Trương Chi là người hát hay hoặc thổi sáo hay?
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm?
Kịch tính trong ca khúc.
Nhạc sĩ sử dụng “kịch tính” vào ca khúc với mục đích khơi dậy
những cảm xúc mạnh mẽ, căng thẳng, gây chú ý và thay đổi được khí hậu êm ả du
dương, hoặc ngược lại. Thể loại này được nhạc sĩ Richard Warner phát triển rất
thành công trong tác phẩm Quiet Heart and Spirit Wind. Mang kịch tính vào âm nhạc
là gia tăng và điều hành cườntg độ, nhịp độ, giai điệu để thể hiện những cảm
xúc mãnh liệt, với sự thay đổi đột ngột.
Chúng ta sẽ thấy bằng đôi tai, Văn Cao dẫn hành nhạc từ đầu, “Một
chiều xưa trăng nước chưa thảnh thơi…”, cho đến “Bao tiếng ca
ru mùa thu, bằng giai điệu êm ả khóa Re thứ (tông nhạc). Rồi đột ngột
ông chuyển sang khóa Sol trưởng với tiết tấu dồn dập. Đến câu “Đò ơi,
đêm nay…” ông chuyển về lại D thứ, hành nhạc phù hợp với lời tâm sự, rồi
bất ngờ ông cho vào những nốt F thăng và B bình, hóa D thứ thành ra D trưởng, để
bắt vào G trưởng: “Ngồi đây, ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng
ta…” Chỉ một câu G trưởng để vạch ra tâm sự riêng một góc mình. Liền sau đó
ông trở về với khóa D thứ để kết thúc, với một chút than trách rồi tự hỏi, bóng
thuyền Trương Chi ở đâu.
Ngoại trừ, những thay đổi với mục đích truyền đạt kịch tính,
trong phần đầu tuy dài nhưng ông thay đổi tiết tấu của câu nhạc khiến cho tai
nghe du dương mà không nhàm chán. Văn Cao chứng tỏ khả năng thâm hiểu nhạc lý
và thuần thục cách sử dụng để tạo cảm giác và cảm xúc. Nghệ thuật của nhạc
trong ca khúc là giai điệu. Đó là một đoàn tàu chợ chạy chậm rãi hoặc một chuyến
tàu tốc hành, chở những toa hàng chữ nghĩa chứa cảm xúc ghé đến sân ga những
tâm hồn thưởng ngoạn. Mỗi nhạc sĩ thành danh đều có phong cách sáng tác giai điệu
riêng, mà người nghe khó lầm lẫn. Nếu không có giọng nói riêng đó, người làm nhạc
vô tình mượn câu này của Trịnh Công Sơn, câu kia của Anh Bằng, câu nọ của Phạm
Duy, kết hợp với nhau thành một ca khúc mang chất lượng thập cẩm. Ví dụ như
nghe nhạc Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An… Không cần
biết trước tên tác giả, cũng có thể nhận ra.
Tận cùng của sáng tác nhạc là sáng tác giọng nói riêng của
mình. Giống như lấy vợ hay lấy chồng, phải tìm ra của riêng, không thể dùng của
chung.
Trong bài viết giới thiệu tập nhạc “Tình khúc mùa hè” của Thế
Hùng, Văn Cao viết: “… tìm cái đẹp. Không phải dễ dàng thấy được mình.
Muốn phá vỡ được quả trứng anh đã phải lao động nhiều khám phá nhiều trong thơ,
nhạc, họa. Nhưng cái thìa tìm ra để làm vỡ quả trứng không phải dễ.”
Cấu trúc của Trương Chi.
Chúng ta lướt qua phần nhạc để vào phần chính là ca từ. Ca từ
của Trương Chi chia làm bốn đoạn. Nội dung của ca từ khá dễ hiểu qua phân tích
văn học, nhất là khi hầu hết người đọc đều biết diễn tiến của câu truyện cổ
tích. Từ góc nhìn của chủ nghĩa Max và xã hội học, nội dung của ca từ lại có ngụ
ý khác.
Có hai Văn Cao qua ca khúc Trương chi.
Văn cao sáng tác ca khúc này từ năm 1940 nhưng không vừa ý với
ca từ và giai điệu. Mãi đến năm 1942, ông mới hoàn tất bản nhạc sau khi trải
qua cảnh nghèo đói, thất nghiệp và cha của ông qua đời. Năm đó, Văn Cao vừa 19
tuổi.
