Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân Cộng sản, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ Tổng thống Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa Tổng thống Zelensky của Ukraine và Tổng thống D. Trump cùng Phó Tổng thống J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” Tổng thống Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, Tổng thống Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!
***
Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng
niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày miền
Nam Việt Nam hay nước VNCH bị Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội
tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký
kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận
của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng
bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái
gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam, trong khi ai cũng biết đó
chỉ là đám tay sai, con rối do Cộng sản Bắc Việt nặn ra.
Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh
luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là
cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là
bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975,
tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời
cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm
kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”
Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu
của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác
là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến
Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt
làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm
vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường,
gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng
Mỹ, qua lưỡng viện Quốc hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng
thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và
dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng
đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn,
được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn
hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký
kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như
Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!
***
Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào
sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 Cộng sản
cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này
bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm
ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục, Bệnh Viện 2 Dã Chiến
và vòng đai phi trường Kontum, cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới
tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán
binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất
bại này Cộng sản Bắc Việt đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)
Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở
Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và Quảng Trị ở Quân Đoàn I
đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của Cộng sản Bắc Việt, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa
rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu
bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.
Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió
chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng
biết bao máu xương để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị
chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và
Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của
những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên
nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.
Ủy Ban Nobel Hòa Bình Na Uy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ
và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger
và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu Na Uy phản đối, một số thành
viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận
giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng Cộng sản đều
biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn
trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẽ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến
nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.
Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức
ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng Cộng sản Bắc Việt không phải rút về Bắc
mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà họ vừa lấn chiếm, cùng
lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi Cộng
sản Bắc Việt vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối Cộng sản gia tăng tối đa viện
trợ. Lợi dụng tình hình này, Cộng sản Bắc Việt đã ào ạt chuyển đại quân, chiến
xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ
Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong
khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn,
từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.
Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía
với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet
On The Western Front” (Mặt Trận miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm
viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù
tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:
“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm
máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên
vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng
tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng
tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược
để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch
hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”
Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng
tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã
xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!
Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường,
nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm
máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điển
hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại
trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không,
chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên
làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến
đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở
phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần”. Có người lại
bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có
người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ
thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là
những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao
thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường,
chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn
độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.
***
Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình.
Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế
Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả
bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng
đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô
cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn
lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.
Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi.
Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn
thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch
sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại
ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường
hợp nhà văn bộ đội Cộng sản Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận
ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất
tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ
nghĩa” của mình.
Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa
thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc”
chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng,
trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng
tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong
các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục
mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến
mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải
tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số
ít nghĩa trang lớn còn sót lại, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi
(như nghĩa trang quân đội Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương
lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng,
đổi chác với Hoa Kỳ cùng thế giới tự do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền
Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.
Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang
phế nằm lẩn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần
như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm
trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm
lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và
dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền Cộng sản đe dọa,
ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang
phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.
Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975,
trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu
quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu
hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở
các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của
tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm
mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi
tấm bia xám xịt rêu phong, lẩn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.
(Mộ tù cải tạo trong rừng núi
Yên Bái – Ảnh từ youtube)
Một chứng tích đau lòng khác, những thương phế binh VNCH bị
đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước. Phần đông, theo
thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây
lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng
tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri
ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp
gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị
tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như
là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã
hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền Cộng sản cũng đã tìm mọi cách gây
khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.
(thương phế binh VNCH – Ảnh: Dân Làm Báo)
Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của
hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt
địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành
một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày
ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy,
mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay
nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con
người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong
suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả
quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết.
Chính quyền Cộng sản từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo
chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm,
chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả” của quê hương,
dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự
do – mà chính quyền Cộng sản vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã
thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ
mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm
nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhận họ, nhưng
cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền Cộng sản trong nước hằng mơ ước.
Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam,
vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ
hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng
hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân
bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người
dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ
dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần
so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ
trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông,
chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh cao nguyên, miền Trung,
giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy
của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở
đây.
50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp
đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung
quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học Sư phạm (Thái Bình) đã công
khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn
là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục
hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và học trò.
Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ
sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.
Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến
cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo
sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối
trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường
lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một
vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật
tưởng tượng. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã
thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ
GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần
Huy Liệu không còn nữa. (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê
Văn Tám, Khoa
Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này năm
2005,
người dân trong nước do đó đều biết câu chuyện gian dối lừa
mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.
50 năm, nền văn học “xã hội chủ nghĩa” còn lại những gì,
ngoài mấy trăm bài thơ tuyên truyền, nịnh lãnh tụ, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta
bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay
“ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ,
thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các
bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường
Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo, Năm Anh Em Trên Một
Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong
mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe!
Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho
là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị
đàn áp, tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn,
giờ lại làm mê mẩn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”,
công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm,
vùng sâu vùng xa. Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất
đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.
Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề
“Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ
(giảng viên tại trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:
“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền
Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.
Thế nhưng, người miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi,
tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần
của trí thức miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự
do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền
miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học
nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa.
Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…
Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở
Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật miền Nam vô cùng
gíá trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức
khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…
Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường
Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm văn học miền Nam và bộ sưu tập của bạn
ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất
nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền
văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới
nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây
trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài
thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính
nhân văn:
(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều
trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)
Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học
Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học
miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”
Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng
Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau
1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã
kết luận:
“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam,
trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng”
người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo,
“gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định
hướng XHCN….
Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng”
gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc
phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã
đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”
***
Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất
định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triển, đời sống người
dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt Nam vẫn còn
tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông Tổng Bí thư Tô Lâm mới
đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970,
Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì
ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”
Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền
Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986
Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu
hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:
Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia
Đông Âu, mới giã từ chế độ Cộng sản khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức
cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).
Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi)
theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp
đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”,
đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều
này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng
Cộng sản từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tội trong “Cải
Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”,
và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất
tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.
Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ
này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo
Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất
nhiên ngay trong hàng ngũ đảng Cộng sản, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ
hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ
quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền
con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm
mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phỡn giàu sang trên đầu những
người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại
các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc
từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.
Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng
khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột
đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về Việt Nam” (sic!). Trong
khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những
ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô
lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình. Một số bị giết chết hoặc
bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng
cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử
dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà
thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế.
Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế
giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại
tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi
Việt Nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một
số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào
chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng
chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm
“hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân
lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm,
đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt Nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.
***
Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước Cộng
sản Việt Nam đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “thống nhất”, thao dược một cuộc diễn
binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề
phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong
khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo
chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt
để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp)
giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với
bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:
Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh
sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài
thơ
Tạ Lỗi miền Nam
…
Sám Hối
***
Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa
đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ
cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn
âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi
trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng
đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.
Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều
năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi
thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi
năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều
tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều
làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những
việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”
Cuối tháng 4-2025