Áo dài là y phục cổ truyền của người Việt Nam, đàn ông cũng như đàn bà. Bài này cho các ông ra rìa, chỉ nói tới áo dài của các bà. Kể ra các ông cũng chẳng ghen tỵ chi được vì nói tới áo dài là người ta thường nghĩ tới sự mượt mà, uyển chuyển dịu dàng của phụ nữ. Các ông cũng chẳng mặn mòi chi với áo dài vì khi nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, đa số các ông sống ở thành thị đã phụ áo dài để mặc đồ tây.
Trước thập niên 1930, y phục của phụ nữ Việt Nam có màu u tối,
nâu hay đen. Áo lùng thùng ba bốn tà, quần thì rộng, phần lớn chân đi đất, chỉ
có số ít đi hài mũi vểnh lên cong tít. Đầu thập niên 1930 chiếc áo dài thuần
túy bắt đầu thay đổi, giới phụ nữ dùng vải nhều màu sắc hơn. Tới năm 1934, họa
sĩ Nguyễn Cát Tường mới tung ra một loạt các mẫu áo dài tân thời dưới cái tên
Le Mur, cái tên được Pháp hóa từ tên Cát Tường. Áo dài Le Mur là sản phẩm của họa
sĩ Cát Tường, đúng phóc. Nhưng có một bàn tay phụ nữ góp phần không nhỏ vào việc
canh tân áo dài này. Đó là bà Nguyễn Thị Nội, phu nhân của ông. Cuộc tình của
hai ông bà cũng là một biến cố lạ lùng trong thời đại của họ.
Trong một lần ra ga Hàng Cỏ đón ông chủ xưởng dệt ren ở Bắc
Ninh lên, ông họa sĩ Cát Tường ngó ngang ngó dọc tìm ông khách nhưng mắt ông lại
chôn chặt vào bóng một cô gái đi ngang. Cô gái không trang điểm, đầu chít khăn
xô đại tang nhưng vẫn toát ra một vẻ đẹp hiếm có khiến anh họa sĩ trẻ ngẩn ngơ.
Xã hội thời đó còn quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân nên anh chàng chịu chết,
không dám tỏ lời ong bướm. Anh ranh mãnh đi lối tắt: viết vài chữ nhờ ông phu
xe trao cho cô gái. Thư đi tin lại vài lần, tốn ít tiền bạc hối lộ cho ông phu
xe, anh được ông cho biết nàng hẹn gặp anh tại ga Hàng Cỏ vào cuối tuần. Chuyến
tàu Bắc Ninh – Hà Nội cuối tuần đó có một chàng trai ăn mặc bảnh chọe đứng đón.
Cô gái xuống tàu với hai va ly to đùng. Anh nhào tới, cúi chào điệu nghệ kiểu một
công tử Hà thành chính hiệu. Cô gái ngơ ngác không nói chi. Dù sức của chàng họa
sĩ chẳng bao lăm, chàng cũng trân mình xách hai chiếc va ly đi theo cô gái. Cô
gái đi trước, chàng hai tay nhấc va ly theo sau. Ra khỏi cửa ga, nàng đi thẳng
vào đồn cảnh sát. Chàng ngỡ ngàng nhưng cũng theo vào. Cô gái tới gặp một ông cảnh
sát và trình: “Ông này lấy cắp hai cái va ly của tôi!”. Chàng họa sĩ ngã ngửa
người không biết nói sao. Cuối cùng chàng móc túi đưa mấy lá thư của ông phu xe
trao cho trước đây ra để xác định hai người có biết nhau. Cô gái nhìn mấy lá
thư cãi lại: “Không phải chữ của tôi!”. Cô mượn giấy bút của cảnh sát để viết
ít chữ so sánh. Chữ của cô hoa mỹ gấp trăm lần chữ trong mấy bức thư. Cảnh sát
cho cô nhận hai cái va ly và ra về. Chàng trai Cát Tường bị giữ lại để tường
trình sự việc. Cuối cùng anh phải nhờ nhà văn Nhất Linh, thời đó rất nổi tiếng,
đến bảo lãnh về. Chàng mới vỡ lẽ là đã bị ông phu xe lừa, tự viết giả thư của
người đẹp để kiếm chút tiền thưởng.