Qua cảnh ngộ và tâm tình Trương Chi, Văn Cao một là ai? Và
văn Cao hai muốn nói điều gì?
Đoạn 1.
“Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ / Trầm trầm
không gian mới rung thành tơ / Vương vất heo may hoa yến mong chờ / Ôi, tiếng cầm
ca thu tới bao giờ.
Rồi ông dẫn vào tâm sự của mình. Có phải Trương Chi là Văn
cao? Đúng như vậy, năm 1994 khi ca sĩ Ánh Tuyết trò chuyện với nhạc sĩ, đã hỏi
ông về nhân vật Trương Chi. Ông đã tiết lộ: “Trương Chi là tôi đấy.”
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang, / Chập chùng đêm khuya
thức ai phòng loan / Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng / Đây đó từng song
the hé đợi đàn.”
Đoạn 2.
Tác giả tiếp tục mở ra câu truyện nhưng khéo léo xen lẫn nhữnh
hình ảnh và ý tưởng hiện tại, tâm tình của ông vào cảnh truyện và diễn tiến
trong cổ tích.
“Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân / hò khoan mơ bóng
con đò trôi / giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung, / Anh
thương nhớ, / Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa sông vắng / Gió đưa câu ca về đâu? /
Nhìn xuống đáy nước sông sâu / Thuyền anh đã chìm đâu!
Thương khúc nhạc xa vời / Trong đêm khuya dìu dặt tiếng
tơ rơi. / Sương thu vừa buông xuống / Bóng cây ven bờ xa mờ xóa giòng sông.
Ai qua bến giang đầu tha thiết, / Nghe sông than mối tình
Trương Chi / Dâng úa trăng khi về khuya, / Bao tiếng ca ru mùa thu.”
Chất thơ thể hiện mạnh mẽ, sáng đẹp qua ca từ diễn đạt. Ông
giới thiệu Mỵ Nương rồi đến Trương chi. Tiếp tục với câu chuyện buồn thương.
Trương Chi đã chết “Thuyền anh đã chìm sâu.” Một không khí u
buồn, man mác, tiếng tơ rơi, dâng úa trăng, mờ xóa giòng sông… và mang theo nỗi
niềm.
Nỗi niềm?
Đúng, bất kỳ là sáng tác thơ, nhạc hay văn, đều phái sinh từ
một nỗi niềm nào đó. Những sáng tác thiếu gốc này, thường bịa chuyện hay hư cấu
phất phơ, lăn lóc theo chiều gió như ngọn cỏ bồng, vào trăm đường thất lạc.
Rời khỏi câu truyện, “Ai qua bến giang đầu,” nghe nhắc lại
chuyện tình cổ lụy. Văn Cao không kể chuyện trái tim Trương Chi trở thành chén
trà để vỡ tan vì giọt nước mắt của Mỵ Nương. Ông ngừng ở đó, không có kết cuộc,
dĩ nhiên là có ngụ ý.
3.
“Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn / Còn nghe như ai nức
nở và than, / Trầm vút tiếng gió mưa / Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn
chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn / Về phương xa ai
nức nở và than, / Cùng với tiếng gió vương, / Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in
bóng đò xưa.”
Cảm xúc buồn bã, thất lạc, mất mát, băn khoăn, có thể cảm nhận
rất dễ dàng qua những câu hát. Câu hỏi: “ai có buồn chăng?” là
hỏi ai? Người nghe? Không phải. Ông tự hỏi ông có buồn không trong một cảnh ngộ
như vậy. Nhưng câu hỏi này không phải là câu vấn mà là câu đáp.
4.
Đoạn này, tâm sự của ông càng rõ ý. Ngồi gõ ván thuyền, dưới
trăng đánh nhịp để ca, trái đất là của riêng mình. Tỏ lộ hào khí của một người
thất thời thất chí. Hình ảnh của Lý Bạch, của những tài năng bị thất sủng, cùng
túng với tấm lòng ‘nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ. (Hồ Trường)
“Đò ơi! đêm nay dòng sông Thương dâng cao / Mà ai hát dưới
trăng ngà / Ngồi đây ta gõ ván thuyền, / Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu / Trách ai khinh nghèo quên nhau, / Đôi lứa
bên giang đầu. / Người ra đi với cuộc phân ly, / Đâu bóng thuyền Trương Chi?”
