Hè năm nay, nhà thơ Dzạ Lữ Kiều tặng tôi một số tập thơ đã xuất bản và những tập thơ chỉ in để dành tặng bạn bè và bạn đọc tri âm. Rất vui khi được gửi tặng những tác phẩm- “đứa con tinh thần” của tác giả. Tôi tiếp cận thơ cũng như đi vào “thế giới chữ nghĩa” của ông, lần theo những cảm xúc của tác giả để tìm hiểu về một hồn thơ đậm chất đời và chất hào sảng, phong sương của lính.
Khi ông có
thơ đăng trên báo chí thì tôi còn oe oe khóc trong nôi. Có lẽ cùng thời với Dzạ
Lữ Kiều đã có một số cây viết đồng hành
cùng với những vui buồn trong đời thơ ông. Tôi chỉ ghi lại những những nhận định
của mình theo góc nhìn của một người thưởng thức văn chương thuần túy trong giới
cầm bút, cũng là tấm lòng của độc giả đối với tác giả. Trân trọng những lao động
nghệ thuật đáng quý cảu tác giả. Bởi người viết cũng như người thư ký của thời
đại, thông qua tiếng lòng của họ, ít nhiều người đọc sẽ hiểu được những vui buồn
của phận người gắn với những vui buồn nhân thế, của thời đại mà họ đã sống và
trải nghiệm.
Nhà thơ Dzạ
Lữ Kiều tên thật là Trần Xuân Thái: sinh năm Quý Mùi tại Hương Trà, Thừa Thiên
Huế. Ông học hành và trưởng thành tại Huế và bước vào văn giới cùng thời gian
anh bước vào đời lính. Tuổi trẻ của người thơ như bao thanh niên cùng thời cũng
lên thác xuống ghềnh, hành quân, áo trận…sau 1975, ông rời quân ngũ và đi vùng
kinh mới, những bộn bề cơm áo với những khó khăn chung của đất nước thời kỳ hậu
chiến. Những trải nghiệm đó là chất liệu làm nên thi ca đẫm chất đời và chất
lính của Dzạ Lữ Kiều.
Hiện tại Dzạ
Lữ Kiều sống và viết tại Buôn Mê Thuột, gia đình êm ấm với người vợ hiền chung
thủy và những đứa con ngoan.
Những sáng
tác trước 1975: Thơ đăng các báo: Văn,
Thời Nay, Chọn Lọc, Thứ Tư Tuần San,
Thẩm Mỹ, Chánh Đạo, Tia Sáng,… bằng
những bút danh khác như: Dzạ Trầm Thảo, Hương Văn.
Sau 1975:
Tiếp tục cộng tác với các báo trung ương và địa phương:
Các tác phẩm
đã xuất bản:
Giọt Huế mưa ( 2007), Giọt
mắt đắng (2009), Giọt sương khuya
(2012), Giọt nắng phai (2015), Giọt tình quê (2019)
- Thơ, truyện
ngắn in riêng dành tặng người thân và bạn đọc tri âm:
Lời gió chướng, 2022, Tạ từ phượng vỹ, Tuyển tập
thơ: Những bước chân thầm, Tập truyện ngắn: Bến đời.
