Hình minh hoạ, Internet
|
Ông Siu Siu và chú Tiều là hai người Hoa sinh sống ở gần nhà
tôi trong khu chung cư chợ An Đông Chợ Lớn. Ông Siu Siu là chủ một tiệm cơm gà
rất nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Còn chú Tiều là một người làm công cho
mẹ tôi.
Năm di cư 1954 mẹ và các anh chị tôi kẻ trước người sau lục
tục vô Nam. Mẹ tôi mua một đơn vị trong chung cư chợ An Đông để ở và lấy chỗ
buôn bán. Đơn vị ấy hai từng, từng dưới mẹ tôi mở tiệm bán cau khô, tên hiệu là
Cẩm Lợi, từng trên mẹ con chúng tôi ở khá chen chúc vì diện tích căn nhà không
rộng bao nhiêu. Bố tôi chê nhà vừa chật lại vừa gần chợ ồn nên không ở, chỉ thỉnh
thoảng lắm mới tạt về. Trên đầu chúng tôi là lầu ba. Lầu ba thuộc một đơn vị
gia cư khác. Tất cả những đơn vị ở trên lầu ba đều đi chung một cầu thang
riêng, nằm bên hông đường Nguyễn Duy Dương. Căn nhà chúng tôi ở một góc trông
ra hai mặt đường nên rất thuận tiện cho việc buôn bán của mẹ tôi.
Nếu tôi chỉ nói cái số nhà 39 thì chắc chẳng một ai hình
dung căn nhà của mẹ tôi nằm ở chỗ nào trong khu chợ An Đông. Nhưng nếu nói nó ở
ngay sát cạnh quán cơm gà nổi tiếng Siu Siu thì có thể nhiều người hình dung ra
ngay. Siu Siu là một quán cóc nằm sát bên hông nhà mẹ tôi. Ông Siu Siu khi mở
quán này đã thương lượng với mẹ tôi câu điện từ trong nhà chúng tôi để thắp đèn
trong quán, lại dùng cái vỉa hè ngay trước cửa nhà chúng tôi để đặt bàn ăn. Bù
lại ông Siu Siu mỗi tháng trả cho cho mẹ tôi một khoản tiền. Trong suốt hai
mươi năm trời chúng tôi ăn cơm gà trừ dần vào khoản tiền này, ăn nhiều phát ớn,
đến độ tôi phải tự hỏi cơm gà Siu Siu thì ngon quái gì mà đông người đến ăn như
thế. Mỗi buổi chiều từ trên ban công nhìn xuống dưới hè ở trước nhà tôi thường
quan sát thực khách ăn ở phía dưới. Tôi nhận diện không biết bao nhiêu những
khuôn mặt nổi tiếng, từ minh tinh tài tử, văn nhân nghệ sĩ cho đến những nhân vật
chính trị và quân sự quan trọng của miền Nam, và tôi thường tự hỏi trong số những
thực khách ấy có mấy ai biết là mình ngồi ăn ở ngay trước cửa căn nhà của mẹ
tôi, bà Nhất Linh.
Chợ An Đông mỗi sáng họp rất sớm. Mới ba bốn giờ trời còn tối
người ta đã sửa soạn họp chợ. Từ dưới nhà vẳng lên gác tiếng động lạch cạch của
những người phu khuân vác đóng xếp những sạp hàng bầy trên mặt đường quanh chợ.
Trong bao nhiêu năm tiếng lạch cạch đều đặn ấy đã thấm sâu vào trong giấc ngủ của
chúng tôi. Đến khi tỉnh giấc thì tiếng ồn ào của chợ đã òa vỡ ở bên ngoài. Từ
ban công lầu hai nhìn xuống dưới đường những chiếc bạt vải che mưa nắng dựng
lên chi chít; qua những khoảng hở giữa hai cánh bạt là đầu và vai của những người
đi chợ chen nhau qua lại giữa những sạp hàng. Đến trưa thì tiếng ồn tắt. Chợ
vãn. Bạt che, sạp hàng thoắt cái biến mất, mặt đường quanh chợ bỗng vắng te, một
vài con chó sục sạo trong đống rác. Trong cơn nóng hực của thành phố Sài Gòn chợ
An Đông cũng theo người lịm vào giấc ngủ trưa. Trôi đi trong giấc ngủ nặng nề
tôi nghe “lẹt xẹt lẹt xẹt” tiếng chổi quét uể oải của mấy người phu quét đường.
