Ngự Bình, cô “công chúa” duy nhất trong nhà, sinh ở Huế sau trận lụt năm Ất Mùi (1955). Ngày đó, mẹ và bốn thằng con trai – anh Quang, tôi, Sang, và Triết – ở trong xóm Cửa Nhà Đồ cùng với thím Lam và chị ở. Thím là vợ mới cưới của chú Lam em họ cha; cha và chú phục vụ trong quân đội và đóng đồn xa.
Suốt hai tuần cuối tháng Chín, bầu trời xám xịt,
mây thấp, và những cơn mưa như trút nước đổ ập xuống. Nước
sông Hương đục ngầu chảy cuồn cuộn, và mực nước mỗi ngày một dâng
cao. Buổi chiều hôm ấy, nước sông xăm xắp tới mặt đường; mẹ, thím
Lam, và chị ở ra sức đưa đồ đạc trong nhà lên cao. Quá nửa đêm,
tôi bị đánh thức và mơ màng nhìn quanh thấy nước dâng
lên gần tới mặt tấm phản tôi nằm ngủ với anh Quang và
Sang, guốc dép và đồ vật nổi lều bều trong nhà, và một chiếc nôốc (ghe
nhỏ có mui) áp mũi vào sát phản. Mẹ ra lệnh cho chị ở,
“Mi đưa mấy đứa đi với hai bác Hoát tránh lụt, đợi nước rút mới về!”
Bác Hoát hàng xóm cạnh nhà tôi là công chức sở lục lộ hồi hưu.
“Răng thím với chị Lam không đi?” chị ở hỏi lại.
“Tau với thím nớ còn nhà cửa đồ đạc phải coi,
đi răng được?”
Đứng dưới sàn nhà, nước ngập ngang bụng, thím Lam bưng chiếc
đèn dầu soi đường cho mẹ ẵm Triết trao cho mụ Hoát
rồi giục giã,
“Đi mau lên kẻo Mệ nuốt chừ!”
Mẹ nói “Mệ” để kiêng tên Hà bá là thần làm chủ
sông.
“Mẹ không đi thì con ở nhà phụ mẹ,” anh Quang hiểu ra và phản
đối.
“Con là chim đầu đàn phải đi mà lo cho em. Vài ngày thôi con à!” mẹ năn nỉ anh
tôi.
Chiếc nôốc chèo đi trong
bóng đêm, tôi ngủ thiếp đi. Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng
và nôốc đã đậu lại. Nước lặng. Biển nước
màu vàng đất che phủ mọi vật, chỉ chừa lại đọt (ngọn) cây
và mái nhà. Tôi gọi với hỏi ông Hoát,
“Đây là chỗ mô? Mình làm chi ở
đây ôông ơi?”
“Vườn nhà ông Bính; mình đậu nôốc chờ nước
rút.” Nhà ông Bính là một dinh cơ rộng lớn gần cầu Bạch Hổ, cách nhà tôi
không tới nửa cây số.
Suốt đêm trằn trọc, anh Quang bồn chồn lo lắng nhưng cố
trấn tĩnh dạy tôi và Sang lấy que tre làm cần câu cá, nhưng chỉ được
một lát là hai đứa tôi chán, bỏ cần câu qua một
bên, và thò tay xuống nước vọc chơi. Nhưng
làm gì thì làm, thằng Bé (tên ở nhà của tôi) bảy tuổi nhớ
mẹ quá chừng! Nước dâng lên thêm một ngày nữa là tới đỉnh
và sáng hôm sau từ từ rút xuống. Trời mưa xối xả khi chúng tôi về đến
nhà; ông Hoát nói,
Quảng cáo
Báo cáo quảng cáo này
“Mưa xối bùn, hết lụt rồi. Mấy đứa bây phải
cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho mẹ và thím bây được bằng an.”