Góp mặt
trong nhiều tác phẩm với các tác giả thơ Việt Nam đương đại, có nhiều bài thơ
đã phổ nhạc. Tôi đã được đọc trên bốn trăm bài thơ của ông trong các tập thơ
nói trên. Cho thấy tiếng lòng của thi nhân với cuộc đời, với tình yêu. Đó là những
dòng cảm xúc từ đáy lòng thông qua câu chữ để thi nhân gửi gắm nỗi niềm được diễn
đạt bằng ngôn từ bình dị mang âm hưởng xứ Huế, mang sắc thái tình cảm. Những vần
thơ tha thiết chân thành. Ngọt ngào, lãng mạn trong tình yêu, đầy tình nghĩa với
người thân, bạn hữu. Khắc khoải ưu tư với nỗi buồn nhân thế và cũng nhiều chiêm
nghiệm được thể hiện bằng nhiều thể loại thơ như: lục bát truyền thống, thơ tự
do, thơ ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, thể loại thơ văn xuôi… Ở thể thơ nào ông
cũng tỏ ra đầy kinh nghiệm. Bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn. Hầu hết các
sáng tác của Dzạ Lữ Kiều được bắt nguồn từ cảm hứng trữ tình, đôi khi có cả cảm
hứng tự sự, khi tách bạch, khi đan xen thật hài hòa cân đối khiến thơ ông neo lại
trong lòng bạn đọc với những ấn tượng đẹp. Hồn thơ Dzạ Lữ Kiều mang nét hào sảng
của người lính yêu hòa bình:
“Nước non nặng
gánh thề chung/ Ra đi thỏa chí tang bồng trời mây”
(Giọt Huế mưa- Lời gió chướng)
“Quê hương
ơi! /Nước mắt tuôn/ Bao năm rong ruổi con đường nghẹn đau”
(Giấc mơ
trưa hè- Lời gió chướng)
Khắc họa
thành công chân dung người lính dãi dầu phong sương là thế, mà vẫn lãng mạn và
ngọt ngào. Bộc lộ qua những vần thơ sau:
“Đâu rồi áo
trận đã sờn vai/ Giày lính còn lấm bụi đường dài/Mơ về phố thị cùng chung bước/Giọt
cà phê, hương ngát bay”(Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Ý thơ trên
đưa tôi liên tưởng đến câu thơ của Quang Dũng: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Chất lãng mạn
làm nên vẻ đẹp trong thơ tình của lính:
“Môi em như
nụ hồng hàm tiếu/ Để hồn tôi ngơ ngẩn suốt canh thâu” (Chia tay- Giọt nắng phai)
-“Chỉ là
ánh mắt em thôi/Sao tim ta đã chơi vơi đỉnh sầu/ Huống em tặng nụ hôn đầu/Ta trả
mấy kiếp thêm nhàu trái tim”.
Những tháng
ngày trong quân ngũ, tình chiến hữu gắn bó thật đẹp, bên câu chuyện tâm tình là
những kỷ niệm khắc sâu vào tâm khảm của nhà thơ- người lính.
“Thôi bỏ hết
những ngày vui chưa lớn/ Mai đứa về đồng lúa ngọt miền Nam/ Đứa ra Trung xứ cằn
khô sỏi đá/ Để lên non nhận kiếp trâu cày/Hãy ngồi sát nhau hút thêm điếu thuốc/Tàn
canh rồi ly rượu mãi chưa vơi”.
(Chuyện quân trường- Lời gió chướng)
Những năm
tháng sau này, khi có dịp gặp lại những chiến hữu khi ngồi bên nhau, kỷ niệm lại
ùa về. Ông trải lòng vào thơ một thời khói lửa, áo trận, hành quân gắn với đời
lính gian truân mà cũng đầy bi tráng:
“Bạn bè nhắc
lại chuyện thuở xưa/Rừng già đêm lạnh khúc giao mùa/Ba lô súng đạn trăng chếch
bóng/Xào xạc rừng già lá vàng khô”
(Cà phê nhớ- Giọt nắng phai)
Khi đã dấn
thân vào quân trường không biết ngày về, đành chấp nhận bỏ lại quê hương, người
thương và đối diện với biệt ly.
“Người
khoác lên mình màu chiến y/ Bỏ lại quê hương nuối tiếc gì/ Quân hành tám hướng
người rong ruổi/Tìm thú yên hà- Tống biệt ly”(Chung
thủy- Lời gió chướng)
Tôi chợt
liên tưởng đến hình ảnh “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” của nhà thơ Nguyễn
Đình Thi.
Thi nhân-
người lính ý thức được rằng đời lãng tử nay đây mai đó thì khó lòng giữ vẹn câu
thề với tình riêng. Lấy vần thơ là điểm tựa, là cứu cánh khỏa lấp nỗi vui buồn.
Hãy đến với những câu thơ buồn nhưng lãng mạn của Dzạ Lữ Kiều.
“Đời lãng tử
mấy khi tròn ước nguyện/Khúc trăm năm cũng dang dở huống là
Thôi hãy dệt
vần thơ chưa trọn/Để trong tim vọng nhớ- tình- xuân- xa” (Chia tay- Giọt nắng phai)
Tàn cuộc
chiến, ông trở lại với cuộc sống với những vất vả đời thường, bộn bề cơm áo.