Cô gái tên Nội về lại Bắc Ninh kể sự việc cho mẹ nghe. Bà chủ
tiệm ren tức giận kẻ đã bôi nhọ thanh danh con gái rượu của bà vì “viết thư cho
trai” nên đâm đơn kiện. Mặc dù bị ông phu xe lừa nhưng trước tòa, họa sĩ Cát Tường
vẫn bị phần lỗi. Tòa xử anh phải bồi thường một đồng danh dự cho cô Nội.
Chuyện tưởng đã kết thúc nhưng chưa. Ngẫm ra câu “hữu duyên
thiên lý năng tương ngộ” đúng ra phết. Ít lâu sau, chàng họa sĩ được mời xuống
Bắc Ninh trong một thương vụ quan trọng. Chàng tới gặp đối tác. Bất ngờ người
ra rót nước mời khách lại là cô Nội. Họ nhận ra nhau nhưng làm lơ. Bà mẹ chính
là đối tác với họa sĩ Cát Tường trong thương vụ này. Bà rất mến trọng tài năng
của chàng trai trẻ và vừa lòng với cách ăn nói lễ độ và khiêm nhường của chàng.
Cảm tình khiến bà muốn kén chàng làm rể. Cuối năm 1936, sau khi mãn tang chồng,
bà tổ chức đám cưới hết sức đình đám tại Bắc Ninh cho con gái. Trong ngày vu
quy, cô dâu mặc chiếc áo dài do chú rể sáng tạo riêng cho nàng. Vốn con nhà
buôn bán, cô Nguyễn Thị Nội đã là một cánh tay đắc lực giúp chồng phát triển áo
dài Le Mur tại Hà Nội. Tiệm may Le Mur ở số 16 phố Lê Lợi tấp nập khách hàng tới
may áo dài Le Mur.
Người phụ nữ thứ hai góp công phổ biến áo dài Le Mur là cô
Nguyễn Thị Hậu, sanh năm 1919, khi đó mới 16 tuổi. Thoạt đầu phụ nữ ngại mặc áo
Le Mur vì mới quá và hơi hở hang với tính e dè của phụ nữ. Thêm vào là dư luận
công chúng không có thiện cảm với chiếc áo dài mới này. Ngay nhà văn Vũ Trọng
Phụng cũng đưa ra ý kiến đây là thói học đòi lệch lạc với thuần phong mỹ tục,
không thể hiện được “tính cách Việt Nam”. Cô Hậu là một người mẫu chuyên chụp
hình đăng báo đã bất chấp dư luận, mặc quảng bá chiếc áo dài Le Mur. Cô gái với
tuổi trăng tròn lẻ này khi đó đang theo học ngành luật, tốt nghiệp và trở thành
Luật sư. Năm 1966, bà luật sư 47 tuổi được bổ nhiệm làm Thị Trưởng thành phố Đà
Lạt. Người tiền nhiệm của bà là Đại Tá Trần văn Phấn, Tỉnh Trưởng tỉnh Tuyên Đức
kiêm Thị Trưởng Đà Lạt. Bà là nữ thị trưởng duy nhất của Việt Nam và đã biến đổi
bộ mặt của thành phố Đà Lạt thành một thành phố hoa diễm lệ. Bà cho mua hạt giống
các loại hoa về trồng rải rác khắp hai bên đồi thông của dinh tỉnh trưởng và tại
các thắng cảnh của thành phố. Trong suốt cuộc đời từ khi làm người mẫu tới lúc
làm Thị Trưởng Đà Lạt, bà luôn mặc áo dài.
