
Ánh nắng
xuyên qua khe cửa tạo nên một vệt sáng, vô tình rọi ngay vào mắt làm ông Bách
thức giấc. Phản xạ tự nhiên ông lấy tay dụi mắt rồi liếc nhìn đồng hồ; đã
hơn chín giờ. Uể oải trở mình nằm ngửa, ông lấy hai tay vòng sau gối để nâng đầu
lên cao hơn rồi đưa mắt nhìn quanh căn phòng trống trải quen thuộc, nơi
chốn nương thân suốt mười mấy năm qua, nhưng vì quá bôn ba với cuộc sống
ông chẳng mấy khi để ý đến. Trần nhà màu trắng nay đã loang lỗ những vết vàng
nâu, chiếc quạt trần bám đầy bụi đen, tường vôi màu xanh nhạt cũng đã ngã
màu xám. Phòng cũng khá rộng, phía gần cửa sổ là bàn làm việc với chiếc ghế dựa
bằng gỗ cẩm lai, kế bên là tủ sách lớn, chung quanh phòng không có tranh ảnh gì
khác ngoài tấm lịch in hình phong cảnh, vách tường đối diện cửa sổ là chiếc giường
đôi trải chiếu được kê sát góc phòng và một tủ áo quần kê sát vách phía chân
giường. Nhưng tất cả những đồ vật đó là sở hữu của chủ nhà, gia tài của
ông chỉ mấy bộ quần áo cùng vô số sách báo chứa đầy các ngăn tủ.
Đêm qua là
giao thừa, trong khi mọi người nghỉ ngơi thức đón giao thừa thì chỉ riêng ông
Bách ngồi dịch các bài báo được tòa soạn giao cho từ trước Tết. Khi xong việc
đã ba giờ sáng, lên giường đi ngủ ông mới nhận ra rằng giao thừa đã qua, một
mùa Xuân mới vừa trở về. Cố gắng hoàn tất công việc vì ngày mồng một, ngày duy
nhất trong năm ông cho phép mình ngủ dậy trễ và không phải tập thể dục buổi
sáng. Nguyên nhân vì ông không biết đi đâu vào sáng mồng một, gia
đình không có, họ hàng cũng không, bạn bè thì ông lại ngại mang tiếng
xông đất. Nếu không dậy trễ thì cũng chỉ loanh quanh trong phòng, ăn trưa
đã có bánh chưng bánh tét bạn bè cho từ trong Tết. Thường như mọi năm, buổi chiều
ông mới xuất hành và nơi đến là nhà Đạt, một người bạn thân thiết từ thuở còn học
trung học.
Nằm một lúc
thấy không thể ngủ lại được, ông Bách ngồi dậy, nghe thân thể mỏi mệt từng
khớp xương. «Thất thập cổ lai hy,» ông nghĩ thầm như vậy rồi liên tưởng đến
khoảng thời gian bảy mươi năm trôi qua nhanh quá. Bước ra phía cửa sổ ông mở rộng
hai cánh, ánh sáng tràn ngập vào phòng. Ánh sáng ban mai ngày đầu năm rực rỡ,
không gian khá yên tĩnh, khí trời mát mẻ làm tinh thần ông cũng phấn chấn.
Hôm nay ngày mồng một, con đường trước nhà cũng thưa xe cộ và con hẻm cạnh nhà
cũng vắng tiếng trẻ con nô đùa, có lẽ cha mẹ chúng bắt ở nhà để tránh phải vô ý
bước chân vào nhà người khác. Ông nhìn xuống căn nhà đối diện, thấy hai đứa
trẻ con khoảng bốn năm tuổi không dám bước ra khỏi nhà, đành phải nói chuyện bằng
cách đứng sát vào vách tường giữa hai cổng nhà rồi thò tay ra ngoài, làm dấu
hay khoe nhau đồ chơi gì đó. Cảnh như trong nhà tù, khi hai tù nhân cùng ở sát
vách muốn thông tin với nhau. Ông mỉm cười khi nhìn trẻ thơ hồn nhiên và thật dễ
thương, nhưng nét vui tươi chợt tắt đi, một thoáng buồn xa xăm hiện
trên gương mặt đang già nua theo với thời gian.