Nhà thơ có những câu thơ chiêm nghiệm đầy ưu tư trước thành bại của cuộc đời:
“Đời ta áo
trận sờn vai/Giày lính bung gót làm người đốt than/Lục bình ta trôi bơ vơ/Nghiệm
đời dâu bể bên bờ đục trong”(Về một bút
hiệu- Giọt nắng phai)
Anh nói với
cháu nội hay nói với chính mình:
“Đời ông kẻ
sĩ lỡ thời/Lên rừng đốn củi trắng lời ước mơ”(Đêm mất ngủ- Giọt nắng phai)
-"Bao
năm…Thành phế binh đời/ Về đây…chốn cũ ta ngồi đếm mưa”
(Mưa phùn và nỗi nhớ- Giọt nắng phai)
Người thơ
biết rõ mình là ai, mình làm được gì cho đời bằng những câu thơ gan ruột:
“Ta không rủng
rẻng bạc tiền/ Chỉ giàu lời dệt cõi riêng tình người”
(Tình thơ- Giọt tình quê)
Vậy cũng là
quý! Tiền bạc đôi khi chỉ là phương tiện của cuộc sống chứ không phải là tất cả.
Có thể có đó và hết đó nên cũng là phù du. Sự giàu có về tâm hồn là điều quý
giá hơn, để cuộc sống tinh thần thêm phong phú. Những câu thơ tả thực khi nhớ về
những cơ cực của người thơ sau cuộc chiến, những tháng ngày tha hương.
“Từ ngày rời
bỏ quê hương/Về kinh tế mới - phượng hồng lỡ quên/ Chồng vợ đen đúa gầy gò/Đốt
than cưa củi…từng giờ gạo đong”(Ru đời-vọoc
đất)
Hai câu
thơ: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt/ cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu)
quả rất đúng cho hoàn cảnh người thơ lúc này. Nhưng khi nghĩ về cố xứ ông vẫn
thầm nguyện cầu cho Huế được bình yên nhất là khi mưa bão lại về.
“Ta người
xa xứ đã bao năm/Nhớ hoài trong những chuyến về thăm/ Nỗi lòng theo cánh chim
mùa bão/ Trời yên, biển lặng…nguyện trong tâm”(Tháng tám bão về- Lời gió chướng)
Tết đến
xuân về, nơi xa nhà thơ lại càng nhớ da diết:
“Nhặt giùm
tôi chút nắng gầy/Bên thềm xuân Huế bao ngày cách xa/Gói thêm vài hạt mưa sa/ Để
thấm hương vị quê nhà nhớ quên”
(Tết- Giọt sương khuya)
Dzạ Lữ Kiều
xê dịch nhiều, nên những vùng đất nào ông có dịp đặt chân tới đều để lại dấu ấn
trong thơ. Những địa danh Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ: Rạch Giá, Sa Đéc, Đồng
Tháp, Hà Tiên đều được nhắc đến trong bài thơ dọc đường gió bụi, tập thơ Giọt nắng phai.
Tổng kết lại
đời mình ông có nhận xét dí dỏm nhưng rất đúng: lãng tử, ngọt ngào, lãng mạn để
làm thơ.
