Bóng đêm pha lẫn ánh ngày
Thuyền qua sông vắng chở đầy tiếc thương
Chiếc xe lửa nghiến bánh ken két trên đường sắt, nghe như tiếng rên than đau đớn, rồi rùng mình, chầm chậm và dừng lại ở ga Huế. Đám hành khách xơ xác, lôi thôi như lũ ăn mày, nhốn nháo, hốt hoảng tranh nhau đổ ào xuống sân ga. Hoàng nhảy xuống theo, hành lý trên tay chỉ có một cái bao nhỏ đựng bộ áo quần đã sờn rách tả tơi. Anh vừa được ‘cách mạng khoan hồng’ cho về đoàn tụ với gia đình, sau bốn năm ‘học tập tốt, lao động tốt’. Hoàng cười, trong tù, anh là thằng chậm chạp, trễ nải nhất thì được về trước, mấy anh chăm chỉ tích cực lao động, triệt để tuân thủ kỷ luật tù, thì còn mãi nằm lại trong đó. Thế mới biết, bạn anh nói không sai: ‘cách mạng’ thường làm ngược với lời nói.
Được tự do sau bốn năm giam cầm, lao động khổ sai nơi rừng
thiêng nước độc, đói, lạnh và bệnh hoạn. Trong lòng Hoàng rộn ràng nôn nao khó
tả. Ừ, còn sống mà trở về là phước đức và may mắn lắm. Bước chân của anh nhẹ
tênh, như đang bay bổng, không dính đất.
Nhà ga không có gì thay đổi, chỉ tiêu điều, mốc meo cũ kỹ
hơn. Người người hốc hác, ốm o và lôi thôi rách rưới. Vừa bước ra cửa ga, một
người đàn bà chạy theo níu Hoàng và hỏi:
“Có cái chi bán không?”
Hoàng cười, lắc đầu trả lời: “Mới đi tù về, có cái con khỉ!
À, mà có bộ áo quần đã sờn rách, có mua không?”
Người đàn bà mau mắn: “Mô? Đưa coi!”
Hoàng mở bao đưa bộ áo quần cho người đàn bà. Chị rũ rũ cái
quần ra xem, rồi dài giọng:
“Cấy ni là giẻ rách, ai mà mua mần chi hè!”
Chị nhìn cái quần Hoàng đang mặc, còn tốt, lành lặn, vì mỗi
tù nhân thường để dành một ‘bộ đồ viá’, chỉ dám mặc vào những khi có ‘sự cố’ trọng
đại. Chị nói:
“Hay là anh bán cái quần đang mặc nầy đi!”
Hoàng đưa tay mở thắt lưng, định cởi cái quần ra, nhưng hơi
ngượng trước mặt người đàn bà. Hoàng nhìn vào ánh mắt chị, bỗng la lên:
“Ủa! Có phải Tâm đây không?”
Người đàn bà sửng sốt, và chộp lấy hai tay Hoàng mà reo vui:
“Anh Hoàng. Em đây! Trời ơi, mới có mấy năm mà không nhìn ra
nhau. Ngày trước, anh hồng hào mập mạp, bây chừ, chỉ còn da bọc xương, đen điu
như thằng mọi. Phần em cũng thay đổi nhiều, tàn tạ, mần răng mà anh nhìn ra được
em hè?”.
Hoàng cười: “Nếu không ngó kỹ vô đôi mắt của mi, thì tau
cũng không nhìn ra. Ngày xưa, bạn bè tau thường đặt cho mi cái biệt danh là ‘Mắt
huyền bí’. Đôi mắt mi, đã làm xao xuyến không biết bao nhiêu con tim đó!”
Cô Tâm nầy là bạn của Nga, người em gái kế, thua Hoàng hai
tuổi. Quen biết thân thiết nhau từ nhỏ, Hoàng vẫn thường quen xưng hô ‘mi, tau’
thân mật với các bạn của cô em gái. Hoàng chăm chú nhìn Tâm và nói:
“Răng mà mi khổ dữ ri Tâm?”
Tâm cười như không biết cô đang khổ:
“Thời buổi ni, ai mà không khổ, không đói? Còn sức mà chạy gạo
cho con là may mắn lắm rồi. Anh không biết, chứ con Hải còn khổ hơn nữa, phải
đi xin nước vo gạo uống đỡ đói. Anh đi tù, còn khổ hơn tụi em chứ?”