Trở lại với áo dài Le Mur, một cải cách táo bạo của họa sĩ
Nguyễn Cát Tường, ông đã phát biều như sau trên tuần báo Phong Hóa, số 86, ra
ngày 23/2/1934: “Áo dài cho các bạn gái phải như thế nào? Trước hết, nó phải
hợp với khí hậu xứ ta, phù hợp với thời tiết các mùa, phù hợp với công việc,
phù hợp với khuôn khổ, phù hợp với mực thước của từng thân hình, và phải gọn
gàng, giản dị, mạnh mẽ, đồng thời phải có vẻ mỹ thuật và lịch sự. Tuy nhiên, điều
quan trọng là nó phải mang cái tính cách riêng biệt của nước nhà. Các bạn là phụ
nữ Việt Nam, vậy nên áo dài của các bạn cần phải có một vẻ đẹp riêng biệt để
không bị nhầm lẫn với phụ nữ nước ngoài… Hãy cùng để ý xem áo hiện thời của các
bạn có điều gì không tiện lợi và thừa thãi không? Mỗi thân thể con người đều có
hình dáng riêng, vùng nở và chỗ thắt hợp với nhiều khía cạnh về mỹ thuật, không
thể coi như trơn tuột như cái hộp kẹo sìu hay ống bột Nestle. Vì thế, áo dài phải
điều chỉnh để phù hợp với người mặc, phải có đường lối văn minh, để vẻ đẹp ấy mới
có thể hiện ra bên ngoài. Ngoài ra, kiểu mẫu áo dài cũng cần phải tùy theo từng
người mà điều chỉnh thêm bớt. Ví dụ như áo cho người gầy cần nhiều nếp gấp (xếp
ly) để thêm phần sự phong phú, trong khi áo cho người mập cần để lẵng để trông
tôn dáng khiêm nhường hơn. Để các bạn hiểu rõ hơn về những điều chỉnh và thêm bớt
đó, tôi sẽ tiếp tục giới thiệu những mẫu kiểu áo mà tôi đã nghĩ ra…”.
Trong từ điển Oxford có từ “áo dài” được ghi là “loại trang
phục của phụ nữ Việt Nam với thiết kế hai tà áo trước và sau dài chấm mắt cá
chân, che bên ngoài chiếc quần dài”. Mô tả này đích thị là áo dài Le Mur. Trên
báo Ngày Nay số 1, đầu xuân 1935, nhà văn Thạch Lam, dưới bút danh Việt Sinh,
đã giải thích tại sao cần cải cách y phục phụ nữ : “Vật chất chất thường
bao giờ cũng đi trước tinh thần và tư tưởng của phụ nữ. Sự cải cách này giúp và
cần yếu cho sự cải cách kia”. Họa sĩ Cát Tường cũng viết trên báo Phong Hóa số
86 : “Các nhà đạo đức thường nói quần áo chỉ là những vật dùng để che mưa
nắng, nóng lạnh, ta chẳng nên để ý đến cái sang cái đẹp của nó làm gì (...).
Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể song nó có thể là tấm gương phản
chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ,
có mỹ thuật hay không, cứ xem y phục của người nước họ cũng đủ hiểu”.
Cha đẻ của áo dài Le Mur còn có nhiều cải cách các phụ kiện
đi đôi với áo dài nhằm tôn vinh vẻ đẹp của áo dài tân thời. Ông nói: “Nói
ra sợ không ai tin, điều quan trọng nhất của y phục phụ nữ là chiếc quần. […] Từ
cạp đến đầu gối nên thu hẹp bớt để vừa khít với thân hình, như thế những vẻ đẹp
thiên nhiên của từng người mới lộ ra được. Còn từ đầu gối trở xuống đến chân,
hai ống quần lại phải may rộng dần ra để khi đi đứng cái dáng điệu của các bạn
được tăng thêm vẻ nhẹ nhàng”. Đôi hài của phụ nữ xưa cũng đã được ông
thay thế bằng guốc cao gót. Rồi áo yếm, đồ lót cho hợp với áo dài. Ngoài áo dài
ông còn vẽ kiểu cho áo mặc mùa hè, áo cánh, áo khoác đi biển, áo tắm.