- “Tôi lãng
tử/ thích ngọt ngào/Câu thơ viết tặng ngày đầu mới quen”(Ví dụ ta quen nhau)
Đã gần hai
mươi lăm năm năm nay, anh đã đang làm việc cho tập san Vô Ưu, tiếp cận với văn hóa Phật giáo nên chất thiền ngấm và hồn
thơ ông rất rõ nét:
“Đời là một
chuỗi vô thường/Có không…không có con đường trải qua”(Hướng tu-Lời gió chướng)
Thơ Dzạ Lữ
Kiều được viết ra bởi cảm xúc rất thực, tự nhiên bật ra câu chữ nên cách dùng từ
gần gũi với đời thường. Ngôn từ dung dị cũng chân chất giản dị như chính con
người của tác giả. Ông sử dụng phương ngữ, có những từ dân dã mà có lẽ miền
Trung mới hiểu như “đùm” “Vọoc bùn”. Có lẽ vì vậy mà thơ Dzạ Lữ Kiều bên cạnh
những bài thơ hay, câu thơ hay còn có những bài, những câu thơ chưa thực sự ấn
tượng. Tuy nhiên nếu đọc kỹ vẫn tìm thấy những điều thú vị. Và trong số lượng
sáng tác phong phú đó người đọc dễ dàng tìm thấy khá nhiều câu thơ tâm đắc mỗi
khi mình có cùng tâm trạng. Điều đáng quý là nhìn chung tất cả những sáng tác của
ông đều được viết ra từ cảm xúc tự nhiên . Thơ Dzạ Lữ Kiều phản ánh cuộc sống,
là những trang viết về cuộc đời về nhân tình thế thái rất chân thực, đầy tính
nhân văn. Trong ba yếu tố cảm xúc, ngôn ngữ và phương pháp biểu đạt thì cảm xúc
là yếu tố quan trọng nhất trong thi ca, để chạm vào rung cảm khi bạn đọc có
cùng hoàn cảnh và đi vào lòng người đọc phải là tiếng nói từ trái tim của người
nghệ sĩ. Thơ Dzạ Lữ Kiều chân chất, giàu tính nhân bản vừa rất đời mà cũng
không kém phần ngọt ngào, lãng mạn. Cảm hứng trữ tình và tự sự được đan xen hài
hòa. Hình ảnh, thi liệu thơ trong cuộc sống đượ công lựa chọn đưa vào thơ hợp lý, kết hợp với cách
dùng từ lập ý và vận dụng các biện pháp nghệ thuật để chuyển tải nội dung cần
diễn đạt một cách phù hợp và biểu cảm.
Sài Gòn,
ngày 25/6/2022
NỖI NIỀM DÀNH CHO HUẾ TRONG THƠ DZẠ LỮ KIỀU
Có thể nói
Huế là nguồn cảm xúc không bao giờ vơi cạn trong hồn thơ Dzạ Lữ Kiều. Những vần
thơ nặng lòng với Huế chiếm phần lớn trong các sáng tác của ông. Đúng như niềm
tâm sự thao thiết ông gửi vào thơ:
“Ôi Huế bao
mùa ta xa nhớ/Làm sao nói hết những ân tình”(Nhớ- Giọt nắng phai)
Dzạ Lữ Kiều
viết nhiều về Huế. Bởi Huế đối với ông là cả những ân tình sâu nặng đầy nhớ
mong da diết đã in sâu vào tâm khảm. Những ký ức ngọt ngào, những địa danh, thắng
cảnh của Huế luôn hiện diện trong thơ , đầy ắp cả khung trời kỷ niệm. Thơ gửi
Huế là tấm chân tình ông dành riêng cho Huế.
“Ta theo em
về bến đò xưa/Một thời đầy ắp tuổi mộng mơ”(Bến
xưa-Giọt tình phai)
Dù có đi
chân trời góc bể, ông vẫn luôn nghĩ về Huế, tâm hồn ông vẫn cứ Huế vương mang:
“Ta…Rời xa Huế rồi em/ Câu thơ ở lại ủ mềm lối
xưa/ Gặp em một buổi chiều mưa/Bàn tay bịn rịn bên bờ Hương Giang”
(Chào M- Giọt
nắng phai)
Nỗi nhớ Huế trong ông luôn trỗi dậy bật ra
thành cảm xúc và tràn cả vào thơ.
“Bỗng dưng ta nhớ Huế lạ lùng/Nhớ mái trường
xưa nhẹ bước chân/Nhớ tà áo trắng chiều tan học/Nhớ mái tóc thề theo gió vươn”
(Nỗi nhớ-Giọt nắng phai)
Nhà thơ Dzạ
Lữ Kiều lập nghiệp ở vùng đất cao nguyên, có thể nói gia đình ông đã bén rễ ở
đây. Ông cũng đã quen với đại ngàn nắng gió. Vùng đất nơi đây cho quả ngọt trái
sai để cho những cuộc đời tha hương như ông giờ có thể gọi là “no cơm ấm cật”.
Ông cũng đã yêu vùng đất mới này với những đặc điểm rất riêng: hoa cà phê bạt
ngàn và âm vang tiếng cồng chiêng ngân dài trong gió. Nhưng có lẽ Huế vẫn là
cõi nhớ trong ông không gì thay thế!