*
Một buồi
sáng sớm của một ngày trong năm đầu thập niên bốn mươi, tại một làng quê xa xôi
miền Trung, có đứa bé chưa tròn năm tuổi đang còn say giấc ngủ thì bị đánh thức
dậy, được cả nhà gấp gáp lo các việc cần thiết cho buổi sáng, rồi sau đó
cậu cùng người anh cả khoảng mười bảy tuổi vội vã rời gia đình với một ít hành trang.
Buổi chia tay cũng có nước mắt cha mẹ và các anh chị trong gia đình, nhưng lúc ấy
cậu còn bé quá nên chưa hiểu được ý nghĩa của những giọt nước mắt chia ly, và
cũng chẳng có ai giải thích rõ ràng nên cậu chỉ nghĩ rằng đi theo người anh để
đến một địa điểm nào đó, thăm viếng ai hay vì chuyện riêng của gia đình. Rời khỏi
nhà là cả hai anh em miệt mài, ngày đi đêm nghỉ, khi nào mỏi chân cậu lại
được cõng và có đôi lúc ngủ luôn trên lưng anh. Cậu bé không biết đi được bao
nhiêu ngày và đã qua những vùng nào, nhưng vào một buổi xế trưa ngày nọ, hai
anh em gặp vài người mặc áo đen có mang súng chận lại. Người anh bảo nhỏ:
- Em chạy
trước đi , tuốt đàng xa kia rồi đợi anh ở đấy, lát nữa anh sẽ đến .
Như có linh
tính báo chuyện không hay, cậu chạy thật nhanh cho đến khi không còn sức nữa mới
trốn vào trong một bụi rậm ven đường, lo lắng ngồi đợi anh đến. Thời gian trôi
qua không biết bao lâu nhưng cậu bé thấy dài như vô tận, muốn trở lại tìm anh
nhưng sợ không dám đi. Bỗng nghe loạt súng nổ vang cả một vùng làm cậu
khiếp vía và bật khóc nho nhỏ. Mặt trời đã khuất bóng, bóng đêm lan dần làm nỗi
sợ tăng thêm. Trong lúc cậu chưa biết phải làm gì thì có một người đàn bà quang
gánh đi ngang, nghe tiếng khóc bà dừng lại, vạch bụi cây tìm thấy cậu. Bà có lời
nói và hành động dịu dàng khiến cậu tin tưởng để sau đó theo bà về nhà. Ở đây cậu
được cho ăn uống và ngủ lại. Vì mệt và đói nên cậu đã ngủ thẳng giấc đến
sáng. Lúc này cậu mới khóc lóc đòi về với gia đình.
Ở với người
cưu mang được vài ngày, đã bớt khóc và quen thuộc những người trong gia đình
thì một buổi sáng khi vừa thức dậy, cậu được chuẩn bị chu đáo và người đàn bà tốt
bụng nắm tay dắt đi ra khỏi nhà. Đường đi phải dài lắm vì mất cả ngày đường, có
lúc phải đi nhờ xe bò, nhưng cuối cùng bà cũng đưa cậu đến nơi. Đó là một căn
nhà có cổng lớn, phải đứng đợi một lúc mới có người ra mở cửa. Cậu được đưa vào
gặp một người đàn bà khác mặc áo chùng đen, đội trên đầu chiếc mũ rộng vành màu
trắng. Hai người đàn bà nói chuyện nhỏ với nhau một lúc, người ân nhân
quay ra vuốt đầu cậu bảo:
- Con ở lại
đây nghe, đừng có khóc và cố gắng học hành cho giỏi nghe. Những người ở đây đều
thương con…
Nói rồi bà
đứng dậy đi ra, từ đó về sau cậu không còn gặp lại bà nữa dù hình bóng của bà
luôn in đậm trong ký ức. Người đàn bà đội mũ rộng vành lên tiếng nhỏ nhẹ bảo cậu
ở lại đây để được nuôi nấng và học tập và sau đó có người hướng dẫn cậu nơi ăn
chốn ngủ. Khi lớn khôn hơn, cậu biết đây là cô nhi viện ở Huế do các nữ tu
trông nom, chỗ dành cho những đứa trẻ mồ côi hay bị thất lạc gia đình. Do không
có một giấy tờ gì để xác định được gốc gác và quê quán của cậu bé ở đâu,
nên các Sơ không thể liên lạc để trả cậu về với gia đình. May mắn
duy nhất là cậu còn nhớ được tên tuổi mình vì lúc trước các anh chị hay theo hỏi
em tên gì mấy tuổi. Phần sinh quán, theo cách phát âm và theo thổ ngữ,
các Sơ hỏi Nghệ An hay Hà Tĩnh, cậu đã chọn Hà Tĩnh vì có nghe nói
đến tên này. Lý lịch của cậu được ghi vào sổ bạ, nhưng là một lý lịch không rõ
ràng, một dấu hỏi lớn mà suốt đời cậu tha thiết muốn tìm ra giải đáp.