Cho đến năm giờ thì chợ lại thức dậy bởi tiếng động lạch cạch bầy bàn của quán
cơm gà Siu Siu.
Chiều đến khi cơn nắng đã dịu tôi thường bắc ghế ra ngồi ở
ban công nơi mẹ tôi có trồng ở góc một cây hoa giấy, cành lá và hoa giấy đỏ leo
trên một tấm lưới sắt thưa. Điếu thuốc lá Capstan trên môi tôi thường nhìn qua
những bông hoa giấy ngắm cảnh chợ vãn từ trên cao. Phía bên kia đường Nguyễn
Duy Dương là trường trung học Trí Dũng quét màu vôi đỏ, giờ tan trường những cô
cậu học sinh Tàu trong bộ đồng phục xanh trắng cà vạt đỏ đi túa ra khỏi cổng.
Trên hè lề đường ngay phía dưới ban công những thực khách của quán Siu Siu ngồi
ăn uống ngon lành, trên mặt bàn ăn những chai lớn chai nhỏ bia Larue đầu cọp,
bia “33”, những đĩa thịt gà trắng nuột nà, những bát cơm gà nóng bốc khói. Thỉnh
thoảng tôi thấy mẹ tôi bước ra cửa gọi cơm để đãi khách và bao giờ cũng vậy ông
chủ Siu Siu đích thân bưng cơm và thịt gà vào trong nhà cho mẹ tôi. Biết ý mẹ
tôi ông luôn luôn mang vào một khẩu phần đặc biệt: một đĩa đùi gà được chặt rất
khéo có thêm vài ba cái phao câu và một đĩa lòng gà gồm gan, mề, lòng, điểm
mươi quả trứng bé bé xinh xinh màu vàng ngậy.
Mẹ tôi có cả một thế giới riêng của bà ở nhà dưới. Quanh bà
là những người giúp việc. Một người lo việc cơm nước và một người chuyên làm việc
nặng khuân vác cau. Trong số những người giúp việc ấy có bà Hai và chú Tiều là
hai người mà tôi nhớ đến nhất mỗi khi hồi tưởng về căn nhà cũ của mẹ.
Bà Hai già lắm, đầu vấn khăn, miệng móm mém, người nhỏ thó,
đi đứng lòm khòm vì lưng còng, có tật nói năng lung tung chẳng kiêng nể một ai
vì thế ai cũng ngán bà. Mỗi tối bà có thể cong người nằm gọn lỏn như một con
tôm trên mặt cái bàn cân. Vì vậy cái cân trở thành giường ngủ của bà.
Chú Tiều ở tuổi trung niên người Hoa, đầu hói, quanh năm mặc
cái quần xà lỏn phô tấm thân lực lưỡng, nhưng chú lại bị bệnh khùng, suốt ngày
nói năng lảm nhảm không thua bà Hai nhưng nói bằng tiếng Tàu chả ai hiểu chú
nói gì. Không như bà Hai được mướn thường trực và ở luôn tại nhà, chú Tiều sống
lây lất trong chợ, được mẹ tôi kêu tới mướn mỗi khi cần có người làm việc nặng.
Sau này vì tội nghiệp muốn giúp đỡ thêm cho chú nên ngay cả những công việc nhẹ
như xấy cau, sàng cau hoặc dọn dẹp nhà cửa mẹ tôi cũng nhất nhất gọi chú tới làm,
thành thử chú có mặt ở nhà mẹ tôi hầu như thường xuyên. Chú làm việc gì cũng rất
kỹ lưỡng từng li từng tí lại rất lương thiện không tơ hào của ai một đồng bạc cắc
nên rất được mẹ tôi thương. Không ai biết thật rõ tông tích chú Tiều. Dân trong
chợ kháo nhau là chú có gia đình ở đường Nguyễn Trãi nhưng cha mẹ chết hết. Chú
ở với anh chị nhưng chị dâu không thương, khinh rẻ hành hạ chú vì thấy chú
khùng, chú giận bỏ nhà ra đi, sống lây lất trên các đường phố rồi cuối cùng đến
chợ An Đông lượm của dư của đổ của mấy bà gánh bún cơm phở mà ăn. Tối đến chú
ngủ ngoài hiên bên hông nhà mẹ tôi. Mẹ tôi thấy tội nên sai người làm mang cái
mền nhà binh đắp cho chú để chú đỡ lạnh và đỡ muỗi cắn. Sau này thì chú tìm được
chỗ ngủ tốt hơn ở trong chợ.