Huế của anh
gắn với những kỷ niệm thật ngọt ngào và lãng mạn. Huế vẫn là giấc mơ đẹp ngày về:
“Ước được
ngày về… thăm Cố đô/ Dìu em gái Huế nón bài thơ/Qua cầu e ấp tà áo tím/Cà phê
Thành Nội mãi ngóng chờ” (Cà phê nhớ- Giọt
nắng phai)
Huế trong
tâm hồn thi nhân là nhịp đập trái tim, là hơi thở, là lẽ sống. Tim thì phải
luôn gõ nhịp để duy trì sự sống thì theo ông sống là để nhớ thương Huế không
nguôi:
“Một đời ta
thương Huế/ Như nhịp đập trái tim” (Huế thương- Giọt sương khuya)
"Ân
tình Huế đã bao năm dồn nén/Xa thật rồi! Nhưng đọng mãi trong tim”
(Lưu tình- Giọt sương khuya)
Quê hương
Huế gắn liền với những kỷ niệm của một thuở đầu đời. Ở đó thấp thoáng hình bóng
giai nhân từng làm rung động con tim thời trai trẻ của Dzạ Lữ Kiều, năm tháng
trôi đi trong lớp bụi thời gian nhưng vẫn trở thành những kỷ niệm khó phai.
“Niềm thân
ái dấu hoài rất có thể/ Khung trời xưa mấy ai dễ kiếm tìm/Từ muôn kiếp ta gắn
liền duyên nợ/Thì dễ gì năm tháng đã quên tên”
(Đoản khúc yêu- Giọt nắng phai)
Thuở tan
trường một thời chung bước, nụ cười, ánh mắt của người xưa tưởng chừng ngủ yên
trong tâm khảm trên bước đường sương gió. Nhưng mỗi lần trở lại Huế thì những kỷ
niệm lại ùa về với những hình ảnh thân quen: nét buồn trên mi, tà áo dài, ánh mắt
đó lại vấn vương khi đặt chân lên những lối đi quen.
“Về quê nhặt
nụ Huế buồn/Từ em đánh rớt cuối đường ngày xưa/Thuở còn những buổi đón đưa/Sân
trường Đồng Khánh ai chờ đợi ai?”(Huế và
em - Giọt nắng phai)
Tình yêu
dành cho Huế chất chứa trong lòng. Tôi có cảm giác là với Dzạ Lữ Kiều thì những
cảm xúc dồn nén chỉ chờ có dịp là tuôn trào lên câu chữ để thành thơ. Bởi Huế
là quê hương xứ sở, nơi đó có người thân, bạn bè tri âm. Đặc biệt một thuở tình
đầukhông dễ gì quên.
“Một thời mộng
ước song đôi
Dìu em đi
giữa khung trời Huế thương
Áo dài soi
bóng dòng Hương
Đường vô
Thành Nội nắng vương tóc thề”
(Một mình dưới trăng- Giọt sương khuya)
Những kỷ niệm
thuở nào nằm yên trong ký ức chợt thức dậy. Ông có những câu thơ nhiều cảm xúc:
“Đưa em về…còn
mưa bay/Ngồi sau xe ấm vòng tay/Mượn bờ môi chạm nhẹ/Mới hay tình đã đong đầy”.