Quanh nhà bùn đất và cành cây nằm la liệt, và
bên trong bàn ghế tủ giường lấm bùn nghiêng ngã chỏng
chơ. Mẹ huy động chị ở, anh Quang, và cả thằng Bé quét dọn
bùn và phơi phóng vật dụng. Ở phòng trong phía sau nhà, mẹ và
thím Lam lấy các xấp giấy bạc 100 đồng in hình Quốc trưởng Bảo Đại
bị thấm nước trong cái rương lớn ra, trải từng tờ trên nia để
hong khô, và dùng bàn ủi than ủi phẳng trước khi bó thành xấp như trước. Thì
ra, mẹ và thím Lam ở nhà để bảo vệ tiền bạc của cải
trong nhà.
Mẹ kể đêm, sang đêm thứ ba của cơn lụt, Trời
Phật đáp ứng lời cầu khẩn của mẹ và thím Lam: Nước dâng tới rầm
thượng dưới mái nhà thì ngừng lại. Mẹ vui mừng nói với
thím,
“Chị em mình có mang mà dầm nước lụt thì đẻ con gái.”
“Thiệt không? Răng chị biết?” thím bẽn lẽn hỏi lại.
“Ông bà mình nói rứa! Thím có mang con so lại càng ứng nghiệm.”
Quả nhiên, đầu năm 1956 thím Lam sinh con gái đầu lòng đặt
tên là Hương. Một tháng sau, Ngự Bình của mẹ ra đời. Hai cô em tôi
mang tên sông Hương và núi Ngự Bình, hai thắng cảnh vẽ nên phong cảnh hữu tình
của cố đô.
* * *
Ngày ở Huế, tôi thường bị giao cho công tác chự (giữ)
em vì mẹ nói, “Thằng Bé cẩn thận, chịu khó, và chiều em hơn thằng
anh hắn.” Năm Bình lên ba lên bốn, tôi vừa trông em vừa chơi
với Hương, thằng bạn thân ở gần nhà. Nó học cùng trường và ngang lớp,
nhưng không cùng lớp, với tôi và cũng mê đọc truyện như tôi.
Vì thói mê truyện, tôi tự học cách đóng lại sách cũ bằng
cách cắt giấy cứng làm bìa, dùng đinh đục lỗ, và lấy kềm cắt dây kẽm làm kim
đóng sách. Bà con họ hàng ai có sách cũ đều đem cho tôi, thay vì liệng bỏ.
Những cuốn sách đó thường mất cả bìa trước, bìa sau, và trang tựa đề. Tôi
ra công chế biến thành cuốn sách tươm tất và cất giữ trong cái thư viện tí hon
gồm truyện Tàu, võ hiệp, trinh thám, phiêu lưu mạo hiểm, và tình cảm xã hội.
Kho truyện của tôi thay đổi hằng ngày vì tôi đem truyện đi đổi với của mấy đứa
khác, và nhờ đó đọc được nhiều truyện đã xuất bản mặc dù không có tiền mua.
Ngoài giờ học, tôi và Hương đi đổi truyện và mang theo
Bình. Khi phải đi bộ xa, ban đầu Hương ôm sách, tôi cõng em trên lưng, và
em thích chí cười nói bi bô. Một lát sau tôi mỏi vai thì đổi phiên:
Tôi ôm sách, nó cõng Bình, và em cũng vui vẻ bằng lòng. Các bạn đổi truyện
thường nghĩ chúng tôi là ba anh em, và nhờ em xinh xắn dễ thương mà đôi khi hai
thằng được nhường cho phần hơn trong cuộc thương lượng đổi chác.
Mười mấy năm sau, cha mẹ gửi Bình từ Nha Trang vào Sài gòn học
trường nữ trung học Gia Long và ở với tôi trong nhà cư xá Bắc Hải. Lúc đó
tôi đã tốt nghiệp kỹ sư điện và đi dạy, và Hương đã tốt nghiệp kỹ sư canh nông
trường Cao đẳng Nông Lâm Súc. Ngày học đại học, nó học giỏi và được một
ông bạn ba nó đang làm lớn trong bộ Canh nông ngắm nghé gả con gái. Ra
trường nó làm đám cưới, và tôi đóng bộ làm phù rể. Tiệc cưới linh đình tổ
chức ở nhà hàng Bát Đạt trên đường Đồng Khánh trong Chợ Lớn, tôi và Bình – bấy
giờ là một nữ sinh lớp 11– được mời lên sân khấu chụp hình với gia đình cô
dâu chú rể, và chú rể thuật lại chuyện cõng em đi đổi truyện cho quan khách
nghe.