Khi
còn nhỏ dại chỉ những sự việc tạo nên cái sốc lớn mới được ghi nhận lâu
dài vào trong ký ức. Đối với cậu bé cũng thế, cậu không thể quên những ngày đầu
đã khóc nhiều vì nhớ cha mẹ và anh chị. Nhưng rồi ngày tháng qua đi, cậu quen dần
với đời sống trong Cô nhi viện. Những bữa ăn tập thể, giờ chơi giấc ngủ theo thời
khóa biểu, những ngày được cùng các bạn nối đuôi nhau đi ra phố, ngơ ngác dưới
cái nhìn thương cảm của mọi người… Những kỷ niệm ấy có phai nhạt theo thời gian
thì ngược lại, những hình ảnh không bao giờ quên được đó là mấy đứa bạn nhỏ
cùng hoàn cảnh, lại chung sống với nhau một thời gian dài, cùng tuổi thơ nghịch
ngợm phá phách bị các Sơ la mắng hay nghiêm phạt. Sau này khi đã trưởng thành,
bước chân vào đời rồi chịu những dập vùi của cuộc sống, đôi lúc cậu mong được
nhỏ lại như ngày nào, dù chốn cũ không phải là thiên đường của tuổi nhỏ .
Thời
gian trôi qua, cậu bé hiểu ra rằng phải chấp nhận số phận và cố gắng vươn lên.
Cậu học giỏi, xong tiểu học thì lên trung học dễ dàng nên các Sơ đã giới thiệu
với một linh mục người Pháp, và ông ta đã nhận nuôi cậu ăn học. Ở với
ông cậu còn được học thêm tiếng Pháp, điều này đã ảnh hưởng rất nhiều cho tương
lai của cậu sau này. Trưởng thành trong hoàn cảnh nửa đạo nửa đời, ban ngày đi
học, vui với bạn bè cùng trang lứa, ban đêm về sống trong bốn bức tường tu viện,
nơi đây đã cho cậu cuộc sống bình yên để ăn học và hình thành những ước vọng
tương lai. Cậu hy vọng sau khi học xong trung học sẽ tìm về quê cũ, kiếm lại những
người thân yêu mà định mệnh đã làm chia xa. Người anh cùng chung chuyến đi định
mệnh chắc đã hóa kiếp bởi loạt đạn oan nghiệt năm nào. Tự đặt giả thuyết gia
đình cậu có tham gia vào một tổ chức chính trị nào đó nên phải phân tán, anh cả
và cậu là những người ra đi đầu tiên, người anh có thể đã bị bắt, nhưng vì xót
xa cho đứa em nhỏ dại nên tìm cách vượt thoát và bị bắn chết, người đàn bà
quang gánh đi qua đã chứng kiến thảm kịch nên giúp cậu tận tình. Cũng có thể
anh cậu chưa chết nhưng chỉ cần bị giam vài ngày cũng đủ đưa hai anh em đi mỗi
người một phương trời. Bàn tay định mệnh đôi khi cũng nghiệt ngã, cậu ở cách
cha mẹ và anh chị chỉ khoảng bốn trăm cây số mà muôn đời không thể gặp lại
nhau. Vận mệnh của cậu thăng trầm theo vận mệnh nước non, ngày cậu học
xong trung học thì đất nước đã chia hai, quê hương cũ nằm bên kia bờ sông Bến Hải.