Mỗi lần xe hàng tới nhà mẹ tôi để giao cau là một ngày bận rộn.
Chú Tiều được gọi đến. Chiếc xe cam nhông quay đít vào lề đường (xe bao giờ
cũng giao hàng vào buổi chiều vì buổi sáng chợ họp không vào được), cảng phía
sau mở, một tấm ván bắc từ sau xe xuống hè làm cầu thang. Quàng một tấm khăn đỏ
lên vai chú Tiều lên xe cúi mình kê vai vác từng bao tải cau lớn bước xuống
thanh ván. Vào nhà chú nghiêng vai thẩy lên bàn cân để cân trước khi bao cau được
chất đống trong nhà. Mẹ tôi lắp cặp kính lão vào mắt đứng bên cạnh bàn cân, cúi
xuống xê dịch quả tạ trên cán cân, xê qua xê lại cho tới khi hai cái mũi cân
thăng bằng, rồi bà rút cái que chổi cắm trong một lọ mực tím bắt đầu nghệch ngoạc
viết lên trên bao cau: “Cau Mỹ Lợi 41,8 ký”. Chú Tiều trong lúc chờ đợi mẹ tôi
cân cau thì ngửa mặt nhìn trần nhà, đầu nghếch một bên, ngón tay đưa cao chỉ
vào một góc tường, miệng nói lảm nhảm tiếng Tiều Châu, như thể chú đang nói
chuyện với một con thạch sùng nào đó trên trần nhà. Mặc dù chú có vẻ hoàn toàn
lạc hẳn trong thế giới riêng nhưng chú Tiều tỉnh lắm, chú biết rất chính xác
khi nào mẹ tôi cân xong. Mẹ tôi vừa cắm cái que chổi vào lại lọ mực thì tức thời
chú cúi xuống sát bàn cân, nghiêng vai vác bao cau lên chất cao trên đống bao tải
rồi chú lại lững thững đi ra ngoài, cái đầu nghiêng nghiêng, miệng sùi nước miếng,
một cánh tay giơ cao dứ dứ lên trời, chú bước lên tấm ván để sửa soạn vác một
bao cau khác.
Mẹ tôi cân và đánh dấu các bao cau xong thì giơ một ngón tay
đẩy cặp kính lão xuống sống mũi, khẽ cúi đầu nhướng mắt nhìn quanh quất. “Mấy đứa
nó đâu hết cả rồi? Này! bà Hai, bà lên gác bảo mấy cô cậu xuống tính sổ”. Bà
Hai lầm bầm câu gì trong miệng, lững thững đi qua nhà bếp để lên gác. Cầu thang
hẹp lại dốc, bà đã cao tuổi nên rất ngại mỗi lần phải lên gác, tiếng lầm bầm chắc
là để rủa chúng tôi. Khi chúng tôi bước xuống cầu thang tay cầm sẵn giấy bút
thì ở dưới nhà ồn lên tiếng tranh cãi. Quá quen cảnh đôi co về giá cả giữa mẹ
tôi và khách nên chúng tôi thường kiên nhẫn chờ cho đến khi đôi bên tỏ vẻ đồng
ý nhau mới bắt đầu tính sổ. Hồi đó làm gì có máy tính chúng tôi phải làm hàng
chục những con tính nhân. “Cau Mỹ Lợi một bao nặng 41, 8 ký, mỗi ký giá.... đồng...
Thành tiền là.... Cau Mỹ Lồng 35.9 ký... Mỗi ký giá... Cau Xuồng...”. Vừa tính
toán xong thì mẹ tôi và khách lại đổi ý, hai người lại cò kè thêm một bớt hai,
khách thì bảo cái cân nhà chúng tôi sai, mẹ tôi thì chê cau đắt, cau xấu, cứ ồn
cả lên. Thành thử chúng tôi phải tính lại có khi đến vài lần. “Bà tính đắt thế
thì chúng tôi làm sao sống nổi”. Mẹ tôi hay nói thế nếu mẹ tôi là người mua
cau. Còn nếu mẹ tôi là người bán cau thì câu nói trên lại được chuyển qua miệng
khách hàng. Cứ như thế cảnh đôi co được lập đi lập lại trong suốt mấy chục năm
buôn cau của mẹ tôi.