(Đưa em về …đêm mưa- Giọt nắng phai)
“Ta một đời
lãng tử/ Từng sợi tóc vờn bay/ Nhưng trong tim yêu Huế/ Thao thiết đến từng
ngày”
(Màu tím tôi yêu- giọt nắng phai)
Một mối
tình thời son trẻ dang dở không thành:
“Thời gian
trầu đã bén vôi/ Cau tôi chưa trổ nụ phơi nắng hè/ Thế rồi em bỏ sông quê/ Bến
tình tôi đứng bên đê ngóng chiều”
(Kỷ niệm xa rồi- Giọt tình quê)
Tác giả dùng những động từ như: vói, nhặt, ép, hong,
treo... rất cụ thể bên cạnh những danh từ trừu tượng kết hợp với những thi liệu:
cánh phượng hồng, lưu bút, nỗi nhớ làm cho câu thơ giàu hình ảnh và có giá trị
biểu cảm:
“Vói tay nhặt/Cánh
phượng hồng/Ép vào lưu bút/Để hong cuộc tình/Em chừ qua ngõ lợi danh/Ta treo nỗi
nhớ/lên cành phượng khô”(Khúc tình cuối hạ-
Giọt tình quê)
Đi qua những
cuộc tình không trọn vẹn, trong dâu bể đời người. Ông có nhiều trải nghiệm, hay
nói cách khác là vốn sống. Có ai đó nói rằng “hãy sống rồi mới viết”. Nghiệm lại
thấy đúng, những kinh nghiệm sống, những trải nghiệm trên đường đời cùng với
năng khiếu thiên bẩm để thi nhân có những bài thơ hay, câu thơ hay có tính triết
luận nhẹ nhàng:
“Tình yêu
như bóng qua cầu/ Nào ai giữ được bền lâu cho mình” (Tình ảo- Giọt nắng phai)
Vâng! Khi
chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ sớm lấy lại thăng bằng mỗi khi gặp trắc trở
sóng gió trên đường đời. Đến và đi, mọi việc tùy duyên thôi! Nỗi buồn xin gửi
vào thơ cho nhẹ lòng mà đứng lên, bước tiếp:
“Sông đời
nước biếc trôi mau/ Sông tình ai biết ngày sau mà lường/Em theo lộng tía tha
phương/Tôi đứng bên đường nhìn ánh chiều phai” (Nhìn cánh phượng rơi- Giọt tình quê)
Dzạ Lữ Kiều
có những câu thơ thật buồn da diết:
“Tre buồn oằn
bóng nước xao/Tưởng chừng kỷ niệm quất vào tim tôi/Khi em bỏ lại cuộc chơi/Về
chân trời tím ru lời hắt hiu”
(Về lối Hạ- Văn Xá, Thừa Thiên Huế)
Ông cũng hé lộ cho chúng ta biết một lý do để cuộc
tình không trọn:
“Tôi vào
quân ngũ em biền biệt xa”
(Chuyện
tình bên sông- Giọt sương khuya)
Đặc biệt
hơn hết ông dành những câu thơ đầy ân tình sâu nặng cho hai đấng sinh thành của
một người con chí hiếu. Thi nhân thấu hiểu những hi sinh thầm lặng, những vất vả
lo toan, của cha mẹ tảo tần nuôi dưỡng con cái nên người, nhất là trong thế cuộc
tao loạn, vất vả biết chừng nào của song thân. Và ông tự trách mình nơi xa xôi
chưa đáp đền ân nghĩa.
“Đời cha
gian khổ nhiều rồi/Con chưa báo đáp được lời nghĩa ân/Thân cha nào kể ngọt
bùi/Bao nhiêu nước mắt nuốt trôi vào lòng” (Ơn
cha- Giọt nắng phai)
Những vần
thơ dành cho mẹ cũng thật cảm động:
“Chiều đông
mưa rả rích buồn/Nhớ sao cái thuở tan trường tuổi thơ/Mạ lóng ngóng chiếc áo
mưa/Chờ con ra lớp- giờ trưa đón về”
(Tuổi thơ& Mẹ- Lời gió chướng)
Huế vẫn đây
mà hình bóng mẹ không còn chờ con bên hiên nhà nữa! Mẹ đã về miền viên miễn! Cảm
giác đơn côi của đứa con không còn mẹ, dù ở độ tuổi nào thì mất mẹ là một nỗi mất
mát lớn không gì bù đắp nổi. Dẫu biết đời là vô thường nhưng quê hương đây rồi
mà mẹ ở đâu? Mẹ không còn thì sự hụt hẫng đến vô cùng, đặc biệt đêm về quạnh vắng,