Vào lúc kết, ông chấm dứt bằng tứ văn: Cùng một giang đầu,
sao lại khinh nghèo mà quên nhau. Ai vậy? Có phải ám chỉ một người tình xưa nào
không?
Có người nói rằng không. Văn Cao không có nhiều thất tình và
được tình như bạn của ông, Phạm Duy. Năm 1993. Khi được nhà nghiên cứu Nguyễn
Nhã hỏi về cuộc đời tình ái, ông nói; “Tôi không được như anh Phạm Duy,
anh ấy có nhiều quá, mà tôi chỉ có một. Có lần có người hỏi tôi về những mối
tình, tôi mới nói là tôi làm gì có mấy cái tình, mà nếu có thì cũng toàn là
tình mộng mơ cả chứ không thành người tình.”
Có người nói có. Họ cho rằng, trước đó, Văn Cao đã có mối
tình với cô Hoàng Oanh, sau là vợ của nhạc sĩ Hoàng Quí. Nhưng không thành và
ông đã viết ca khúc “Bến Xuân” năm 1942 như một lưu tích. Phạm Duy tham dự vào
việc viết ca từ với Văn Cao. Tác giả cũng hoàn tất “Trương Chi” trong năm 1942.
Hoàng Oanh là tiểu thư con nhà giàu. Ca sĩ Kim Tiêu đã từng mang lễ vật đến hỏi
cưới Hoàng Oanh nhưng thất bại vì gia đình nhà gái thách cưới quá cao. Văn Cao
còn nghèo hơn cả Kim Tiêu. Có lẽ. “trách ai khinh nghèo quên nhau” cũng là tâm
sự của Văn Cao.
Có người khác lý luận, không phải vậy. Văn Cao và Hoàng Oanh
không chính thức là tình nhân dù “tình trong như đã, mặt ngoài còn e.” Và lý
do, Văn Cao không tiến đến vì “… mối tình của Văn Cao và Hoàng Oanh
không thành cũng một phần bởi Văn Cao – vốn là một con người cao thượng, luôn
nghĩ đến hai người bạn thân của mình, ông không muốn làm “kẻ ngáng đường” (Phạm
Vũ kể, Giai thoại về mối tình cao thượng, dang dở.) Kim Tiêu và Hoàng
Quí, hai người bạn này đều say mê Hoàng Oanh.
Không lý nào một người cao thượng như vậy lại oán trách người
tình? Vả lại, Văn Cao chưa chính thức tỏ tình thì lào sao biết bị từ chối?
Từ những giải mã không minh bạch này, chúng ta có thể giải
mã Trương Chi qua một khía cạnh khác.
Văn Cao và Trương Chi trong thời cuộc.
Theo góc nhìn của chủ nghĩa phê bình Max và chủ nghĩa xã hội.
Đoạn 1 và 2 liên quan nhiều đến cổ tích dù truyện cổ tích là một ẩn dụ văn
chương. Đoạn 3 và 4 mới là tâm tình của Văn Cao.
Văn Cao lớn lên trong thời loạn, gia nhập vào phong trào
kháng chiến chống Pháp. Tuổi 19 là tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết và hào dũng,
vì sao Trương Chi, hình ảnh Văn Cao, thai nghén trong chiều dài hai năm mới ra
đời?
Chúng ta thấy được sự đứt đoạn giữa hai đoạn 1, 2 và hai đoạn
3 và 4, chẳng những qua ý tứ của ca từ mà còn cách biệt bởi cách hành nhạc. Qua
sự khác biệt này, tác giả muốn ám chỉ một tâm sự khác. Đoạn 3 và 4 là một ẩn dụ
thứ hai ngụ ý về một gia đoạn sống.
Ca từ trong đạn 3 mở ra một bối cảnh thời thế: Trong khi gió
mưa đang lạnh ướt nghệ thuật (cung đàn), nghe ra tiếng than thở, tiếng khóc của
những người đang hứng chịu bão mưa, có lẽ thất vọng nhất là những tâm hồn nghệ
sĩ giữa cơn giông tố. Ông mô tả qua những biểu tượng về thời cuộc trong màu sắc
thê lương, hỗn loạn mà người dân phải gánh chịu. Rồi, ai có buồn khi nghe tiếng
nước “róc rách”?