Không ai để ý đến chú Tiều lúc ấy đang đổ cau ra sàng để
phơi. Khách đã quen với tính khùng của chú nên mặc kệ chú nói lảm nhảm. Nhưng
chú Tiều ngoài bệnh tâm trí lâu lâu lại lên cơn nhức đầu búa bổ. Lúc lên cơn
chú thường ôm đầu trợn mắt, miệng rú lên khiến mẹ tôi phải quát: “Tiều, mày
điên quá làm khách của tao sợ... Đây này cầm lấy mấy chục đi đâu khuất mắt, khi
nào hết điên trở lại”. Mẹ tôi cũng dốc vào tay chú mấy viên thuốc nhức đầu
Opthalidon từ trong một hộp thuốc chúng tôi mua sẵn cho chú để trên nóc cái két
sắt. Chú nhét tiền và thuốc vào cạp quần rồi lững thững vừa hú vừa đi vào trong
chợ.
Chú Tiều khi không có việc gì làm ở nhà mẹ tôi thì lang
thang ngoài chợ. Chú tự động quét sân chợ và lượm rác rất sạch sẽ. Hễ đói bụng
là chú la cà mấy gánh phở, bún riêu. Khách ăn xong còn thừa là chú bưng tô húp.
Có khi chú lại thò tay vào cả cái sô mà mấy bà bán bún phở đổ đồ ăn thừa để đem
về cho heo ăn. Chú bốc đồ trong sô bỏ miệng ăn tỉnh khô. Mấy bà bán bún thấy tội
nghiệp nên thường để dành đồ dư trong tô cho chú. Buổi chiều chú phụ dọn bàn
dùm cho ông Siu Siu. Ông Siu Siu cho chú 5 đồng uống cà phê và để dành cho chú
cơm và thịt gà dư của khách. Vì vậy chú Tiều càng ngày càng béo trắng ra, trông
như con nhà giầu vậy.
Mẹ tôi mỗi khi đi khỏi nhà thì hai cánh cửa sắt ở nhà dưới
được khép chặt lại. Cửa ấy khi sập vào nhau thì cái móc sắt ở cánh bên này
quàng vào cánh bên kia và cửa tự động khóa. Muốn mở cần một chiếc chìa khóa lớn.
Nhưng chiếc chìa khóa này đã bị mất từ thời tám đại nào rồi. Mẹ tôi nhiều lần bảo
chúng tôi gọi thợ đến làm cái chìa khác nhưng chúng tôi lười chẳng ai chịu đi.
Chúng tôi bảo bà rằng chẳng cần chìa chiếc gì ráo trọi, một con dao phay lớn nậy
xoẹt một cái là cửa bung ngay. Vì thế trong bao nhiêu năm cánh cửa sắt của hiệu
cau Cẩm Lợi được mở bằng con dao phay. Khách vô phúc đến chơi nhà tôi nhằm đúng
lúc cửa đóng đang rung cửa để gọi thì bắt gặp một ông Tàu lừng lững từ trong
nhà tiến lại, tay dứ lên trời con dao phay sáng quắc, cảnh tượng ấy trông thật
hãi hùng! Một ngày kia mẹ tôi đi vắng và – thiệt may – tôi lại tình cờ có mặt ở
nhà dưới. Vì có tôi nên cửa sắt không đóng. Nếu cửa đóng thì “khách” sẽ được
chú Tiều nghênh đón bằng con dao phay, mà hôm ấy người khách lại chính là nữ
minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng! Cảnh này, nếu xẩy ra, chắc sẽ làm cô Thẩm
Thúy Hằng tởn tới già còn hơn những cảnh rùng rợn trong phim xi-nê.
Câu chuyện như thế này: Khoảng cuối thập niên 60, mấy năm
sau ngày bố tôi qua đời, thì tên tuổi Nhất Linh mới được mọi người dân chợ biết
đến. Hồi ấy có một dạo cứ mỗi lần tôi đi vào trong chợ là y như có tiếng xầm xì
to nhỏ: “Đấy! Con ông Nhức Linh đấy!” – “Nhức Linh là ai vậy mày” – “Tao đâu có
biết ổng là ai. Nghe cổ nói dzậy thì biết dzậy thui! Cổ vô tận đây tìm nhà ổng
thì chắc ổng cũng phải là dân cỡ bự!”.
Người được nhắc tới với cái tên “cổ” không phải ai xa lạ mà
là nữ minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng. Cái ngày mà cô Thẩm Thúy Hằng xục xạo
vào chợ An Đông để hỏi nhà của ông Nhất Linh là một biến cố lớn cho dân trong
chợ.