Lên đại học,
cậu bé ngày nào nay đã trở thành một thanh niên yêu đời, lạc quan nhìn về tương
lai đang rộng mở. Chàng rất thích học Luật, nhưng đành vào Sư phạm để có học bổng
bởi phải bắt đầu tự lập, vì vị linh mục bảo trợ cho chàng nay đã cao tuổi và đã
trở về Pháp để sống những năm cuối đời. Ông là người có sự gắn bó, chia sẻ cuộc
sống với chàng trong gần mười năm. Từ tuổi thiếu niên bước qua thanh
niên, ông ân cần giúp đỡ, chỉ giáo chàng như một người cha, do vậy khi
nghe tin ông qua đời vài năm sau đó, chàng rất buồn nhưng không thể qua Pháp để
đưa tiễn vị ân nhân đến nơi an nghỉ cuối cùng. Vừa học vừa đi dạy kèm tư gia, mấy
năm học cũng qua nhanh. Khi ra trường chàng được phân bổ về một trường trung học
xứ Quảng. Mặc dù đời sống của một nhà giáo vào thời điểm đó cũng khá sung túc,
được xã hội kính trọng vì tập quán «Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy»
hãy còn sâu đậm, nhưng chàng lại không muốn trói chân ở xứ Quảng. Với bản
tánh cầu tiến và tham vọng, chàng muốn về thành phố lớn để còn có thể học hỏi
tiến thân, thực hiện ước mơ được như Nguyễn Công Trứ «…Đã manh tiếng ở
trong trời đất, phải có danh gì với núi sông…» Sau bốn năm dạy học, người
thầy trẻ nhận lệnh gọi nhập ngũ. Khi tốt nghiệp trường Sĩ quan trừ bị thì
được biệt phái về Bộ giáo dục, nhân dịp này chàng xin ở lại Saigon với ý định vừa
đi dạy vừa ghi danh học Luật, một môn học mà chàng yêu thích từ thuở thiếu thời.
Ở Saigon cũng có sẵn một số bạn bè, Đạt là một trong số ấy. Gia đình Đạt
đã chuyển vào Saigon trước đó mấy năm. Bây giờ lại có dịp thường xuyên lui tới
nhà Đạt như thuở còn học chung với nhau.
Mải mê với
việc lập sự nghiệp, lại nghĩ trai ba mươi cũng hãy còn xuân, cho nên dù chung
quanh có những bóng hồng thấp thoáng chàng cũng chẳng màng, sợ làm cản trở
giấc mộng "công hầu khanh tướng." Sau mấy năm học tập, có được
trong tay bằng cử nhân Luật, chàng xin ngay vào một văn phòng Luật sư để thực tập.
Ngày khoác áo luật sư chẳng còn bao xa nữa, và rồi đây từ một luật sư có thể dễ
dàng bước vào vài lãnh vực khác, con đường tương lai trước mắt không còn
gì cản trở chàng được nữa. Nhưng rồi giấc mộng sắp thành, ước mơ tưởng
như đã nắm bắt trong tay thì cuộc đời lại đưa qua một khúc rẽ khác, nhiều chông
gai vất vả mà chàng chưa bao giờ hình dung được. Đó là ngày 30-4-75 .
Chưa kịp mặc
áo luật sư thì chàng phải đi học tập cải tạo vì là sĩ quan biệt phái. Trước khi
đi trình diện, chàng cẩn thận mang tất cả tiền bạc và những vật có giá trị
gởi cho Đạt. Người chủ nhà cho thuê căn gác cũng hứa trông nom đồ đạc cho đến
lúc chàng trở về. Tất cả cùng tin tưởng chàng sẽ về sau một tháng, nhưng rồi
không được như vậy mà phải gần ba năm sau. Bước chân người về như Từ Thức
trở lại trần gian, cảnh xưa người cũ đã đổi thay, định mệnh đen tối còn
bao quanh cuộc đời chàng. Người chủ nhà đã cùng gia đình vượt biên, nhà nay do
nhà nước quản lý, đã trao quyền sử dụng cho gia đình cán bộ. Nhưng địa chỉ khai
trong giấy ra trại lại ở đây, làm sao có thể xin tạm trú để còn chịu sự quản chế
của chính quyền địa phương. Chàng phải tìm đến nhà Đạt xin tá túc hầu
có một địa chỉ ổn định để hàng tuần ra trình diện công an.