trở mình thức giấc cũng nghe như tiếng kinh thành khóc nức nở. Đó là tiếng lòng
thi nhân trong tiếng nấc nghẹn ngào khi nghĩ về mẹ:
“Đêm trở gối
nghe kinh thành nức nở/Tưởng tim mình tan vỡ giữa cô đơn/Nhớ sao ngày mẹ hao gầy/
Nhường cơm sẻ áo cho bầy con thơ” (Giọt
Huế mưa- Lời gió chướng)
Nhờ có người
vợ hiền chung thủy để tâm hồn thi nhân neo đậu, khi dấn thân trong gió bụi trường
chinh và thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Và để thả hồn theo con chữ của đời nghệ sĩ
mà duyên nghiệp viết lách đã vướng vào ông:
“Phải chăng
chút nghĩa đá vàng/Giúp tôi giữ được tiếng đàn ngày xưa”
(Lạc bến-
Giọt sương khuya)
Người lỡ “mắc duyên vào bút mực” (từ dùng của Nguyễn
Bính) nhất là người sáng tạo thi ca thường có tâm hồn lãng mạn. Đôi khi thả hồn
bay bổng lên tận chín tầng mây, nô đùa cùng các tiên giới hoặc giai nhân trong
đời thực (dù chỉ trong thơ). Nên rất cần sự cảm thông và thấu hiểu, sẻ chia của
người bạn đời chung thủy. Viết lách âu cũng là nghiệp dĩ văn chương. Nếu tâm hồn
không lãng mạn thì không thể sáng tạo được văn chương. “Em” biết điều đó phải
không? Nên xin em chớ hờn ghen! Dzạ Lữ Kiều có những câu thơ tài hoa mà độc giả
tâm đắc:
“Em trách
tôi con tim thường vụng dại/Ngăn chứa nhiều chỉ làm khổ thân thôi/Khi đã biết nợ
duyên tình phải trả/Em hãy là bồ tát của lòng tôi”
(Trước bình - Giọt tình quê)
Người lính
không quân ấy, trên bước đường lữ thứ mỗi lần nghe tiếng mưa rơi cũng chạnh nhớ
quê nhà:
“Nào hay lạc
mãi mùa xuân/Trôi theo vận nước xa dần dòng Hương/Ta chừ lang bạt tha phương/Vẫn
nghe xa xót đêm buồn Huế mưa”(Giọt Huế
mưa- Lời gió chướng)
Thơ Dzạ Lữ Kiều được viết ra bởi cảm xúc chân thành dành cho Huế, tự nhiên bật ra câu chữ. Ngôn từ cũng chân chất giản dị như chính con người đời thực của ông. Thơ Dzạ Lữ Kiều giàu tính nhân văn, rất đời mà cũng không kém phần, lãng mạn. Cảm hứng trữ tình và tự sự đan xen hài hòa. Hình ảnh, thi liệu thơ chọn lọc đưa vào thơ hợp lý, cách dùng từ lập ý, vận dụng các biện pháp nghệ thuật để chuyển tải nội dung rất biểu cảm. Tuy nhiên, người đọc vẫn mong người sáng tác không ngừng nâng ca năng lực sáng tạo, dụng công hơn nữa trong việc chọn lọc ngôn từ, những từ thông thường trong cuộc sống khi đi vào thơ là được thi ca hóa một cách Phù hợp. Dzạ Lữ Kiều đặt tựa cho nhiều tập thơ, chỉ có một tập là: Lời gió chướng. Còn lại tập nào cũng có chữ “Giọt”, không biết hình tượng “giọt” có gì ám ảnh hay ý nghĩa gì chăng? Mà tác giả nhập tâm đến thế như: Giọt sương khuya, giọt tình quê, giọt nắng phai, Giọt Huế mưa, Giọt mắt đắng,…dễ gây cảm giác nhàm chán cho bạn đọc. Tôi nghĩ rằng các tựa tập thơ trên nếu bỏ bớt chữ “giọt” sẽ thanh thoát, biểu cảm hơn.
Trong gần
trọn cuộc đời cầm bút của mình, khi đã bước qua tuổi tám mươi, tác giả vẫn tiếp
tục cống hiến cho đời bằng lao động nghệ thuật nghiêm túc, cần mẫn. Nay mái tóc
đã phai màu theo thời gian nhưng niềm say đắm với thi ca thì vẫn nguyên vẹn như
thuở mới vào đời. Mong thi nhân có được nhiều sức khỏe! Và người đọc chúng ta
đón chờ những tác phẩm mới của ông trong thời gian tới!
Sài Gòn,
ngày 25/8/2022