Đi sau Thẩm Thúy Hằng là một lô một lốc những đứa trẻ con bận
quần xà lỏn mình trần trùng trục. Tôi cũng mặc quần xà lỏn nhưng lịch sự hơn
chúng nó một tí là có cái áo sơ mi cộc tay khoác lên. Cô Thẩm Thúy Hằng thì cố
nhiên ăn mặc sang trọng lộng lẫy lắm. Minh tinh điện ảnh mà! Vừa bước vào nhà
cô nói oang oang: “Trời đất ơi! Cả cái chợ An Đông này hổng ai biết nhà ông Nhất
Linh ở đâu. Mãi sau tôi mới nhớ ra là bà Nhất Linh bán cau. Thế là mấy đứa nhỏ
ùn ùn dẫn tôi tới đây”. Đoán biết ngay cô nữ tài tử này đến nhà tôi về chuyện
gì nên tôi nói: “Mẹ tôi không có nhà. Nhưng cô có thể nói chuyện với tôi nếu có
liên quan đến bản quyền những tác phẩm của ba tôi” – “Đúng dzậy! Tôi đến để điều
đình về việc thực hiện cuốn phim dựa trên cuốn tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà
văn Nhất Linh”. Rồi cô Thẩm Thúy Hằng chìa tấm danh thiếp mời tôi đến tư gia của
cô để bàn về chi tiết. Cô nói chưa có quyết định ai sẽ là người đóng vai Loan
còn vai Dũng thì có thể do nghệ sĩ La Thoại Tân đóng. Lúc tiễn cô ta ra ngoài
tôi nhìn tấm thân khá đẫy đà của cô và thầm nghĩ trong bụng cô này mà đóng vai
Loan thì hỏng béng nó cả cuốn tiểu thuyết của bố tôi! Tuần lễ sau tôi gặp Thẩm
Thúy Hằng lần thứ hai tại nhà cô ở đường Duy Tân. Mấy tháng sau không hiểu vì
lý do gì cô cho biết bỏ ý định thực hiện cuốn phim Đoạn Tuyệt.
Chuyện cô Thẩm Thúy Hằng đến nhà mẹ tôi làm xôn xao dân chợ
một dạo. Nhưng đó không phải là lần đầu tiên họ được dịp chiêm ngưỡng tận mắt
những nghệ sĩ nổi tiếng. Cặp nghệ sĩ cải lương Kim Cương - Hùng Cường một buổi
chiều nọ cũng làm náo động đám trẻ con khi họ đến ăn ở quán cơm gà Siu Siu.
Bữa đó tôi đang ngồi học bài trên gác thì có tiếng gọi ơi ới
ở dưới đường: “Kim Cương tụi bay ơi!” – “Hùng Cường tụi bay ơi!”. Tôi bèn ra đứng
ở ban công nhìn xuống. Trẻ con mấy chục mạng từ trong chợ chạy túa ra đường đứng
thành hình vòng cung lớp trong lớp ngoài chung quanh quán cơm gà. Có vài người
lớn trong đám nhưng họ chỉ đứng nhìn ở xa. Mấy đứa nhỏ đứng hàng đầu tiến sát lại
gần cái bàn ăn của hai thực khách nhìn trân trân vào tận mặt cô Kim Cương, thần
tượng của chúng mà trước đó chúng chỉ được thấy trên màn ảnh TV. Rồi bất ngờ
trong đám con nít đồng loạt có tiếng vỗ tay, vừa vỗ tay vừa reo hò, rất đúng nhịp:
“Kim Cương nhai! Kim Cương nuốt!”. Tức mình, tài tử Hùng Cường đang ăn đứng lên
phùng má trợn mắt nhìn đám trẻ. Tưởng nghệ sĩ này làm trò hề, lũ trẻ lại rộ lên
cười. Ông Siu Siu đang chặt thịt gà, xách con dao phay chạy ra xua tay nói lớn:
“Hê! Lể cho người ta ăn lớ! Lể cho người ta ăn lớ!”. Đám trẻ rãn ra xa thôi hò
hét nhưng không chịu đi, cứ đứng quanh đó mà nhìn cho tới khi cặp nghệ sĩ ăn
xong lên xe.