Người thanh
niên nhiều hoài bão, nhiều tham vọng nay đã là một người đàn ông trung niên. Ước
mơ giờ đây tan tành nhưng vốn là người lạc quan, ông vẫn tin tưởng ở tương lai
cho dù cuộc đời chưa hết gian nan đang chờ đón. Tất cả những vật kỷ niệm hay
sách vở của ông không còn gì. Trường cũ không nhận lại người thầy giáo vừa ở trại
học tập ra lại chưa có quyền công dân. Để giúp khỏi phải đi kinh tế mới, một
người bạn có Tổ hợp làm bánh mì nhận ông vào làm với nhiệm vụ lo sổ sách thu
chi. Ngày làm việc, buổi tối kê ghế bố ngủ ngay nơi làm việc. Tổ hợp bánh mì chỉ
sống được khoảng một năm thì đóng cửa vì không tìm được nguồn cung cấp bột mì.
Ông bị mất việc và mất luôn nơi tá túc. Vì mưu sinh đành phải xoay ra buôn bán
chợ trời, ông tìm đến các nhà bạn bè hay người quen biết xem có vật gì muốn
bán, ghi nhận rồi đạp xe đi hỏi giá cả, sống qua ngày bằng số tiền hoa hồng
tùy thuộc vào hảo tâm của người bán. Những khi chiều xuống là lòng ông chùng lại,
thân đơn chiếc không gia đình nhà cửa nên chẳng biết về đâu.
Gia đình Đạt rất quí mến ông nhưng lại đông người, ông thường xuyên ghé lại để
tránh sự chú ý của công an chứ không muốn ở lại. Lang thang đêm nay ngủ nhờ nhà
này, đêm mai lại sang nhà khác nhưng cũng không yên giấc được vì sợ công
an khu vực để ý. Với tình trạng như vậy chỉ còn mong vượt biên mới thoát
ra khỏi cảnh cơ hàn khổ cực. Đạt thông cảm hoàn cảnh của bạn, biết tài sản của
ông không nhiều nên tìm mọi cách giúp đỡ. Nhân khi chuẩn bị cho các con của
mình vượt biên, Đạt đã thuyết phục chủ tàu để ông trả trước một ít, khi nào định
cư sẽ làm việc trả nốt phần còn lại. Chủ tàu chấp thuận đã cho ông hy vọng ra
đi tìm cuộc sống mới. Vì còn trong vòng quản chế nên cũng phải chuẩn bị sẵn một
số tiền, phòng khi đi không thoát và nếu bị bắt Đạt có thể xoay sở, tránh
phải vào trại học tập cải tạo một lần nữa. Tính toán chu đáo nhưng tiếc rằng định
mệnh đã không mỉm cười với ông, chuyến đi thất bại và tất cả mọi người đều bị bắt.
Đã chuẩn bị từ trước nên Đạt nhanh chóng chạy tiền đúng nơi tạm giam để ông về
ngay kịp ngày trình diện công an phường khóm. Ông trở lại kiếp sống vô
gia cư, không nghề nghiệp như trước. Hy vọng cuối cùng tiêu tan!
Trong lúc
còn lo chưa ổn định được nơi ăn chốn ở thì ông gặp lại Hóa, một người bạn cùng
học Sư phạm. Sau khi biết hoàn cảnh của ông, Hóa cho biết căn nhà hương hỏa của
giòng họ đang bỏ trống, vì trước đây có cha mẹ Hóa ở, nay hai ông bà đã qui
tiên, con cái ai cũng có cơ ngơi riêng nên đề nghị ông vào ở cho có bóng người
ra vào. Được nơi ở tươm tất, ông hân hoan nhận lời. Trong nhà đã có sẵn đồ đạc,
ông dọn vào ở với gia tài chỉ ba bộ quần áo cũ. Nhưng gian nan vẫn chưa hết,
khi ra công an phường để xin tạm trú thì gặp trở ngại. Chủ nhà đã chết, không
còn hộ khẩu, không sổ tạm trú, nghề nghiệp của ông lại không rõ ràng nên bị
công an từ chối. Loay hoay xin xỏ mãi ông mới được tạm trú ba tháng. Trong hoàn
cảnh khó khăn dường như tuyệt vọng, trời xui đất khiến ông gặp lại một người học
trò cũ ở xứ Quảng năm nào, đứa học trò ngỗ ngáo từng bị ông đuổi ra khỏi lớp
nay lại là đại tá ở Sở công an thành phố. Và với chữ ký giới thiệu của một đại
tá, ông đã sống yên ổn từ đó cho đến nay, chẳng những không bị công an làm khó
dễ mà còn được chào hỏi tử tế mỗi khi gặp mặt.
