Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây
Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà
văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây.
Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ.
Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những
dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một
con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm
thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa
rừng, khoảng trên hai cây số.
Ở K2 trại tù Hàm Tân này, trong những lần thăm nuôi trước,
tôi đã có dịp gặp lại một số bạn nhà văn gốc quân đội, từ các trại tập trung miền
Bắc chuyển vào. Văn Quang, giám đốc Đài phát thanh Quân Đội trước 1975, tác giả
tiểu thuyết được quay thành phim Chân Trời Tím nổi tiếng. Hoàng Ngọc Liên, nhà
thơ quân đội. Thân hơn với chúng tôi là anh bạn Thảo Trường, cùng viết văn từ
thời tạp chí Sáng Tạo những năm năm mươi.
Sau cả chục năm lưu đầy, gặp lại bạn cũ trong tù, ngay lần
thăm nuôi đầu ở K2, Từ khoe:
“Có Thảo Trường ở đây. Gửi lời thăm em. Hai anh em ở cạnh
nhau. Được lắm.”
“Anh ta thế nào? Có ai thăm nuôi không?”
“Khỏe. Hắn bị bắt ngay tháng Tư 1975. Vợ con bên Mỹ cả. Có mấy
cô cháu lo thăm nuôi. Không đến nỗi nào.”
Bị bắt ngay tháng Tư 1975. Sao trong cuốn tiểu thuyết công
an “Vụ Án Hồ Con Rùa”, sau đó cả năm, Trần Duy Hinh còn được phong chức
tư lệnh kháng chiến quân trên rừng núi Tùng Nghĩa? Tôi tự hỏi rồi tự cười mình:
Ngố. Có vậy mà cũng ngạc nhiên được. Tiểu thuyết công an mà.
Trần Duy Hinh là tên thật của Thảo Trường. Anh là sỹ quan
trong quân đội VNCH. Sau hiệp định Paris, có lúc là thành viên của Ủy ban Quân
Sự Hai Bên, lo việc trao đổi tù binh, trước 1975, từng có dịp ra Hà Nội thăm
nhà tù Hỏa Lò.
Còn nhớ lần thăm nuôi ấy, khi ra về, cũng ngay khúc đường rừng
này thôi, đang đi, bỗng có tiếng quát:
“Chị kia. Đứng lại.”
Giật mình. Đúng kiểu vệ binh cộng sản.
Từ sau khóm cây bên đường, có người nhô ra: tóc tai, râu
ria, nón rộng vành, rựa dài đeo trên vai. Một người rừng chăng?
“Muốn qua thì phải nạp tiền mãi lộ. Ta là tướng cướp chân
núi Mây Tào đây!”
Rồi:
“Nhã Ca phải không? Sợ chưa?”
Một nụ cười quen thuộc hiện ra. Chính là Thảo Trường. Phì cười:
“Làm giống gì mà ra đây được? Tù tự giác à?”
“Hà hà... Ta đây, núi Mây Tào giang san một cõi. Giống
tướng cướp chưa? Sợ hả?”
Chỉ là một anh khổ sai xách rựa đi rừng đốn tre. Biết tin có
bạn tới, lén ra đón đường chờ gặp. Tù rạc cả chục năm mà đòi giống tướng cướp nỗi
gì. Coi chừng. Bọn cán bộ mà thấy, cùm là cái chắc.
“Khỏe không?”
“Khỏe re. Gặp Từ rồi chứ? Các bạn bên ngoài ra sao? Có hy vọng
gì không?”
“Hy vọng chứ.”
Cả lô câu hỏi. Đáp ngay là hy vọng, kỳ thực chẳng biết là hy
vọng chỗ nào. Chỉ cùng đi một đoạn đường ngắn. Chẳng nói thêm được gì. Có tiếng
xôn xao phía trước. Vậy là “tướng cướp núi Mây Tào” phải biến vào rừng lại.
Mới đó, đã hơn một năm rồi. Biết bao nhiêu chuyện.
Lê được mấy túi đồ thăm nuôi qua đoạn đường mòn, mắt đã nổ
đom đóm vì mệt. Nhà thăm gặp K2 lợp lá, trống trải, nền đất, có mấy dãy
bàn và băng ghế dài. Lại chờ. Thêm một lần thủ tục nữa. Qua buổi trưa. Kẻng lao
động. Từng đoàn tù rách rưới xuất trại. Kìa, toán tù được gặp thân nhân, ăn mặc
lành lặn hơn, sắp hàng một, ra sau cùng.