Cứ như thế từ trên ban công căn nhà của mẹ tôi tôi ngắm cảnh
sinh hoạt phía dưới không bao giờ chán mắt. Nội nhìn ông Siu Siu chặt thịt gà đã
thấy mê! Con gà bóng mỡ nằm ngửa trên thớt. Một nhát dao phay bổ ngọt trên bụng.
Rồi phập phập! Hai cái đùi gà văng ra. Bằng bốn đầu ngón tay trái ông Siu Siu
chặn cái đùi gà, chặn kín chỉ chừa một khoảng hở. Phập! Con dao phay bổ sát
móng tay. Rồi cứ thế các ngón tay ông ta lùi dần, lùi đến đâu con dao phập sát
tới đó. Phập! Phập! Phập! Thoắt cái, đùi gà đã được chặt thành từng khúc nhỏ đều
đặn. Xúc những miếng gà đã chặt bằng lườn con dao phay ông trải thịt gọn ghẽ
lên một chiếc đĩa trắng, rắc một ít hành lá lên trên, thế là đĩa gà được mang
cho khách, cùng với những bát cơm gà nóng vàng ngậy bốc khói cộng thêm hai thứ
nước chấm, một chén xì dầu có những lát ớt đỏ và một chén gừng băm trộn dấm.
Trong bao nhiêu năm quan sát ông Siu Siu chặt thịt gà tôi cứ bị ám ảnh bởi một
ý nghĩ và ý nghĩ này không ngớt theo tôi cho tới tận ngày nay, hơn bốn mươi năm
sau. Đó là có bao giờ ông ta lơ đễnh trong lúc chặt thịt? Tôi không dám nghĩ tiếp
vì cái hậu quả mà tôi hình dung thấy nó kinh khiếp quá!
Ngày nọ qua ngày kia trải qua hai mươi năm cái sinh hoạt ở
dưới quán cơm gà Siu Siu đã in vào trí nhớ tôi như là những hình ảnh sống động
khó phai mờ. Hình ảnh ấy phản ánh một bức tranh xã hội thu nhỏ của thành phố
Sài Gòn qua thời gian. Khi cuộc chiến bắt đầu nở lớn lan rộng ở vùng quê thì ở
những chiếc ghế dưới kia đã có thêm nhiều màu áo trận trong số thực khách. Tôi
đã nhìn thấy những nữ sinh e ấp trong chiếc áo dài trắng gắp miếng thịt gà âu yếm
bỏ vào trong bát của người yêu, một người lính rất trẻ ngồi đối diện; tôi đã
nhìn thấy dẫy bàn ăn đầy ắp những chai bia của những người lính trận đến đây ăn
uống trong một lần về phép. Chợ An Đông cũng bắt đầu có bóng dáng những người
lính Mỹ. Vào năm 1966 khi quân đội Mỹ đổ nhiều vào Việt Nam thì chủ nhân của
chung cư này là tay tài phiệt Huỳnh Siêu đã cho xây cất thêm lầu bốn và dành
nguyên lầu này để cho Mỹ thuê. Ở trên lầu bốn của chung cư là lầu thượng có mở
câu lạc bộ là chỗ giải trí cho lính Mỹ. Đêm đêm tiếng nhạc và tiếng trống thình
thình từ trên đầu chúng tôi dọng xuống.
Năm 1973 tôi lập gia đình. Thái Vân và tôi sống ở từng dưới
trong căn nhà số 41 kế cạnh tiệm cau Cẩm Lợi, trong khi anh chị Triệu tôi ở
trên gác. Năm sau khi nhà tôi sinh đứa con đầu lòng, nhà tôi phải đưa thằng bé
về nhà mẹ đẻ một tháng vì lúc ấy chúng tôi chưa mướn được người làm. Mẹ tôi rất
mong ngày con dâu và cháu về lại chợ An Đông. Ngày vợ tôi bồng con trở về mẹ
tôi mừng lắm. Bà nói với nhà tôi: “Mợ biết ngay là con sắp về vì mấy hôm nay mợ
thấy thằng Tiều dọn dẹp thật sạch sẽ cái phòng của con, nó lau chùi kỹ lưỡng
bàn ghế từng li từng tí không còn một hạt bụi”.
Vào những năm chót của cuộc chiến chợ An Đông phản ánh đời sống
đầy khó khăn của dân chúng miền Nam. Đám người từ vùng quê kém an ninh đổ về
thành phố sống lây lất trong chợ, trên vỉa hè ngay trước cửa nhà chúng tôi. Những
người ăn xin bu quanh thực khách để xin tiền hoặc để chờ khách ăn xong lấy đồ
ăn thừa khiến ông Siu Siu phải vất vả đuổi họ đi.