Vốn không
quen với sinh hoạt của chợ trời, ông cũng chỉ làm một thời gian rồi kiếm công
việc khác trong Tổ hợp hóa chất. Tổ hợp rồi cũng đóng cửa sau vài tháng
hoạt động. Ông sống lây lất cho đến lúc nhà cầm quyền đưa ra chính sách đổi mới.
Xã hội cởi mở hơn, bạn bè bên ngành Luật mở Văn phòng Dịch vụ pháp lý, ông được
mời tham gia và công việc chính là dịch các tài liệu, văn thư, khiếu nại và nhất
là những giấy tờ liên quan đến xuất nhập cảnh. Vì công việc nhiều ông phải làm
ngày đêm, thu nhập theo đó cũng tăng. Đây là thời gian tương đối yên ổn của
ông, nhưng rồi vấn đề xuất cảnh ngày một thưa, công việc ngày một ít ông lại phải
tìm kiếm công việc mới để nuôi thân.
Với khả
năng sinh ngữ vững vàng, ông tìm các bài báo ngoại quốc nói về khoa học, nhân
văn…, dĩ nhiên là những vấn đề không liên quan gì đến chính trị, dịch ra tiếng
Việt rồi gởi cho các tòa báo, nếu được đăng sẽ có tiền nhuận bút. Nguồn sách
báo trong nước hạn chế, ông lại nhờ bạn bè ở nước ngoài sưu tầm, gom góp gởi
qua đường bưu chính. Nhưng rồi cũng không được dài lâu vì khi xuất hiện
internet, các tòa soạn có thể truy tìm tin tức và tài liệu mau chóng thì những
bài gởi qua bưu điện mất thời gian tính, không còn thích hợp nữa. Giờ đây các
tòa soạn chỉ đưa ông dịch những tài liệu nào vừa ý lấy từ trên internet. Nhờ có
sự liên lạc lâu dài với các tòa soạn nên tương đối ông cũng có việc làm đều, dịch
bài nào được trả tiền ngay bài ấy, dù thu nhập không nhiều nhưng cũng tạm đủ nuôi
thân.
Sống trong
căn nhà hương hỏa thấm thoát cũng hơn mười hai năm. Một hôm ông được đón nhận
thêm người mới, đó là đứa cháu đích tôn của Hóa, sau khi lập gia đình, cả hai vợ
chồng dọn về đây. Nhà rộng, trước đây chỉ một mình ông, nay thêm hai người cũng
không ở hết bốn phòng ngủ, tuy nhiên cũng làm căn nhà bớt quạnh quẽ. Hơn hai
năm sau vợ chồng son có thêm cháu nhỏ, tiếng khóc trẻ thơ làm căn nhà có thêm
sinh khí. Đôi khi hai vợ chồng bận rộn lại nhờ ông trông chừng cháu bé, những
lúc như thế ông bùi ngùi suy nghĩ, đúng ra ở tuổi của ông cũng phải có dâu rể
cháu chắt như thế này, một mái gia đình ấm cúng để đi về, vậy mà ông không có
gì cả. Tất cả không là của ông, chỉ là vay mượn mà thôi!