Giữa cơn mưa gió lớn mà nghe róc rách? Trong ầm ĩ của đất trời
náo động, người có tâm sự ấy lắng nghe một dòng nước nhỏ, ngụ ý, nghe được một
thứ gì đó nhỏ nhoi mà riêng tư. Thứ đó róc rách khiến lòng bâng khuâng suốt
đêm, rồi thứ đó lấp lánh thành một ẩn dụ: bóng đò xưa.
Đoạn 4 mở ra với những lời lời bày tỏ nội tâm và chí khí của
kẻ làm trai trong thời chiến, của một tài năng không được trọng dụng, của một
xã hội bão tố nhận chìm thân thế con người, của từ lòng thất vọng trồi lên những
ước mơ.
“Đàn đêm thâu” là nỗi lòng thao thức, “kinh nghèo” là bội bạc,
“đôi lứa” tình đồng đội, “phân ly” niềm thất vọng.
Tôi không thích thú lắm với cụm từ “bóng thuyền” trong câu kết, “Đâu
bóng thuyền Trương Chi?” Câu hỏi chấm hết đó có vẻ nhẹ nhàng, hờ hững,
cam chịu đối với hào khí hát dưới trăng, gõ tiếng động, coi rẻ cõi đời. Hai chữ
“bóng thuyền” nhắc lại cổ tích, khơi dậy sự thất bại, thất vọng của Trương Chi,
không làm được gì, ngoài khổ đau cho đến chết. Chết rồi còn để trái tim dù là
ngọc quí để làm gì? Đó là lý do Văn Cao không mô tả phần cuối của câu chuyện cổ
tích mà chuyển qua tâm sự.
Nhưng có lẽ đó là cá tính, ông đã tiên đoán được cuộc sống của
ông, cam chịu cho đến ngày cuối đời. Chỉ còn những ca khúc vàng gửi lại cho hậu
thế. Ai qua bến giang đầu, nghe tiếng ca tha thiết ru mùa thu. Nhìn xuống đáy
sông sâu, thuyền đã chìm sâu, đâu bóng thuyền Trương Chi? Đâu cuộc đời Văn
Cao?
Ngu Yên
Houston, tháng 9 năm 2025.
Ghi:
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chúng ta có hai nhạc
sĩ lớn. Mỗi người tài hoa mỗi kiểu. Tuy không chính thức, nhưng chúng ta cũng
có thể nhận ra, hai nhạc sĩ này so tài với nhau. Khi Văn Cao viết ca khúc
“Thiên Thai”, Phạm Duy viết “Tiếng Sáo Thiên Thai.” Khi Văn Cao viết “Trương
Chi,” Phạm Duy viết “Khối Tình Trương Chi.” Cả hai bài của Phạm Duy đều không
nghệ thuật bằng hai bài của Văn Cao. Nhưng về sau, với trường ca “Con Đường Cái
Quan” và trường ca “Mẹ Việt Nam”, Phạm Duy đã vượt trội hơn trường ca “Sông Lô”
của Văn Cao về mặt nghệ thuật sáng tác cùng với quan điểm và thông điệp.
Nhận xét như vậy cũng không được công bằng vì Văn Cao
sáng tác “Sông Lô” trong một thời gian ngắn để kịp vinh danh chiến công chiến
thắng quân Pháp ở Sông Lô năm 1947. Trong khi, Phạm Duy sáng tác “Com Đường Cái
Quan” từ 1954-1960 và “Mẹ Việt Nam” từ 1963-1964. Phạm Duy có lợi thế đã về
trong Nam, nhiều tự do sáng tác và bổ sung học thuật. Trường ca “Con Đường Cái
Quan” viết theo cấu trúc chiều dài trên con đường từ Bắc vào Nam bao gồm mười
chín khúc. Trong khi trường ca “Mẹ Việt Nam” viết theo cấu trúc mảnh rời, tất cả
là hai mươi hai ca khúc. Về sau, trong một khí hậu khắc nghiệt, Văn Cao không
viết một trường ca nào khác, thành thử chúng ta không có dịp so đo cho đúng đắn.