Hoàng ngần ngại hỏi: “Răng mà tụi bây bỏ dạy học, chạy lang
bang đầu đường xó chợ kiếm cơm như ri?”
Tâm nói lớn: “Ai mà dám bỏ việc trong thời buổi ni? Bọn em bị
đuổi việc, không cho dạy nữa, vì gia đình ngụy quân, ngụy quyền. Nhà cửa cũng bị
tịch thu, không nơi trú ngụ.”
Mấy người xe đạp thồ hăm hở tiến đến gần Hoàng mời mọc.
Hoàng chọn người già nhất, ốm o, đội nón lá rách và hỏi:
“Về cửa Đông Ba bác lấy mấy đồng?”
Người đàn ông nói nho nhỏ: “Anh cho mấy cũng được. Ngồi lên
xe đi!”
Hoàng dạng chân, leo lên khung sắt chở hành lý phiá sau yên
xe. Người đạp xe thồ thở phì phò mệt nhọc khi lên dốc cầu ga. Hoàng nhảy xuống,
phụ đẩy xe qua khỏi dốc, rồi leo lên lại. Người xe thồ cám ơn, và hỏi:
“Anh đi mô về rứa?”
Hoàng đáp: “Mới đi tù về!”.
Ông nói: “Khổ chưa!”
Hoàng cười vui vẻ: “Được ra khỏi tù là sướng, chớ răng mà
bác kêu là khổ?”
Ông già đạp xe chíp miệng: “Đi tù thì khổ là cái chắc. Nhưng
ra khỏi tù rồi cũng chưa hết khổ mô! Không chừng lại còn nhiều mối lo hơn khi
đang ở tù. Tin tui đi!
Nghe giọng nói eo éo khàn khàn như vịt xiêm của ông xe
thồ, và thoáng nhớ nét mặt quen quen của ông, Hoàng chợt nhận ra ông cụ là ai.
Anh la lớn:
“Dừng lại, dừng lại bác ơi!”
Ông già ngơ ngác. Hoàng nói
“Bác đưa xe cho cháu đạp, bác ngồi, cháu chở đi.”
Ông cụ bối rối: “Bậy nờ! Mần chi mà lạ rứa?”
Hoàng thúc dục: “Bác cứ leo lên đi! Cháu còn sức đạp xe mà!”
Hoàng đạp xe chở ông cụ mà lòng tan nát tơi bời nhớ đến kỷ
niệm xa xưa. Ông nầy là bố của Hồng, người yêu đầu đời. Hai đứa yêu nhau tha
thiết, tưởng có thể chết cho nhau được, thế mà cuộc tình không thành. Ông cụ đã
nghiêm cấm. Ông nói với con gái: “Mần răng thì mần, Ba nhứt thiết không sui
gia, không nói chuyện với ông Thụ. Không ngồi ngang hàng với ông nớ!” Ông khinh
khi gia thế của Hoàng thuộc giai cấp lao động. Ngày xưa, lúc ra đường, khi nào
ông cũng áo quần phẳng phiu, mang áo vét, thắt cà-vạt, giày da láng bóng, như sắp
đi dự hội nghị quốc tế quan trọng. Ông lái chiếc xe hơi cũ. Thời đó, xứ Huế rất
ít người có xe bốn bánh. Ông tránh giao thiệp với hàng xóm, có lẽ ông nghĩ rằng,
họ không cùng giai cấp. Ông cụ chưa nhận ra thằng rể hụt đang còng lưng thở phì
phò đạp xe chở ông
Dọc theo đường Lê Lợi, ngang qua trường Quốc Học cũ, nơi
tràn đầy kỷ niệm của một thời xa xưa. Hồi đó, có nghèo khổ, có thiếu thốn,
nhưng tràn đầy hy vọng cho tương lai. Đời tươi như hoa nở.
Ông cụ ngồi sau xe, cứ lẩm bẩm hoài: “Răng mà lạ ri hè! Lạ
quá đi chớ!” Hoàng đạp xe và đưa tâm trí miên man về miền quá khứ
Đang mệt thở hổn hển, Hoàng tần ngần, không dám hỏi trực tiếp
tin tức về người yêu cũ, mà né tránh, hỏi về ông chồng của nàng:
“Anh Dũng, chồng cô Hồng đã được ‘cách mạng khoan hồng’ tha
về chưa bác?”