Phải thủ tục đầu tiên đã. Đem số thư từ con cái viết gửi lên
cho bố, đặt lên bàn cán bộ. Thôi thì cũng phải như mọi người để được yên ổn
trong mười lăm phút gặp gỡ, chuyện trò mà không bị làm khó dễ: dưới mớ thư từ,
tờ báo Giải Phóng ôm gói thuốc lá ba con số năm.
Đoàn tù đã vào tới. Ngồi xuống. Nhìn. Cười. Coi kìa, bàn tay
đặt lên bàn. Những vết chai cứng trên bàn tay khổ sai.
“Bình tĩnh. Cho anh biết tin con ra sao.”
“Yên rồi. Con đã gửi thư về.”
Một hơi thở ra. Hơi thở đã bị nén lại, bị nuốt xuống.
Mười năm thăm nuôi, cảnh này đã tái diễn mấy lần. Đánh tư sản,
mẹ con tan tác, biệt tích một năm. Lũ nhỏ vượt biên lần thứ bảy bất thành, Sớm
Mai đi khổ sai ở Đồng Phú 18 tháng. Mới đây thằng con trai vượt biên lần thứ mười.
Đường bộ. Sáu tháng kẹt cứng trên đất Miên. Gần nửa năm, chỉ có mấy đứa con
thay nhau thăm nuôi bố. Tôi biết mình không thể ngồi thẳng được trước mặt anh ấy,
cũng chẳng thể trả lời được thành tiếng. Đành phải lánh mặt. Hơi thở bị nén xuống
suốt bao nhiêu năm tháng, mãi bây giờ mới bật ra được, như một cơn gió
mát.
“Thư con ra sao?”
“Thư gửi từ Thụy Điển.”
“Tội nghiệp em.”
Lại nhìn nhau. Anh ấy hiểu mà. Tôi đã làm gì suốt mấy tháng
qua? Ngày đi từ nhà ở ra chợ, rồi từ chợ trở ngược về nhà, đi không để làm gì hết.
Đêm, cùng quẫn một mình với những điếu thuốc cháy đỏ. Thằng con đi đường bộ,
sang Cam-pu-chia, luồn lách tìm đường sang biên giới Thái. Con đường biên giới
gài kín mìn chông, chưa kể những trận đụng độ giữa bộ đội Việt cộng với lính
Miên, lính Thái. Nhận thư con, chỉ còn sức bò lê dưới nền nhà.
“Con nó thoát qua biên giới bằng cách lẫn vào một đàn
trâu... Nó bị rơi vào kháng chiến quân Cam-pu-chia. Bị bắt giữ. Một sĩ quan
Thái đã cứu nó, đưa vào trại tỵ nạn. Người bạn của chúng ta đã kịp thời báo cho
sứ quán Thụy Điển ở Thái Lan. Chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng, con được đưa
thẳng sang Thụy Điển. Nó đã gặp ông Thomas và Marianne của Pen. Có thư của con
và thiệp của ông Thomas gửi bố.”
Trên bàn cán bộ, gói thuốc đã khui, một tên đang đứng phía
ngoài cửa phì phèo. Cán bộ còn lại chăm chú kiểm duyệt thư. Tiếng rì rầm, chuyện
trò rôm rả xunh quanh. Tấm bưu ảnh của thằng con gửi về được đặt vội lên
bàn.
“Thưa Ba Mẹ,
Con đang ngồi ở bàn viết của ông Thomas tại Stockholm. Cả
ông lẫn bà đang đứng đằng sau lưng con để gửi lời thăm Ba Mẹ. Ông Thomas, bà
Marianne đã dẫn con đi thăm thành phố. Ông Thomas bảo con nhắc ba giữ sức khỏe.
Tất cả đều đang hết lòng lo cho Ba và các bác, các chú bên nhà. Ông bà Thomas
cùng ký tên với con, nói là mong sớm gặp Ba Mẹ.”
“Có chữ ký của ông bà Thomas, anh thấy không?”
“Anh thấy.”
Thomas Von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch Văn
Bút Thế Giới, hiện là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế Các Nhà Văn Bị Cầm Tù. Marianne
Eyre là Tổng Thư Ký Văn Bút Thụy Điển.
Tấm bưu ảnh được lật lại: mặt hồ và cảnh rừng tĩnh lặng,
phong cảnh đất nước Thụy Điển thanh bình. Những tấm lòng rộng mở. Anh ấy cười.