*
Hai mươi mốt năm trôi qua trên đất Mỹ nhanh như một chợp mắt.
Năm 1996 chúng tôi trở về Việt Nam lần đầu tiên và có dịp
ghé chợ An Đông thăm căn nhà cũ. Căn nhà nay đã đổi chủ. Bảng hiệu cau Cẩm Lợi
thay thế bằng bảng tiệm vàng Kim Xuyến. Trong lúc vợ con tôi đi sắm đồ trong chợ
An Đông (nay được tân trang phía trong với một dẫy cầu thang cuốn) tôi đứng trước
cửa tiệm vàng nhìn lên cái ban công trên cao nhớ lại những giờ phút xa xưa đứng
trên đó nhìn xuống cái quán Siu Siu ở dưới này bây giờ không còn nữa, nhớ lại cả
một thời thanh xuân, thời tuổi trẻ của mình mà lòng bồi hồi.
Đã bao nhiêu nước chẩy qua cầu.
Mẹ tôi không còn nữa. Sau biến cố năm 1975 mẹ tôi đã sống
thêm được 6 năm tại căn nhà An Đông ấy và chứng kiến bao nhiêu cảnh tang thương
của cuộc đổi đời. Tuy mẹ tôi được nhà cầm quyền mới để yên không làm khó dễ như
bà vẫn hằng lo ngại (do tên tuổi bố tôi), nhưng bà đã trải qua bao cảnh chia ly
tử biệt trong gia đình. Mẹ tôi chứng kiến chị cả tôi, chị Thư, chết trong một
tai nạn xe cộ vào năm 1976, anh Thạch tôi bị đi tù cải tạo ở miền Bắc, anh chị
Triệu tôi vượt biên, bị bắt, bị tù, rồi vượt biên nữa. Những người con của bà,
người chết người bỏ đi xa, căn nhà vắng dần bóng người, mẹ tôi nhiều lúc sống
thui thủi một mình trong căn nhà An Đông. Người chăm lo hầu hạ bà sau này nhiều
nhất là chị Thạch và... chú Tiều. Vâng, chú Tiều, con người điên điên khùng
khùng ấy không ngờ lại là người rất có tình nghĩa, tận tụy chăm lo cho mẹ tôi
cho đến những ngày cuối của đời bà.
Theo lời chị dâu tôi, chị Thạch, sau năm 1975 chú Tiều ở hẳn
trong nhà mẹ tôi. Chú giặt rũ, nấu cơm, đóng cửa, mở cửa, coi nhà và trông nom
mẹ tôi. Hồi đó trộm cướp nhiều lắm, mẹ tôi nhiều lúc ở nhà một mình nên sợ, may
mà có chú Tiều bảo vệ. Đêm đêm chú giắt con dao phay sáng quắc đi tới đi lui
trước nhà khiến đám bụi đời và lũ trộm cắp rất ngán không ai dám bén mảng đến cửa.
Anh Thạch tôi sau 5 năm trời cải tạo trở về sống ở chợ An Đông. Ngày anh trở về
là ngày vui nhất của mẹ tôi. Anh là người duy nhất trong số các con của mẹ tôi
được sống với mẹ trọn một năm chót của đời bà. Tháng Tư năm 1981 mẹ tôi bị bệnh
nặng. Anh cả tôi từ bên Pháp về Việt Nam đưa mẹ tôi sang Paris chữa bệnh. Đến
phi trường Orly mẹ tôi được chở thẳng đến bệnh viện. Bà qua đời tại đó ít lâu
sau, thọ 74 tuổi.
Trong cuộc đổi đời khủng khiếp ấy tội nghiệp nhất phải nói
là ông chủ quán cơm gà Siu Siu. Vào năm 1975 sau 20 năm làm ăn phát đạt ông Siu
Siu trở nên giầu có. Ông đã tậu 3 căn nhà sát nhau trong một dẫy phố đường Nguyễn
Duy Dương, cạnh trường Trí Dũng, và biến ba căn này thành một nhà hàng bán cơm
gà thật lớn, trong khi ông vẫn duy trì cái quán cóc nhỏ ở sát cạnh nhà mẹ tôi.