Ông cụ xe thồ ngạc nhiên hỏi: “Ủa, anh cũng biết thằng Dũng,
rể tui? Hắn cũng chưa được về. Mà răng anh biết tui hè?”
Hoàng hơi bối rối, không trực tiếp trả lời câu hỏi của ông,
từ tốn nói: “Tụi cháu gặp nhau trong trại cải tạo Bình Điền một thời gian. Sau
đó, chuyển trại, mất tin tức nhau. Có thời Dũng bệnh nặng, nằm liệt cả tháng,
tưởng không qua khỏi. Bây chừ cô Hồng mần việc chi bác? Có còn đi dạy không?”
Hoàng cố tránh, không muốn để ông cụ biết anh là ai, để đỡ
ngỡ ngàng. Ông cụ ho khan mấy tiếng, rồi trả lời
“Có chồng đi cải tạo, ai mà cho dạy nữa! Hắn bị đuổi lên
kinh tế mới Nam Đông, ôm theo ba đứa con dại. Nhà cửa bị tịch thu. Chân yếu tay
mềm, không biết mần răng mà phá núi, bạt rừng, cuốc đất trồng khoai sắn. E rồi
cũng chết đói cả lũ mà thôi.”
Hoàng ngậm ngùi: “Trời đất gió bụi, thì ra ngoài đời, cũng
đói khổ không thua chi trong tù !”
Ông cụ nói nho nhỏ: “Trong tù, mấy anh khỏi lo miếng ăn, tuy
đói, nhưng mỗi ngày cũng còn có chút chi cho vào miệng. Ngoài tù, mỗi sáng thức
dậy, hoang mang lo lắng lắm, không biết hôm nay có củ khoai, khúc sắn dằn bụng
hay không. Nhiều hôm đạp xe thồ, cả ngày chưa có chi ăn, bụng đói, chân rã rời,
đạp không nổi, mồ hôi vã ướt toàn thân. Nhiều gia đình, có khi một ngày chỉ ăn
một bữa, cũng có lúc, một ngày không có chi ăn. Khổ lắm anh ơi. Người ta nói trời
sinh voi, trời sinh cỏ, sai bét. Họ ‘quản lý’ hết cỏ rồi, thì voi cũng nhăn
răng.”
Hoàng hỏi: “Rứa thì hôm ni bác đã ăn chi chưa?”
Ông cụ đáp yếu xìu: “Có. Hai củ khoai, cũng tạm dằn bụng. Uống
nước vô nữa thì cũng tạm no.”
Nghe ông cụ nói, Hoàng cũng hoang mang lo lắng. Không biết rồi
mai đây, làm gì để sinh sống. Bỗng nhiên, đôi chân Hoàng rã rời, như không còn
sức lực. Khi đi ngang qua chợ Đông Ba, Hoàng dừng xe lại, và nói:
“Mình vô đây uống miếng nước đã bác! Mệt và khát lắm rồi.”
Hoàng cho tay vào túi, mân mê đếm tiền. Nhờ có vợ bí mật tiếp
tế cho một ít tiền từ tháng trước. Bên gia đình vợ, chạy hết được ra khỏi xứ từ
năm 1975. Chỉ có vợ Hoàng kẹt lại, vì Hoàng không chịu đi.
Hoàng ngồi xuống bên gánh chè, mời ông cụ xe thồ ăn một
chén. Ông cụ lắc đầu, bảo ông không có tiền, mà dù có tiền, cũng không phí phạm,
chè là thứ xa xỉ trong thời buổi nầy. Hoàng nói bác đừng lo, cháu đãi bác mà.
Ông cụ ngần ngại, rồi cũng ăn. Hoàng thấy mặt ông rạng rỡ, nhai nuốt ngon lành,
liếm mép, vét đáy chén, như cả đời chưa bao giờ nếm đến món nầy. Trong lòng
Hoàng, dấy niềm thương cảm. Ngày xưa, ông ngăn cản cuộc tình giữa Hoàng và con
gái ông, nhưng Hoàng không hề oán giận hay ghét bỏ ông. Hoàng chỉ không ưa cái
phách lối phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, giàu nghèo. Các con ông đều là bạn của
Hoàng. Thằng Quý, con trai đầu của ông là bạn học thời thơ ấu, Hồng là người
yêu của Hoàng, các em Hồng là Đạo, Huy, Bê Chị, Bê Út. Ngày đó, ông cấm con ông
giao thiệp, chơi đùa với trẻ con trong xóm, vì sợ lây nhiễm cái bần của con cái
gia đình nghèo. Nhưng rồi mười mấy năm sau, đám con cái nhà nghèo nầy, có đứa
thành giáo sư trung học, đại học, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, sĩ quan, hoặc giữ các
chức vụ hành chánh trong xã hội. Các con ông, chỉ có Hồng lết lên đến đại học,
làm giáo sư. Nhớ các con ông, Hoàng tần ngần hỏi:
“Quý bây giờ làm chi? Ở mô hở bác? Có còn làm thơ viết văn
không?”