Nụ cười lạ, làm lấp lánh giọt nước mắt trên khuôn mặt đen đủi. Gần ba mươi năm
biết nhau, đây là lần đầu tiên anh để tôi nhìn thấy nước mắt.
“Tin tức về các bạn thế nào?”
“Anh Ba Tiệp, cô Chín, bà Simpson... vẫn liên lạc đều. Thủ
tướng Olof Palme, người bảo lãnh cho gia đình mình có giấy nhập cảnh vừa bị ám
sát chết. Em có gửi được thư phân ưu cho ông Thủ Tướng mới. Tom Hansson, nhà
báo Thụy Điển hiện đang có mặt ở Sài Gòn, có cho biết ngoại trưởng Thụy Điển sắp
tới Hà Nội.”
“Đã tìm được cách nạp hồ sơ chưa?”
“Không có cách nào hết. Giấy nhập cảnh Thụy Điển đóng con dấu
vương miện hoàng gia màu tím. Mang nạp, bọn chúng bảo giấy gì mà con dấu giống
cái chùa, không phải giấy thật.”
“Tom có hẹn gặp lại không?”
“Có hẹn sẽ trở lại ngày mai. Tom muốn biết tin tức về
anh.”
Tom Hansson là nhà báo nổi tiếng của Thụy Điển thường lui tới
Việt Nam. Từ mấy năm trước, do bạn bè trong PEN và Amnesty gửi gấm, Tom tới
thăm tận nhà, thu thập những chi tiết về các nhà tù Việt Nam. Từ có biết chuyện
này.
“Tiếng Anh của Sớm Mai khá chưa?”
“Khá, có thể đủ để nói được mọi chuyện.”
“Con đã thoát. Mớ chỉ rối của chúng ta vậy là đã gỡ được nút
đầu tiên. Không có gì phải lo lắng, sợ hãi nữa. Ta pi đi. Một sống hai chết. Cần
xử sự xứng đáng với tấm lòng tốt đẹp bạn hữu đã dành cho con ở Stockholm. Đừng
để nó phải xấu hổ. Hai mẹ con thu xếp gặp Tom. Nói cho hết những điều cần nói.
Yêu cầu Tom ghi rõ tên họ, ngày tháng, cho làm lớn trên báo. Muốn tới đâu thì tới.
Ý em thế nào?”
Còn thế nào nữa. Nhìn nhau. Gật đầu. Bây giờ mới hỏi thăm được
các bạn:
“Anh Hinh, anh Tế ra sao?”
“Yên cả. Không sao đâu. Hinh muốn có cuốn Qui Luật Của Muôn
Đời, sách dịch của nhà văn Nga Đum Ba Giê. Em chịu khó kiếm cho anh ấy.”
Có tiếng hô lớn:
“Thân nhân bắt đầu đăng ký gửi tiền cho trại viên.”
Giờ thăm gặp sắp hết. Ở bàn đầu, thân nhân thăm nuôi đã lục
tục kéo lên bàn cán bộ làm thủ tục gửi tiền.
“Lần thăm nuôi trước, lúc vào, nghe tin cán bộ trại giữ em lại
làm việc?”
Chuyện từ mấy tháng trước. Giờ thăm nuôi bị rút ngắn. Vào một
phòng nhỏ. Cán bộ trưởng trại đích thân gặp. Có trà nóng mời uống.
“Chẳng có gì đâu. Đài BBC loan tin anh và anh Tế đang bị
hành hạ trong trại tù. Họ bảo anh phải ở đội lao động nặng chỉ vì chưa tự giác,
em phải động viên anh để anh an tâm cải tạo. Trưởng trại hỏi em có muốn anh là
người sẽ trở về sau cùng không.”
“Em trả lời sao?”
“Em nói anh không phải là người trở về sau cùng. Người về
sau cùng sẽ chính là cán bộ. Vì còn một người tù, cán bộ phải còn ở lại chăm
coi tù.”
Lại ngó nhau, cười. Tấm bưu ảnh được bỏ lại vào bóp.
“Em thay anh trả lời, cám ơn.”
“Em đã viết thư trả lời, cám ơn xong rồi.”
Trời mưa. Lắc rắc thôi, vậy mà con đường lội bộ trở ra đầy
sình. Bên đường, ngang qua khu ruộng bắp èo uột, có một mái nhà tranh. Đây là
nhà lô, chỗ cất xẻng cuốc của một đội khổ sai nào đó. Lần trước khi đi qua, thấy
có đống lửa. Một đoàn tù đứng ngồi lổn ngổn trong nhà, ngoài sân, chắc đang giờ
giải lao. Bây giờ, trong mưa, căn nhà trống trải tưởng như chỉ chờ thêm một cơn
gió nhẹ nữa là xụm xuống.
