi nữa rằng tôi không thể
làm gì để Phượng và mẹ nàng cảm thấy dễ chịu hơn.
Đêm hôm ấy và những ngày kế tiếp sau khi Phượng ra đi, tôi vẫn
còn cảm thấy đau lòng và bị ám ảnh bởi nét u buồn và cái nhìn trách móc trên mặt
nàng. Tôi không biết ý nghĩa của cái nhìn ấy cho đến khi tôi gặp nàng một ngày
trước khi nàng ra đi, nhưng tôi mơ hồ cảm thấy chuyện nàng ra đi có liên quan đến
tôi. Phải, tôi cảm thấy rằng nàng đi bởi vì tôi. Nhưng tôi không thể làm gì để
có thể giữ nàng lại. Tuy Phượng rất can đảm và thông minh, nhưng ta không thể
tin rằng một cô gái hai mươi tuổi lúc nào cũng khôn ngoan! Thật khó mà tin rằng
mới năm ngoái nàng đang ở tuổi xuân tràn ngập sức sống mà bây giờ đã ra người
thiên cổ. Thật quá bi thảm! Quá khủng khiếp!”
Bình lại ngừng kể. Rõ ràng cái chết của Phượng làm xúc động
và đau lòng chàng, làm chàng cảm thấy tội lỗi khi biết rằng mọi sự Phượng làm
là vì chàng. Tôi không thấy mặt chàng trong bòng tối, nhưng tôi nghĩ chàng phải
đau đớn lắm khi kể chuyện về Phượng.
Trong đêm tối yên lặng tôi nghe Bình nén tiếng thở dài. “Tôi
mời Phượng ăn trưa với tôi trước khi nàng đi,” Bình nói tiếp. “Lúc đầu nàng từ
chối, nhưng khi tôi nài nỉ rằng tôi muốn gặp nàng lần cuối nàng mềm lòng chấp
thuận. Tôi luôn muốn có một vài lúc riêng tư với nàng để chúng tôi có thể noi
chuyện với nhau như hai người bạn thân, hay như ‘hai anh em,’ như anh nói theo
kiểu Việt Nam mình. Nhưng tôi đã kềm giữ ý muốn đó bởi vì tôi sợ một cuộc gặp gỡ
thân mật như vậy sẽ tạo ra những hậu quả đáng tiếc. Bởi vì Phượng đi vĩnh viễn,
tôi nghĩ gặp nàng lần cuối cũng không hề gì. Tôi muốn dùng cơ hội đầu tiên và
sau cùng này nói với Phượng tôi luôn muốn nàng hạnh phúc và tôi sẽ nhớ nàng nhiều.
“Sau khi ăn trưa chúng tôi đi đến một công viên gần đó để
nói chuyện. Phượng bảo tôi rằng nàng sẽ sắp xếp cho mẹ nàng sang Pháp sống với
nàng, Kim sẽ sang California ở với người chị họ sau khi niên học chấm dứt. Phượng
bảo Kim có thể tự lo cho bản thân ở đây nhưng cầu xin tôi để ý đến cô em gái của
nàng dùm nàng. Phượng đề nghị thay mặt tôi chuyển thư và tiền về ‘vợ anh’ (tôi
không biết làm cách nào nàng có thông tin về tình trạng gia đình của tôi và quá
sửng sốt, quá xấu hổ nên không cải chính nàng), nếu có tôi yêu cầu, đổi lại
chuyện tôi giúp gia đình nàng. Tôi bị sốc bởi sự thẳng thừng của nàng tôi nhận
thấy rất Mỹ. Tánh Phượng không như thế. Đó không phải là Phượng với tính tình dịu
dàng, tế nhị mà tôi thường biết. Có lẽ nàng giận tôi hay có chuyện gì đó và muốn
‘nói chuyện làm ăn’ với tôi. Bỗng nhiên Phượng nói huyên thiên—nói hết một
mình, không cho tôi chen vào, bằng cách kể tôi nghe những gì nàng sẽ làm cho
gia đình nàng, hỏi tôi nhiều câu hỏi về chuyện trường và sở làm, tin tức của
Nhung, tôi có dự định gì về tương lai không, vân vân. Từ đầu đến cuối trông
không giống con người Phượng lúc nào cũng dè dặt và hay e thẹn. Nhưng có lẽ bởi
vì thấy vẻ mặt đau khổ của tôi khi nàng hỏi tôi những câu hỏi liên tục, Phượng
mếu máo và nắm chặt cả hai tay tôi, nước mắt trào ra. Bỗng nhiên tôi hiểu tại
sao nàng nhìn tôi với đôi mắt buồn thảm và trách móc khi tôi đến thăm nàng hôm
trước. Chúng tôi nắm tay nhau một lúc và tôi cảm thấy rằng nếu tôi tiến thêm bước
nữa tôi không biết việc gì sê xảy ra.”