Ông nói với giọng buồn: “Hắn tự tử chết rồi. Ngày xưa hắn
chống chiến tranh, trốn quân dịch, bị bắt đi làm lao công chiến trường, rồi bị
thương tật. Sau 1975, vì không lao động được, chỉ ăn bám vợ. Thấy vợ vất vả, hộc
tốc ngày đêm tối mắt tắt mày chạy kiếm gạo, mà cả nhà cha con đều đói. Hắn tự tử
chết cho bớt gánh nặng đè trên vai con vợ khốn khổ. Hắn có viết mấy bài thơ cảm
động lắm, ai đọc cũng chảy nước mắt dầm dề.”
Mắt ông cụ đỏ ngầu và ướt. Hoàng thở dài, thầm nghĩ, nếu
trong hoàn cảnh của Quý, thì Hoàng cũng chọn cái chết, cất bớt gánh nặng cho
gia đình. Hoàng hỏi tiếp:
“Còn Đạo và Huy chừ mần chi? Hình như Đạo có thời đi vô bưng
theo ‘mặt trận’ phải không?”
Ông cụ thở một tiếng rất dài: “Đúng, thằng Đạo có thời vô
bưng. Sáng con mắt ra. Vỡ mộng, rồi trốn về thành, theo chương trình chiêu hồi.
Hắn bặt tăm từ tháng 3 năm 1975, có lẽ mai danh ẩn tích ở một nơi mô đó. Hoặc
không chừng đã bị thanh toán gọn rồi. Còn thằng Huy thì bị bắt đi ‘nghĩa vụ
quân sự’, đã gởi xác bên Kampuchia.”
Im lặng một lúc cho bớt xúc động. Hoàng hỏi tiếp: “Còn Bê Chị,
Bê Út chừ ở mô? Đã có chồng con chi chưa?”
Ông cụ nhìn ra xa, và nói như trong mơ: “Bê Chị bây chừ lang
thang, theo đoàn văn công đi lưu diễn đây đó. Có lẽ cũng vất vả, khổ cực, nhưng
cũng đỡ đói khát. Hai năm trước, vào dịp Tết, có người gặp nó ở trại Tống Lê
Chân, giữa rừng già gần biên giới Miên Việt, trình diễn văn nghệ giúp vui cho bộ
đội. Còn con Bê Út thì đi vượt biển không có tin về. Có lẽ cũng xong một đời rồi.”
Hoàng bụm hai tay vuốt mặt. Ông cụ nhìn kỹ Hoàng, rồi chộp
vai anh mà lắc, hỏi: “Hoàng! Anh là Hoàng phải không? Trời ơi, thay đổi như ri,
thì ai mà nhìn cho ra?”
Hoàng nói nho nhỏ: “Phải, cháu là Hoàng đây. Hàng xóm của
bác, và là bạn của Hồng ngày xưa. Cuộc đời đổi thay nhiều quá, không biết mô mà
lường!”
Ông cụ thở dài, nói như phân bua: “Anh có tin vợ chồng là
duyên số không? Không duyên nợ, thì có vùng vẫy mấy cũng không thành. Nầy, mà
con Thu vợ anh, là một người đàn bà đảm lược và gan lì có hạng, cả xóm ai cũng
phục hắn. Bị đuổi đi kinh tế mới, nhất định cố thủ, không đi. Bị cắt sổ hộ khẩu,
cũng không sợ. Hắn còn dọa, la toáng lên cho bà con biết, sẽ đốt nhà tự thiêu
cùng ba đứa con, nếu bị ép quá. Có lẽ chính quyền cũng sợ nó làm ẩu, mang tiếng.”