Không thấy tướng cướp núi Mây Tào xuất hiện.
***
Trên đây là một trích đoạn “Hồi Ký Một Người Mất Ngày
Tháng”.
Năm 1988, Từ ra khỏi nhà tù, chúng tôi sang Thụy Điển. Trần
Duy Hinh vẫn rừng lá, trong số 10 người tù cuối cùng, ở đủ 17 năm.
Mấy tháng trước khi rời đất nước, một vài lần, trong lúc Từ
đi thăm Tú Kếu, tôi đi thăm nuôi Thảo Trường ở trại Hàm Tân. Vẫn K2, vẫn con đường
ngoằn ngoèo, vẫn những cây kè tàng lá bị cắt lên tận ngọn, lấp ló mấy cái lán
tù lợp lá tả tơi, mãi chưa chịu xập.
Chúng tôi sang tới Thụy Điển. Thảo Trường đưa lén cho cô
cháu thăm nuôi gửi sang tận nơi mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay, ghi nguệch ngoạc mấy
chữ thăm hỏi. Năm 1989, lại một mảnh thư báo tin đang bị bịnh tim, nằm bệnh
xá trại tù Hàm Tân. Buồn. Chỉ muốn chết. Buồn muốn chết mới đúng. Bạn bè, nhà
văn, nhà tù đã lần lượt chết, hoặc được thả ra. Đâu còn ai nữa.
Đó là mấy tờ thư tôi còn giữ.
Bệnh cũng không chết. Buồn cũng không chết. Mãi tới 1992 mới
gặp lại ở Mỹ. Từ đó, không bao giờ Thảo Trường gọi tôi bằng tên Nhã nữa. “Anh
ta”, Thảo Trường chỉ tôi, nói với Từ và chọc: “Cuối cùng anh ta vẫn phải chịu
thua thằng cá sấu.” Đó là những cái tên chúng tôi gọi nhau trong tình
thân.
Tôi có tới căn nhà ở Huntington Beach thăm chị Thảo Trường,
nhìn thấy chị. Cao, gầy, mảnh mai như cây sậy mà đầy nghị lực. Không vậy sao có
thể một mình đem bầy con đi Mỹ, nuôi nấng lớn khôn, còn chăm những thùng đồ về
Việt Nam nuôi ông chồng 17 năm tù.
“Bà ơi! Lúc đi tôi có đem theo một cọng rau húng nhũi. Bây
giờ nó đầy một vườn sau kìa. Bà bứt một vài dây về trồng, nó còn giữ mùi đất
cũ, thơm lắm.” Trong lúc hai ông ngồi riêng, chị kéo tôi ra vườn rau, bắt kể
chuyện những lần đi thăm nuôi ông Từ, ông Hinh ở Hàm Tân.
Chúng tôi vẫn gặp nhau. Cho tới những ngày cuối của Thảo Trường,
hai ông bạn vẫn bàn chuyện sách vở, chữ nghĩa. Một lần, Thảo Trường bước vô tòa
soạn Việt Báo.
“Anh ta đâu rồi?”
“Tôi đây”.
“Anh ra ngoài gặp bà lão một chút.”
Bà lão nào? Tôi ra xe. Chị Thảo Trường tươi cười:
“Bận coi đứa cháu ngoại, không vô thăm chị được.”
Một đứa nhỏ kháu khỉnh, nằm trong cái xe xách, buộc phía
băng ghế sau, bên cạnh bà ngoại. Thì ra, khi lên chức ông bà, Thảo Trường gọi vợ
là bà lão.
Chị Thảo Trường đi trước.
Không bao lâu, bạn tôi đi theo. Làm như sợ hụt nhau trong
chuyến đò qua sông.
Nghe tin bạn ra đi, Từ và Nguyễn Xuân Nghĩa chạy vội lại
nhà.
“Con cháu đông đủ. Trước khi vô phòng ngủ trưa, còn cười vui
với bà chị vừa từ xa về thăm. Vậy mà đi luôn. In hệt đang ngủ ngon trên giường.
Ôm hắn, thấy như còn hơi ấm, mặt mũi tỉnh queo...” Từ kể, sau khi đến
thăm bạn lần cuối.
Vậy là ông lão, bà lão lại cùng một chuyến đò.
Sông tỉnh hay sông mê vẫn có nhau như thường.
Cầu chúc hai bạn tôi an lạc.