Vẫn theo lời kể của chị Thạch thì khi những người cộng sản vào trong Chợ Lớn họ
niêm phong và tịch thu tất cả những nhà hàng lớn của hoa kiều, chỉ cho hoạt động
những nhà hàng nhỏ bán buôn lẻ tẻ. Ông Siu Siu bỗng nhiên một lúc bị tước đoạt
cả ba căn nhà. Còn quán cóc thì ông sang lại cho chú Sáng, một người bà con của
ông. Tháng 6 năm 1978 những thương gia trong Chợ Lớn hùn nhau tổ chức một cuộc
vượt biên bằng tàu. Ông Siu Siu và toàn gia đình ông tham dự trong chuyến đi ấy.
Ra khơi không may tàu chìm. Toàn thể gần trăm người trên tàu không một ai sống
sót chỉ trừ một mình ông Siu Siu. Ông bám vào một tấm ván theo sóng biển trôi tấp
vào bãi biển tỉnh Bến Tre. Dân chúng địa phương báo cho công an biết và ông được
chở vào bệnh viện cứu sống. Sau khi điều tra lý lịch biết ông Siu Siu ở chợ An
Đông họ điện cho công an phường An Đông để xin giải ông về quận 5. Ông Siu Siu
sau đó trở thành người mất trí. Không còn nhà cửa để ở ông sống lây lất ngay dưới
mái hiên căn nhà cũ của mình ở đường Nguyễn Duy Dương. Rồi giống như chú Tiều
ông bắt đầu điên khùng nói năng lảm nhảm. Nhưng tệ hơn chú Tiều ông phải ngửa
tay xin từ gói xôi, gói bắp của những người qua đường để sống, những người mà
chỉ mấy năm trước đã là thực khách thường xuyên của quán cơm gà rất nổi tiếng của
ông.
Còn chú Tiều nhờ trời thương nên có hậu vận khá. Sau khi mẹ
tôi qua Pháp chị dâu tôi và anh Thạch là hai người sau cùng ở lại chợ An Đông.
Khi anh chị Thạch quyết định về ở Thủ Đức anh chị đã sang căn nhà 39 An Đông
cho bà Kim Xuyến. Bà Xuyến sửa lại căn nhà để mở một tiệm vàng khang trang đẹp
đẽ. Theo lời chị Thạch thì căn trên gác được sửa sang gắn cửa kính lắp máy lạnh
và đặc biệt để dành riêng cho chú Tiều ở. Chả là bà Kim Xuyến có nhà riêng ba tầng
ở đường Lý Hồng Phong nên bà không ở tiệm vàng. Mỗi sáng bà đến chợ An Đông bán
hàng. Chiều đến bà cho vàng vào trong két sắt (cái két sắt lớn của mẹ tôi để lại)
khóa két lại rồi giao nhà cho chú Tiều coi giữ. Đêm đêm chú Tiều giắt con dao
bên lưng, đi tới đi lui, giống như trước kia chú đã làm thế để bảo vệ mẹ tôi,
do đấy mà không một tên bất lương nào dám bén mảng đến trước cửa căn nhà số 39.
Bà Xuyến về nhà riêng có thể yên tâm ngủ vì tiệm vàng đã có chú Tiều canh giữ.
Một người khùng điên, không tài cán, không người thân thích, mà lại được tín
nhiệm giao phó trông coi cả một tiệm vàng... Đúng là chuyện khó tin nhưng có thực!
Sáu năm sau, năm 2002, chúng tôi lại trở về Sài Gòn và đến
thăm lại căn nhà cũ một lần thứ hai. Tiệm vàng Kim Xuyến không còn ở đó nữa. Từng
dưới nhà nơi chỗ hai cửa sắt trông ra hai mặt đường đã bị bịt tường kín bưng.
Trên lầu những ban công được che bằng những song sắt chắc chắn. Chúng tôi đoán
chủ nhân mới là sở hữu chủ của cả hai căn 39 và 41, họ dùng căn 41 làm chỗ buôn
bán và dùng căn nhà cũ của mẹ tôi làm kho chứa hàng.
Lần đó cũng là lần sau cùng tôi nhìn thấy căn nhà An Đông cũ
của mẹ tôi. Bức tường kín mít đã hoàn toàn chắn tôi với quá khứ. Tôi bâng
khuâng tự hỏi không biết số phận của ông Siu Siu và chú Tiều bây giờ ra sao,
còn sống hay đã chết?
Nguyễn Tường Thiết