Quảng cáo
Báo cáo quảng cáo này
* * *
Cha mẹ ở Nha Trang, Sang đi lính, Triết đi du học, và trong
nhà cư xá Bắc Hải chỉ có tôi và Bình và chú Hạ tài xế kiêm đầu bếp nấu
ăn. Ban ngày Bình đi học và tôi đi làm, buổi tối hai anh em thường đi
chơi với nhau. Ngồi ở yên sau chiếc Honda, em theo tôi tới nhà bạn hay đi
ăn nhậu và kiên nhẫn ngồi nghe bọn người lớn (hơn) tán gẫu chuyện trên trời dưới
đất không mấy liên quan đến em. Tuy nhiên, ở nhà, cô nữ sinh Gia Long nói
năng nhỏ nhẻ là chủ nhà thực sự. Em nắm giữ việc chi tiêu và sai sử chú Hạ
lái xe hơi đưa đón em đi học, chở em đi mua sắm, hay đưa em đi giao dịch cho mẹ.
Em lo hết công chuyện kinh doanh của mẹ ở Sài gòn. Càng ngày, tôi và em
càng gần nhau và có lối suy nghĩ tương tự như nhau.
Cuối năm học lớp 12, Bình thi Tú tài, kỳ thi quan trọng đầu
đời của em được cho theo lối trắc nghiệm. Lối thi này được thực hiện lần
đầu tiên ở Việt nam và bị báo chí gọi mỉa là “Tú tài IBM” vì, ngoại trừ bài luận,
các bài thi đều được chấm bằng máy điện toán của hãng IBM (International
Business Machines Company). Kỳ đầu được tổ chức vào ngày 26 và 27, thứ Tư
và thứ Năm cuối cùng của tháng Sáu năm 1974. Bình thi ở hội đồng Gia
Long, trường của em. Hai tuần sau có kết quả, em đậu Bình.
Bình học ban C (Văn chương và Sinh ngữ) nên nghề nghiệp
tương lai khá giới hạn: học xong đại học hầu như chỉ đi dạy học.
Tháng Tám em nộp đơn xin thi vào ban Anh văn (ngoại ngữ chính của em) của Đại học
Giáo dục thuộc viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức mà tiền thân là ban Cao đẳng Sư
phạm Kỹ thuật. Ban này được thành lập từ năm 1962, trực thuộc nha Kỹ thuật
Học vụ, không chính thức là trường cao đẳng như trường Cao đẳng Điện học của
tôi, và lúc đầu mỗi năm chỉ nhận mười sinh viên. Năm 1972, ban
được phát triển thành Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ với trường sở
ở Thủ Đức. Năm 1974, trung tâm trở thành Đại học Giáo dục của viện Đại học
Bách khoa Thủ Đức, cùng với Đại học Kỹ thuật trong đó trường Điện là một
“Ngành” (ban).
Bình đậu vào Đại học Giáo dục, thành giáo
sinh ban Anh văn, và hãnh diện làm bạn đồng môn Bách khoa Thủ Đức với
ông anh: Tôi nhập môn trước “tiểu sư muội” chín năm. Hằng ngày em dậy
sớm nhờ Trọng em út lấy xe Honda PC đưa ra trước rạp hát Long Vân gần bùng binh
Ngã Bảy Sài gòn đón xe lô đi học. Xe chạy dọc theo đường Phan Thanh Giản
ra xa lộ Sài gòn – Biên Hòa khoảng mười cây số tới Thủ Đức và ngừng trước cổng
trường đại học, em đi băng qua sân trường là tới lớp.
Mới hôm nào là một em bé kháu khỉnh tôi cõng đi chơi, Bình
trở thành một thiếu nữ mười tám mỹ miều với mái tóc dài xõa ngang lưng, chiếc
mũi dọc dừa, và nụ cười duyên dáng không biết từ lúc nào. Tôi chợt nhớ ra
hơn một năm qua em không còn thủ thỉ tâm sự chuyện học hành hay bạn bè ở trường
với tôi, và thỉnh thoảng tôi bắt gặp nụ cười ngượng ngập của vài chàng sinh
viên đến nhà chơi và lễ phép đứng dậy chào khi tôi tình cờ đi qua phòng
khách. Đặc biệt, bạn tôi là Hòa hình như cũng đang si tình em, nhưng không
dám hé môi.