Ước mơ trở
về quê cũ tìm lại những người thân cũng không thực hiện được, cho dù đất nước
nay đã không còn chia cắt. Lý do thứ nhất vì cho đến lúc này ông vẫn chưa có hộ
khẩu, chưa có chứng minh nhân dân. Cái vòng lẩn quẩn đã trói ông lại, đã không
có nhà cửa lại không có chủ nhà chấp thuận cho tạm trú thì không thể có hộ khẩu,
không hộ khẩu thì không thể làm chứng minh nhân dân, không chứng minh nhân dân
mỗi lần đi xa lại phép tắc nhiêu khê. Lý do thứ hai là trong lúc này ông kiếm
cơm ngày ba bữa đã khó, làm sao tính toán những chuyện khác được. Muốn tìm về
nguyên quán trong khi chưa quyết định được nơi nào chính xác thì phải có
thời gian và tiền bạc, cả hai thứ đều nằm ngoài tầm tay của ông. Đăng báo tìm
người thân thì ngần ngại vì không muốn ai trông thấy ông nghèo xơ xác như thế
này. Gần mười tám năm sống ở đây, hàng xóm, chính quyền đều biết mặt, biết tư
cách của ông, nhưng ông vẫn là người sống bên lề cuộc đời, chỉ là công dân bậc
hai trong cái xã hội đầy dẫy nhiễu nhương và khó khăn này.
*
Cậu bé bất
hạnh năm xưa, người thanh niên đầy nhiệt huyết ngày nào, người đàn ông trung
niên với bao nhiêu dập vùi của thời cuộc nay là lão Bách, ông lão bảy mươi cô độc
trong một buổi sáng đầu năm đang «… lặng nhìn thiên hạ đón Xuân sang…»
đang lặng nghe nỗi cô đơn buồn khổ đi qua cuộc đời mình. Ông vốn là người nhiều
nghị lực và cầu tiến, tâm hồn ông rộng lượng bao dung, bằng kiến thức sâu rộng
và cách nói chuyện dí dỏm duyên dáng, ông luôn mang lại niềm vui tươi, tạo tinh
thần lạc quan cho mọi người. Những giây phút ngậm ngùi qua đi, lòng ông
bình thản trở lại đưa mắt nhìn quang cảnh bên ngoài cửa sổ, nắng mùa Xuân lan
tràn trên cành cây ngọn cỏ, dịu dàng như thấm đượm vào lòng. Mười mấy năm trước
khi ông mới đến đây, chung quanh còn là nhà trệt, dân cư thưa thớt, nay nhà cửa
được xây cất thêm và dân số tăng lên nên ồn ào hơn trước. Lúc mới dọn vào
nhà, các phòng đều trống trải, ông đã chọn căn phòng hiện đang ở vì cửa sổ mở
ra có thể nhìn thẳng tầm mắt về phía xa là trung tâm thành phố, ban đêm ánh đèn
sáng lấp lánh trông đẹp mắt, nay đã bị che lấp một phần bởi một vài căn nhà lầu
vừa mới xây cất. Tưởng tượng một này nào đó, khi mở cửa sổ sẽ gặp ngay cửa sổ
căn nhà đối diện thì buồn lắm. Ông thở dài quay vào, cuộc đời là vô
thường, vạn vật đều biến đổi thì khoảng không gian kia không thể là của ông mãi
mãi. Lần theo cầu thang xuống nhà, căn nhà im vắng, gia đình người cháu chắc đã
về bên nội hay ngoại rồi. Lẳng lặng ông vào bếp, đun nước sôi pha cà phê, dọn
cho mình bữa ăn với bánh chưng, dưa món củ kiệu, rồi thong thả ngồi ăn từng
miếng một. Bánh chưng ngày Tết đậm đà nhưng ông vẫn cảm thấy thiếu vắng một điều
gì. Sáu mươi lăm năm rồi, từ ngày phải rời khỏi gia đình, đã quen với cảnh cô
đơn nhưng Tết năm nào không ít thì nhiều ông cũng cảm thấy buồn, nỗi buồn hình
như tăng dần theo năm tháng chứ không vơi đi như một thói quen. Khi nhà nhà đều
khép cửa và đang sum vầy với nhau, ông mới cảm thấy thấm thía sự cô đơn trống vắng.
Mỗi người đều cần có một gia đình để nương tựa, ông hiểu được tại sao người ta
ca ngợi việc tam đại, tứ đại đồng đường. Cây già cỗi thì phải có cây khác xanh
tươi non trẻ mới giữ rừng được mãi màu xanh, riêng ông khác với mọi người vì đã
không theo quy luật đó. Cũng chẳng còn bao lâu nữa, khi mắt đã mờ tay đã run và
trí óc đã lẫn, cuộc đời sẽ ra sao khi xã hội chẳng có phúc lợi cho người già,
không có nhà dưỡng lão. Ông Bách không có một niềm tin tôn giáo sâu đậm để giao
phó cuộc đời cho định mệnh, nhưng đời sống của ông là sở hữu riêng mình,
ông có thể quyết định lấy cuộc đời của mình.