Giọng Bình ngừng hẳn. Trong căn phòng tối mịt thiếu không
khí tôi nghe tiếng chàng thở mạnh. Chàng kiệt sức vì câu chuyện chàng kể
quá liên quan nhiều thứ--những nhớ nhung, buồn rầu, hối hận và tiếc nuối. Chưa
bao giờ tôi thấy Bình nồng nhiệt, thành thật, đau khổ đến thế. Có thật Bình yêu
Phượng đến thế chăng? Tại sao chàng không “tiến thêm bước nữa” vào ngày hôm đó
khi cả hai người gặp nhau lần cuối cùng khi Bình được tự do sau khi
Nhung, vợ cũ của chàng, đã chính thức bỏ chàng ngay sau khi Nhung đến Mỹ? Bình
là người có học thức nhưng nhút nhát, không biết cách làm quen với người lạ,
làm sao có thể giao du tâm sự với một phụ nữ được? Nhưng với tư cách là một người
biết Bình nhiều, tôi nghĩ rằng việc Bình sợ không dám gắn bó với Phượng có liên
quan đến nền văn hóa cũng như đức tin của chàng.
Từ đầu cuộc gặp gỡ cho đến ba tháng giúp đỡ nàng và gia đình
nàng, cho đến cuộc gặp mặt xúc động đầu tiên và cuối cùng trước cuộc ra đi định
mệnh của Phượng nàng luôn luôn là biểu tượng của một người em gái đối với
chàng. Biết rằng chàng là một người Công giáo thuần thành và có ý nghĩ muốn đi
tu sau khi tốt nghiệp Tú tài, tôi không nghĩ rằng chàng để cho mối liên hệ với
nàng bị hoen ố bởi những ý muốn thấp hèn của dục vọng. Mặc dù trong cuộc gặp gỡ
cuối cùng với Phượng, Bình biết Nhung đã ra khỏi đời chàng, chàng cũng không muốn
phạm tội không phải vì chàng còn yêu Nhung nhưng vì chàng kính trọng Phượng và
chàng sợ Chúa. Chàng sợ Chúa, nhưng chàng sợ đôi mắt buồn rầu của Phượng nhiều
hơn nữa. Tôi biết vì sao Bình rời Austin liền sau đó, có vẻ vội vã, sau khi Phượng
ra đi. Tôi nghĩ chàng làm thế vì chàng không sao chịu đựng nổi đôi mắt buồn bã
của Phượng, nhưng càng cố trốn chạy chừng nào đôi mắt ấy càng ám ảnh chàng, đến
nỗi chàng phải quay về nơi nguồn gốc của thảm kịch để tìm lại và nhìn thẳng vào
đôi mắt ấy. Bởi vì đó là kỷ niệm của yêu thương, chúng ta phải ôm ấp lấy, không
thể chạy trốn khỏi nó được. Đêm nay không những Bình đã tìm được hoài niệm yêu
thương của Phượng mà còn hiểu biết và chấp nhận tình yêu của nàng. Việc này còn
quá hơn điều Phượng có thể mong ước khi nàng còn sống.
Câu chuyện của Phượng không phải về một trường hợp đặc biệt
của tình yêu vô vọng. Nó có một ý nghĩa toàn diện. Trong chiến tranh với sự can
thiệp ào ạt của Mỹ và quân đội ngoại quốc nhiều phụ nữ trẻ như Phượng bị bắt buộc
bán mình để cứu gia đình. Nhũng phụ nữ khác can đảm nhận trách nhiệm nuôi dưỡng
con thơ sau khi chồng của họ hy sinh ngoài trận tiền trong thời kỳ chiến tranh
hay bị giam hãm trong các trại cải tạo sau khi miền Bắc xâm chiếm miền Nam. Lại
còn có nhiều phụ nữ bị hãm hiếp và làm nhục bởi bọn cướp biển hay bỏ mình trên
biển cả khi theo gia đình trốn cộng sản sau năm 1975. Những phụ nữ này phải
được tưởng nhớ, những câu chuyện của họ phải được kể, linh hồn của họ phải được
yên nghỉ. Và không những các nạn nhân này xứng đáng sự tưởng niệm của chúng ta,
chúng ta còn phải dự phần vào việc kể lại chuyện của tất cả những người chết
chúng ta quen hay không quen, nói họ chết như thế nào cho chúng ta và vì chúng
ta. Kể chuyện, hay như trong trường hợp của tôi, viết về người chết là cứu rỗi
quá khứ bi đát của chúng ta và cũng là cứu rỗi mình bởi vì người chết thuộc về
quá khứ chúng ta nhớ thương và biết ơn biết bao.