Hòa người Phú Yên là em một người bạn học đệ nhất (lớp 12)
cùng với tôi ở Ban Mê Thuột. Thân hình cao lớn chắc chắn và mặt sạm nắng,
Hòa đỗ bằng Cử nhân Vật lý ở Đại học Khoa học Sài gòn và sau khi tốt nghiệp, được
nhận làm giảng nghiệm viên phòng Vật lý của Đại học Minh Đức cùng với
tôi. Chàng kính trọng và nghe lời tôi, và tôi yêu mến tính tình chất phác
của chàng được biểu hiện trong giọng “Nẫu” Phú Yên cao và trong cất lên ở cuối
câu nghe thật thân thiết và gần gũi. Qua niên khóa thứ hai, Hòa mất việc,
nhưng chúng tôi gặp nhau thường xuyên ở lớp cao học điện tử của Đại học Khoa học.
Biết chàng nhà nghèo, vào Sài gòn trọ học mà dạy kèm tư gia không đủ sống, tôi
nhường cho chàng giờ dạy ở trường trung học tư. Hằng tuần tôi ghé lại nhà
trọ, mời chàng đi uống cà-phê hay đi ăn nhậu, và nếu về khuya, rủ ngủ lại nhà
tôi.
Quảng cáo
Báo cáo quảng cáo này
Sau ngày mất nước năm 1975, tôi và Hòa biệt tin nhau gần 15
năm. Năm 1990, gia đình chàng được bảo lãnh sang định cư ở nam
California. Chàng sống hòa thuận với vợ là Dung người cùng quê
và thuộc gia đình giàu có. Chàng rất “nể” Dung, không bao giờ dám
cãi lời vợ. Khi tôi đi du lịch hay công tác ở nam California, vợ chồng
Hòa mời tôi ở lại nhà và tiếp đãi tử tế. Chàng hỏi tôi số điện thoại Bình
và thỉnh thoảng gọi thăm em. Lúc này, với bằng Cao học Điều dưỡng, em làm
giám đốc điều dưỡng cho một hệ thống bệnh viện ở Austin, Texas và có hơn 300
nhân viên dưới quyền, và gia đình sống hạnh phúc.
Trong lần ghé thăm Hòa cuối thập niên 1990, tôi rủ chàng đi
dự họp mặt với vài người bạn cựu giảng viên Đại học Minh Đức, một trong những lần
hiếm hoi không có Dung đi cùng. Bị bạn ép uống bia, Hòa hơi quá chén và
đâm ra nhiều lời. Trên đường về, chàng trút tâm sự,
“Anh biết không, ngày đó tui thương cô Bình hết sức. Về
nhà anh ngủ đêm và được trò chuyện với cổ là những lúc sung sướng
nhất đời tui.”
“Vậy sao?” tôi hỏi vô thưởng vô phạt.
“Tui suy nghĩ cả năm trời rồi quyết định ôm mối tình câm chớ không
cho anh biết,” giọng chàng buồn tênh.
“Tại sao?” tôi thầm cám ơn chàng đã tránh cho tôi một hoàn cảnh khó xử; tôi biết
hồi đó Bình xem chàng thuần túy là bạn thân của ông anh.
“Tui biết mình thân thế quê mùa nghèo hèn và không xứng đáng với cổ. Cổ là
công chúa; tui là thằng bán than, sao dám ngước mặt vói lên trời?”
Tôi giữ kín nỗi niềm tâm sự của Hòa. Khốn nỗi, tôi
không phải là kẻ duy nhất mà chàng thố lộ tâm tư. Trong mấy lần tôi trở lại
sau đó, Dung hay hỏi tôi những câu xóc óc buộc tôi vào thế phải xác nhận chị
thông minh và tài giỏi hơn tôi. Như thể chị dùng tôi làm bung xung để đua
tranh với bóng ma của quá khứ.