Về đến nhà, Hoàng móc tiền ra trả, ông cụ không lấy. Hoàng
dúi vào túi ông rồi đẩy đi. Ông quay lại: “Coi như tui nợ anh số tiền ni.”
Cuộc đoàn viên của Hoàng với gia đình sau bốn năm tù tội xa
cách đầy cả niềm vui và nước mắt.
Xóm cũ, bây giờ cán bộ miền Bắc vào, tịch thu nhà, ở xen kẽ
đó đây. Họ lạnh lùng, ánh mắt nhìn xoi mói như muốn dò xét, kiểm soát xóm giềng.
Thu, vợ của Hoàng trước đây cũng đi dạy học, bị sa thải, vì có chồng đi tù cải
tạo, nàng nói với Hoàng:
“Không cho dạy học nữa, cũng không tiếc. Nhờ vậy nên mình mới
có thì giờ kiếm được chút cơm cháo, nuôi con sống qua ngày. Mấy đứa còn đi dạy,
suốt ngày bận rộn, nào là ‘giáo trình’, nào là ‘đứng lớp’, liên miên học tập
chính trị, đêm về còn họp hành đến khuya khoắt. Lại đi làm chiến dịch xoá nạn
mù chữ, xuống tận các thuyền đò trên sông, lên tận các miền núi non. Học viên
thì bị bắt buộc, cả ngày đã lao động quá mệt, đêm về uể oải, buồn ngủ không muốn
học, không muốn nghe. Mình “mất dạy” nên có thì giờ, chạy đến nhà quen, vét mua
áo quần cũ bán ra miền Bắc. Mua một, lời hai ba. Người ta nhát gan, không dám
ra chợ trời bán, sợ bị bắt, mình đến tận nhà, dù chúng nó biết là mua bán, cũng
không tịch thu hoặc kết tội được. Cái xứ gì mà mua bán là “mất đạo đức
cách mạng”. Đi ăn cướp, thì là có đạo đức cách mạng chắc?”
Hoàng lo lắng: “Em ăn nói nên giữ lời một chút, kẻo mang hoạ
vô thân.”
Thu đáp: “Em biết chứ, bà Long ở cạnh nhà mình đó, bị tịch
thu nhà, và bắt đi tù cải tạo, chỉ vì nói câu: “Đói rách vĩ đại”. Chúng nó
kiêng, cho rằng chữ ‘vĩ đại’ chỉ để dùng riêng cho ông Bác của chúng thôi. Hai
năm trước người ta đồn rằng, có thằng học sinh 15 tuổi, bị bắn chết, vì hắn dám
kêu là ‘lão Hồ’. Chúng nó là một lũ điên, mù quáng, thờ phượng quỷ sứ.”
Hoàng can: “Thôi thôi em ơi. Nói cho đã miệng, rồi mang họa
vào thân, khổ lắm.”
Mắt Thu long lên: “Nếu tất cả mọi người đều đủ can đảm
nói lên đúng sự thật, không nói dối, và biết xấu hổ khi nói lời hoang tưởng về
xã hội chủ nghĩa, lại không nghĩ một đường, nói một nẻo, thì bọn chúng hết đất
sống. Anh xem, xưa nay trong lịch sử Việt Nam, từ thời bị Tàu cai trị, bị Tây
đô hộ, có bao giờ dân tình bị khốn khổ, áp bức, hăm dọa, khủng bố, kềm kẹp như
bây giờ không?”
Nghe vợ nói, mà Hoàng sợ lạnh cả xương sống. Anh biết mình
hèn nhát. Đã không dám làm, mà cũng không dám nói. Anh thầm phục vợ. Đúng, nếu
tất cả mọi người đều không sợ, thì chúng nó hố to
Cái xóm cũ ngày xưa vui vẻ sống động, bây giờ tiêu điều buồn
bã. Bọn con trai ngày trước, chỉ còn lác đác vài mạng. Gặp nhau cũng không dám
chuyện trò nhiều, chào nhau lạt lẽo, không dám tin, và e dè nhau. Phần bọn con
gái thì vẫn còn khá đông, đứa nào cũng xất bất xang bang, đói vàng mắt, chạy gạo
nuôi con, nuôi chồng trong tù.