Áo dài Le Mur đã xóa sổ chiếc áo dài tứ thân lụng thụng xưa
rích xưa rang. Ngay tại Huế, vùng đất thần kinh nệ cổ, áo Le Mur cũng được phổ
biến đến đặt thành vè:
Tài sáng tạo của họa sĩ Nguyễn Cát Tường còn phong phú hơn
nhiều. Trong bài “Bố tôi, họa sĩ Le Mur Nguyễn Cát Tường” được phổ biến vào năm
2006, ông Nguyễn Tất Đạt, con trai của họa sĩ Le Mur, đã tiết lộ : “Tôi
đã được xem nhiều kiểu áo mà bố tôi vẽ vào cuối thập niên 30 nhưng cho tới ngày
nay vẫn chưa có ai dám mặc vì nó “ tân tiến quá”: hở cổ, hở vai, hở
ngực. Những kiểu áo đó nằm trong tập tài liệu quý giá mà mẹ tôi đã nâng niu và
cất giữ từ mấy chục năm nay. Những lúc nhớ chồng, bà thường mở ra để nhìn lại
những hình ảnh cũ, những kỷ niệm xưa nay đã nhạt nhòa trong nước mắt. Không
may, tất cả những tài liệu này, tài liệu duy nhất mà mẹ tôi đã cẩn thận cất giữ
từ khi bố tôi ra đi đã bị thất lạc trong biến cố 1975”.
Nói về tích cách táo bạo trong các mẫu áo dài mà ông Nguyễn
Tất Đạt để cập tới, chính họa sĩ Cát Tường đã có lần biện bạch :“ Sở
dĩ tôi cho hơi chật ở chỗ bụng là vì tôi muốn phân biệt rõ ràng phần ngực với
phần bụng. Trái hẳn với ý tưởng của một vài nhà đạo đức Việt Nam, người Tây Âu
đều cho bộ ngực cần nhất cho nhan sắc phụ nữ. Một người con gái đẹp mà “không
có ngực”, nghĩa là ngực lép kẹp như chiếc đồng hồ Omega thì không thể nào gọi
là một người đẹp hoàn toàn được. Có người khi trông thấy một thiếu phụ có bộ ngực
nở nang thường ra chiều mai mỉa,vì họ cho thế là chướng, là lẳng lơ. Đối với
người đó nếu ta đem ý tưởng Âu Tây, tinh thần mỹ thuật ra giảng, chắc họ không
khi nào chịu hiểu. Họ có biết đâu rằng chính người mình cũng hay dùng
câu : thắt đáy lưng ong để tả một người con gái đẹp. (Một số báo sau tôi sẽ
có bài nói về cách luyện bộ ngực cho được nở nang). Từ bụng trở xuống, ta nên
thu hẹp lại cho mất vẻ lòa xòe”.
Để thực hiện những tư tưởng phóng khoáng về toàn cảnh xã hội,
họa sĩ Cát Tường đã vung tay thành lập nhiều cơ sở thực tiễn. Ngoài tiệm may Le
Mur chuyên may và giới thiệu những kiểu áo mới nhất, còn có phòng trà Thiên
Hương tại 14 phố Hàng Da, tiệm hớt tóc và tắm nước nóng nam, một xưởng làm guốc
cao gót, một cửa hàng cho thuê khoảng 30 chiếc xe tay và xích lô, một xưởng chế
tạo đồ chơi trẻ em làm bằng gỗ. Ông đã có sáng kiến tạo ra những khối bằng gỗ
có thể ráp nối nhau thành đồ chơi, tương tự như đồ chơi Lego ngày nay.