Căn phòng im lặng hoàn toàn ngoại trừ tiếng kêu liên tục của
chiếc lò sưởi. Đêm thật dài. Những vệt sáng yếu ớt của hừng đông xuyên qua khe
cửa sổ. Căn phòng lạnh lẽo nhưng khó thở nên tôi mở hé cửa sổ để đem vào ít
không khí. Dự đoán thời tiết nói lần đầu tiên sẽ có tuyết nhiều vào ngày lể
Giáng sinh. Những bông tuyết rơi nhanh và mạnh khắp nơi—những mái nhà, bãi đậu
xe, ngọn liễu rủ⸻và bên
kia những dãy đồi uốn lượn. Tội nghiệp Phượng, nàng không còn có thể về nhà mà
phải nằm trong miền băng giá xa xôi nơi không có ai quan tâm đến viếng mộ nàng
và thắp một nén hương tưởng nhớ nàng. Phượng là một cô gái nhiệt tình, dễ mến,
rất yêu đời nhưng bây giờ số kiếp phải nằm trong yên lặng và cô đơn thiên
thu.
Có tiếng chiêm chiếp yếu ớt của những con chim sẻ từ những bụi
cây trước căn phòng của tôi. Trời còn quá tối chưa kiếm ăn được nên chúng kêu yếu
ớt và tội nghiệp mãi như thế. Christmas ở Mỹ quá yên ắng và buồn bã so với Noël
ở Việt Nam trước khi có thay đổi chế độ. Quá yên ắng và buồn bã nên tôi càng cảm
thấy cô đơn và đau khổ khi nghĩ đến gia đình tôi ở nhà đang nhớ tôi, đang nhắc
đến tôi vào giờ này. Nhưng tôi may mắn hơn Bình. Tôi có gia đình ở nhà. Bình
không có ai hết. Chàng có một người thương yêu và quan tâm đến chàng nhưng nay
đã chết rồi. Trời còn tối nên tôi vặn đèn lên. Bình trông xanh xao, kiệt sức
nhưng trên khuôn mặt lộ một vẻ cương quyết, nghiêm nghị, khắc khổ làm tôi hoảng
sợ. Chàng thức trắng đêm tối hôm qua. Chàng muốn kể câu chuyện một lần
cho xong bởi vì tôi biết rằng chàng sẽ không còn cơ hội kể lại câu chuyện ấy lần
nữa. Câu chuyện dài trong đó chàng đóng vai trò vừa là người kể chuyện vừa là
nhân vật một cách say sưa, trung thành và không thể kềm chế được chắc đã làm
chàng kiệt sức. Bằng cách kể hết câu chuyện của Phượng và đền tội như vậy, Bình
đã chuộc tội không những cho người yêu trung thành của chàng mà còn cho chàng nữa.
Tôi rất vui mừng được biết rằng sự trở về của chàng tưởng sẽ đem lại cho chàng
đau buồn và hối tiếc đã có kết quả vô cùng tốt đẹp.
Những hồi chuông vang lên từ nhà thờ Thánh Tâm của giáo dân
Việt Nam ở thành phố Austin báo hiệu thánh lễ Giáng sinh buổi sáng. Bình đưa
tay làm dấu thánh giá. Thức trắng đêm làm Bình kiệt sức, nhưng cái nhìn khắc khổ
dễ sợ trên mặt chàng đã không còn nữa. Mắt chàng lóe lên một ánh vui mừng. Đã
đi hết Đoạn đường đau khổ qua đau thương, hối hận và sám hối, chàng đang
vững bước trên con đường đi tìm cứu rỗi cho linh hồn đau khổ của chàng.
Bình khẩn thiết xin tôi đưa chàng đến nhà thờ dự thánh lể buổi
sáng. Chàng đã không dự thánh lễ tối qua và không muốn bỏ qua lần nữa cơ hội đã
đem chàng và người bạn yêu dấu lại với nhau trong một thời gian ngắn ngũi hơn một
năm trước.
Chưa bao giờ tôi thấy Bình cầu nguyện một cách thành khẩn
như vậy. Chàng dường như cầu nguyện với tất cả con tim và linh hồn của chàng.
Tôi biết chàng làm thế không những cho người đàn bà chàng yêu mà còn cho chàng
nữa. Khuôn mặt chàng hồng lên với một ý chí mạnh mẽ và có mục đích và tôi nghĩ
chàng sẽ làm một cái gì rất quan trọng đối với chàng, một cái gì liên quan đến
tiếng gọi chàng bảo tôi chàng đã nghe một lần khi còn là một học sinh ban Tú
Tài trường Taberd, một trường trung học thuộc dòng Chúa Cứu thế ở Saigon. Mắc
dù tôi cố mời chàng ở lại thêm vài ngày nữa, chàng đáp máy bay trở lại Arizona
chiều hôm ấy.
Trần Quí Phiệt.