Con Hiền thì ôm con từ cao nguyên về, chồng đi tù, che tấm
ni-lông trước hiên nhà bố mẹ chồng, mấy mẹ con chui rúc trong đó. Những đêm
đông mưa dầm gió tạt, rét mướt, mấy mẹ con ngồi ôm nhau cho đến sáng. Cả đám
rách rưới như tổ đỉa. Mùa đông, lâu lâu thấy Hiền mặc quần ướt, vì chỉ còn một
cái, giặt ban đêm phơi chưa khô. Ba đứa con còn nhỏ, Hiền ngược xuôi tất tả, nó
như con chim tha mồi về cho đàn con đói. Hiền kể rằng, nhiều đêm chưa kiếm gì
được cho con ăn, nó về rất khuya, con nằm đói lả, nó cũng chưa có chút gì vào
miệng, bụng cũng đói meo, nằm ôm con mà nước mắt dầm dề. Hiền có hiềm khích với
gia đình chồng, và tự ái, không muốn van xin. Ông bà nhạc gia giận hắn hỗn láo,
và có lẽ ông bà cũng đang đói, không giúp đỡ được gì cho lũ cháu nội. Có khi
đói quá, nửa đêm, nó gào lớn, kêu tên ông bà nhạc gia ra mà bêu rếu: “Ông bà
Trang ơi, cháu nội ông bà đang chết đói đây. Ông bà ăn lấy một mình, lòng dạ
nào mà nhìn lũ cháu nội chết đói đây!” Bên trong, ông Trang ghé miệng qua song
cửa “Suỵt! suỵt! Mi có câm cái miệng lại không? Tau ra đánh cho chết cả đám bây
chừ!” Nó thách đố ông, gào to thêm giữa đêm khuya vắng. Ông bà xấu hổ với xóm
làng, im lặng chịu thua.
Anh Phú ngày xưa ghét và chống Mỹ, chạy vô bưng. Bây giờ về
lại Huế, miệng thì vẫn ca ngợi cách mạng, hoan hô Bác Đảng, nhưng mặt thì buồn
tênh, tái mét. Anh cũng đói. ‘Cách mạng’ cũng chỉ cho phong cho anh cái chức vụ
quèn, chạy cờ, vô thưởng vô phạt. Họ còn nghi ngờ anh được Mỹ Ngụy gài vào bưng
nữa.
Một buổi sáng Hoàng gặp Lê là bạn cũ, Lê cho biết mấy năm
nay không cho lũ con đến trường nữa, vì không muốn chúng học những điều gian dối,
láo khoét, học căm thù, học nhỏ nhen ti tiện. Không đi học, thì chúng khỏi tiêm
nhiễm những hư hỏng, xấu xa của bọn người rừng thượng cổ đó. Phần Lê, thì giả vờ
nửa tỉnh nửa điên, ngày ngày đứng trước cửa nhà chửi đổng, kêu ‘chú’ ông Trời
ra mà thoá mạ, cũng còn kiêng kỵ, chưa dám kêu ‘bác’ ông trời, sợ chúng quy chụp
phạm húy.
Hoàng hỏi thăm anh Thiên, người anh lớn của Lê, trước đây là
thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến, mới biết anh đã cùng đồng đội ngồi quanh, rút chốt
lựu đạn tự sát tập thể trong cuộc lui quân hỗn loạn vì lệnh lạc bất nhất ngày
đó.
Thằng Tiến, bạn cùng lớp với Hoàng ngày xưa, nó hiền như con
gái, có ông bố vợ đi tập kết ra Bắc từ 1954 trở về. Ông nắm giữ một chức vụ
quan trọng gì đó trong ‘thành ủy’ Bình Trị Thiên. Ông đã nhờ đồng chí ngụy tạo
cho anh con rể một giấy chứng nhận, là ‘cơ sở’ tức ‘cách mạng’ nằm vùng. Tiến
được cất nhắc lên làm giám đốc một công ty sản xuất. Nhờ đó, mà Tiến ôm hết tiền
bạc của công ty nhà nước, mua thuyền vượt biên cùng với gia đình hai cô em vợ.