Nhưng ngày nay chúng ta chỉ biết tới Le Mur là nhờ chiếc áo
dài cải cách. Áo dài đã phủ hết những cải cách khác của ông. Ông Nguyễn Tất Đạt,
con trai họa sĩ Cát Tường, đã có một kỷ niệm vui về chiếc áo dài của bố ông.
Nhân một lần về thăm lại Hà Nội, ông tới ăn tại nhà hàng Thủy Tạ. “Gọi thức
ăn xong nhìn quanh tôi đã thấy thực khách ngồi đã gần đầy.Trên một sân khấu nhỏ,
dưới ánh đèn màu tươi sáng, dăm ba thiếu nữ mặc quần áo kiểu xưa đang hát các
bài quan họ Bắc Ninh cho thực khách thưởng lãm. Xế bàn chúng tôi bên kia lối đi
có một đôi vợ chồng người ngoại quốc đang ngồi ăn. Bà ta có mái tóc óng vàng
làm nổi bật khuôn mặt trắng trẻo. Đặc biệt là bà ta mặc một chiếc áo dài Việt
Nam, chiếc áo dài màu tím có điểm những hoa cúc nhỏ thật nhã. Tôi ngắm bà ta rồi
tôi lại nhìn lên sân khấu. Tôi thấy ngay đây là một cơ hội hiếm có: một người
ngoại quốc mặc chiếc áo dài Le Mur trước một sân khấu có các thiếu nữ Việt Nam
mặc áo tứ thân với chiếc yếm đỏ thắm. Một cảnh tượng rất tương phản và độc đáo.
Tôi đánh liều đứng dậy bước qua bàn cặp vợ chồng người ngoại quốc và xin phép
ông được chụp hình bà vợ của ông ta với chiếc áo dài Việt Nam. Tôi cũng tự giới
thiệu tôi là con của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, người đầu tiên đã biến đổi chiếc
áo tứ thân ra chiếc áo dài mà bà ta đang mặc. Bà ta nói:“Tôi không tin lời ông
nói. Chúng tôi mới từ Sài Gòn ra, tôi mua chiếc áo này ở trong đó, sao ông lại
nói chiếc áo này do bố ông vẽ kiểu”. Tôi đành phải cắt nghĩa cho hai vợ chồng
người Bỉ mà tôi mới quen. “Trước năm 1934 phụ nữ nước tôi đều mặc những chiếc
áo tứ thân như vậy. Sau đó bố tôi mới cải biến ra chiếc áo dài Le Mur mà bà
đang mặc và nó đã trờ thành chiếc áo dài phổ thông mà tất cả phụ nữ Việt Nam
bây giờ đều mặc”.
Bố ông Nguyễn Tất Đạt đã có một cái chết không bình thường,
tới nay vẫn còn là nghi vấn. Cuối năm 1946, ông mang gia đình rời Hà Nội tản cư
về làng Tràng Cát, xã Kim An, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Ngày 17/12/1946,
ông trở về nhà lấy thuốc men, quần áo cho các con và người vợ sắp tới ngày
sinh. Ông đã bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích. Gia đình lấy ngày
17 tháng 12 làm ngày giỗ hàng năm.
Sau khi ông bị bắt và biệt tích, bà vợ Nguyễn Thị Nội vất vả
nuôi năm con trong thời loạn. Có khi bà phải mang các con sang tận bên Lào để
tìm đường sống. Khi Hiệp Định Genève chia đôi đất nước vào năm 1954 được ký kết,
bà nấn ná chờ tin tức chồng nhưng chẳng vân mòng chi, bà di cư vào Nam trên
chuyến bay cuối cùng rời Hà Nội. Sau 1975, bốn con của bà qua Mỹ nhưng bà ở lại
Sài Gòn với cô con gái út. Bà mất vào ngày 21/12/1979, thọ 67 tuổi.
07/2025
Song Thao