Ăn uống
xong ông Bách trở về phòng, đợi đến chiều sẽ qua thăm gia đình Đạt, và cũng để
thăm Thảo, em Đạt. Khi ông vào Saigon thì Thảo đã là thiếu nữ, không còn là con
bé con như những ngày xa xưa khi ông đến chơi nhà Đạt. Thảo nhỏ hơn ông
mười tuổi, ngưỡng mộ ông là người khí khái, sống có lý tưởng, dù không nói ra
nhưng ông hiểu lòng nàng. Ông cũng đã dự định khi nào công danh toại ý sẽ xin hỏi
cưới Thảo. Nào ngờ ông phải đi tù cải tạo, đến khi trở về lại là kẻ không nhà cửa,
chẳng nghề nghiệp. Thân còn chưa nuôi nổi làm sao dám nghĩ đến chuyện thê nhi,
ông có tinh thần trách nhiệm cao, lại không muốn sống bám vào người khác nên
đành để chuyện tình cảm qua một bên.
Cầm một vài
tờ báo Xuân định đọc cho qua thời gian, văn chương thời xã hội chủ nghĩa nhạt
nhẽo, lại bỏ xuống, chẳng biết làm gì ông lên giường nằm gối đầu tay nhìn lên
trần nhà. Thấy trần nhà loang lỗ cũ kỹ, ông nảy sinh ý nghĩ qua Tết sẽ mua vôi
về quét lại căn phòng. Dù gì nó cũng là nơi nương náu của ông suốt cả gần
hai mươi năm qua và còn nhiều năm tới nữa. Ông tự trách mình vô tâm và hững hờ
quá. Hững hờ! Ông tự hỏi có phải mình là người bàng quan với đời sống
chung quanh chăng! Không, ông thấy mình cũng tha thiết lắm, lý tưởng phục vụ
con người luôn thôi thúc trong lòng, ông yêu đời và cũng mong ước được sống
như mọi người. Cho dù định mệnh khắt khe, ông vẫn cám ơn trời đất đã dung
dưỡng trong bao nhiêu năm nay, để được quan sát những thăng trầm vui buồn của đời
sống này. Ông lại nghĩ đến thân phận tầm thường và kém cỏi của mình. Có lẽ như
vậy! Bảy mươi tuổi, nhìn lại cuộc đời mình chẳng ra gì, không làm được điều
gì nên nổi, chẳng mang lại được hạnh phúc cho ai, một cuộc đời hoàn toàn vô vị.
Đối với Thảo, lúc nào ông cũng mang cảm giác có tội với nàng. Thảo chờ đợi ông
đến lỡ mất xuân thì. Nghĩ đến Thảo cũng đã sáu mươi tuổi lòng ông se thắt.
Ngay cả thiên chức làm chồng làm cha rất bình thường của một người đàn ông, ông
cũng không thực hiện được.
Với cuộc đời
ông chỉ là hạt bụi, đến từ đâu không ai biết, mai này sẽ đi về đâu chẳng ai
hay. Khi nắm tro cốt tàn bay theo gió, không làm được việc gì cho đời, không
con cháu, không hậu duệ, không hương hỏa thì chẳng ai còn tìm được dấu tích của
ông, chẳng ai biết đã từng có một lão Bách hiện diện trên mặt đất này. Hay ông
là người của một tinh cầu xa xôi nào đó, một lần ghé qua địa cầu để chia sẻ những
khổ đau của trần thế. Chốn dương gian đối với ông chỉ là cõi tạm. Danh vọng, tiền
tài, chết chóc, đói khổ, nhục vinh, chiến tranh, ly loạn, tù đày…, ông đều trải
qua. Mai đây khi trở về chốn cũ, ông không còn phải nuối tiếc một thuở trần
gian…
Cõi tạm!
Ông Bách nói nhỏ rồi lấy tay ngăn giọt lệ vừa ứa ra nơi khóe mắt .
Sainte Foy 03-05
Hà
Đạo Hàm