Ông bố vợ bị kiểm điểm, mất chức, nhưng ông không buồn. Khi nào người ta cũng
thấy ông cười cười như đang có chuyện gì vui. Thiên hạ xì xào ông đã ‘hy sinh đời
bố, củng cố đời con’
Một hôm, vợ Hoàng thầm thì: “Không lẽ mình chịu sống mãi cuộc
đời áp bức đen tối không thấy ánh tương lai nầy sao? Phải làm cái gì chứ! Anh
biết không, chị Hương có gặp anh Phong trên xe lửa. Anh ấy bảo là đang cùng bạn
bè chiến đấu ‘phục quốc’ ở rừng Tây nguyên. Anh đang đi chiêu mộ bạn bè đồng
chí hướng. Trước đây, bằng lòng buông súng đầu hàng, vì nghĩ mấy mươi năm chiến
tranh, dân chúng đã khổ lắm rồi, hy vọng thanh bình, dù cho chế độ nào, nhân
dân cũng sẽ đỡ khổ hơn. Nhưng không ngờ, hết chiến tranh, còn đói khổ hơn gấp
nhiều lần. Chúng cai trị hà khắc, xía vào từng đời sống riêng tư, muốn kiểm
soát chặt chẽ cả tư tưởng, ý nghĩ, sinh hoạt thường ngày. Chính họ đã bắt buộc
chúng ta cầm súng đứng dậy, để cởi ách nô lệ nầy. Anh có muốn tham gia không,
em bằng lòng để anh đi.”
Nghe mà Hoàng sợ lạnh cả người, và thấy xấu hổ với vợ. Hoàng
ấp úng: “Anh sợ quá! Trước đây, chúng ta có cả triệu tinh binh, mà chỉ vì Mỹ
thôi viện trợ, hết đạn dược, nên đành chịu thua. Bọn chúng, có cả mấy chục nước
trong khối cộng sản tiếp tế, viện trợ không ngưng nghỉ. Chúng ta lấy gì mà chống
lại?”
Thu nghiêm mặt: “Lấy gì để chống lại? Chúng ta lấy lòng
dân để giành lại đời sống tự do. Trước đây, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đều bị
chúng lừa bịp ngon ơ. Dân Nam thì chưa hiểu rõ cộng sản là cái quái gì, dân Bắc
thì bị nhồi nhét tuyên truyền dối trá. Nay mọi người đều hiểu biết, biết rõ.
Lòng dân là ý trời. Nếu có kẻ anh hùng dựng cờ lên tiếng, thì muôn người sẽ về
theo như sóng dậy. Lịch sử đã chứng minh từ xưa đến nay, khắp Âu, Á, khi bị bạo
quyền cai trị, thì ban đầu, cũng chỉ năm ba người dựng cờ khởi nghĩa, mà đi đến
thành công.”
Buổi nói chuyện với vợ hôm đó, làm Hoàng vừa lo nghĩ, vừa sợ
hãi, vừa phấn khởi, vừa xấu hổ cho bản thân, những tình cảm đối nghịch nầy làm
anh phát bệnh, sụm luôn mấy ngày.
Thu biết chồng không có đủ can đảm và dũng khí để làm đại sự.
Cô thúc dục Hoàng: “Nếu không làm được gì cho đất nước, thì phải làm cho riêng
mình, cho gia đình. Sống trong chế độ nầy, con người trở thành hèn nhát, nhỏ
nhen, ti tiện, dối trá. Phải tìm đường thoát. Không còn lối nào khác.”
Sáu tháng sau, Hoàng xin giấy phép của công an, đưa vợ con về
vùng kinh tế mới Cà Mau. Rồi leo lên thuyền ra khơi đi tìm tự do. Khi thuyền bị
chết máy, lênh đênh trên biển nhiều ngày. Đói, khát, hết hy vọng sống sót,
nhưng Thu vẫn cương quyết nói: “Thà chết trên đường đi tìm tự do, còn hơn là sống
với bọn gian ác khốn cùng đó.”
Khi được định cư trên quê người, trong hai mươi mấy năm liên
tiếp, Thu đã chắt chiu từng đồng, mua quà gởi về, chia xẻ cho các bạn bè cũ
trong xóm, mua gạo cho con cái họ đỡ đói trong thời buổi điên khùng đó.
Tháng 5 năm 2015, kỷ niệm bốn mươi năm đau buồn ‘mất nước’,
các cô bạn ngày xưa trong xóm cũ nội thành, nay đều đã thành ‘mệ’, họp nhau tại
quận Cam để chung vui hàn huyên. Các bà nầy đa số đi theo chồng qua Mỹ theo
chương trình tù nhân chiến tranh, một số khác đã vượt biển, một số nhỏ, được
gia đình bảo lãnh. Bà nào cũng con cháu đầy đàn. Nhắc lại thời xưa, mà bà nào
cũng nước mắt còn rưng rưng. /.