Tôi sinh ra ở miền trung, nơi có
rặng Trường Sơn chồm ra sát biển. Dòng sông nghèo phù sa cũng cố nuôi dưỡng
những cánh đồng nho nhỏ. Cuộc sống ở quê tôi thật lặng lẽ...Mỗi buổi chiều nhìn
đàn cò trắng bay về núi, nhìn những đám mây trắng đùn lên phía chân trời tôi
vẫn mơ ước được biết bên kia núi có gì vui hơn.
Ngôi nhà của mẹ tôi nằm trên con
đường dẩn đến một ngôi nhà thờ cổ kính rất đẹp do người Pháp xây. Hồi đó người
ta gọi là nhà thờ Gò Muồng.
Mỗi sáng chủ nhật, tôi thường đứng
trước nhà nhìn người có đạo đi xem lễ.
Thích nhất là được xem lễ rước kiệu
vì trong lễ rước kiệu luôn có nhiều thiên thần.
Các thiên thần đầu mang vòng hào
quang, vai có hai cánh nhưng không bay được. Dầu sao hình ảnh của thiên thần
thật đẹp đối với tôi thuở ấy. Tôi cũng thích thú ngắm nhìn đội kèn và người
nhạc sĩ mang một cây đàn rất to trước ngực. Cây đàn ấy có thể xếp lại như cái
lồng đèn xếp . Mẹ tôi nói đó là đàn phong cầm.
Một sáng chủ nhật năm 1954, có một
sự kiện lạ lùng từ trước đến giờ tôi chưa từng nhìn thấy. Đoàn người đi xem lễ
bổng rất lạ và đông nghẹt con đường trước nhà tôi. Mẹ tôi nói họ là người Bắc
di cư. Họ không muốn sống chung với Cộng Sản nên họ đã phải bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ
xóm, bỏ làng vào Nam tìm đất sống. Họ dừng chân ở quê tôi nhằm ngày chủ nhật
nên họ đi lễ cầu Chúa ban phước.
Thật là một cuộc phiêu lưu kỳ thú !
Mà họ cũng là người Việt ư? Sao họ
ăn mặc lạ quá. Phụ nữ mặc áo nâu có hai tà cột phía trước., có người vấn khăn
nhung đen , có người bịt khăn mỏ quạ. Răng của người già đen như than.
Đó là lần đầu tôi nhìn thấy người
“Bắc Kỳ Di Cư”
Mẹ tôi nói vậy là từ nay nước mình
bị chia đôi từ sông Bến Hải..
Một nước bị chia làm hai nước ư. Tôi
sẽ không bao giờ được bước qua , được nhìn thấy phần đất bên kia . Lạ thật!
Năm đó tôi lên năm.
Năm sau tôi được cắp sách đến
trường.
Có lẽ người soạn sách giáo khoa là
người Bắc nên tôi được học tiếng Việt như học ngoại ngữ.
“Cô Sa cho ta ba quả na”
Thầy giáo của chúng tôi giảng:
-Quả na là trái mảng cầu. Rồi thầy
nói to cho chúng tôi đồng thanh đọc theo:
-Quả muỗm là trái xoài
-Cá quả là cá tràu.
Con lợn là con heo
-Cái môi không phải là cái miệng. Nó
là cái vá múc canh…
Cuối năm ,tôi cũng đã đọc được bài
thuộc lòng in ở trang cuối quyển tập đọc lớp năm:
“Kỳ nghỉ hè
Ta về quê
Nhà ta ở mé bờ đê
Ở nhà có
Mẹ cha ta
Cô và bà
Quý ta quá
Khi thư thả
Ta ra đê
Đi thả bê
Nghĩ mà thú.”
Vậy ở miền bắc có bờ đê để trẻ nhỏ
ra chơi.
Con đê ra sao nhỉ. ?
Lên lớp ba tôi đã bắt đầu hiểu tiếng
Bắc.
“Bu ơi con đói lắm rồi
Con vào trong bếp bưng nồi cơm ra
Bu đang thái dở đĩa cà
Hay con gượm tí đợi cha con về”
Thầy hỏi:
“em nào biết “bu” có nghĩa là gì
Tôi giơ tay:
-Thưa thầy “bu” là má ạ.
-Tại sao em nghĩ vậy.
-Tại khi đói mình thường nói điều đó
với má.
Thầy khen:
-giỏi, ngồi xuống.
Thày chỉ trò khác:
“đĩa cà” là gì?
-Dạ là trong quả cà có con đỉa ạ.
Thầy lại phải giảng cho chúng tôi
biết đĩa là cái dĩa.
Tôi rất thích những quyển tập đọc mà
tôi đã được học suốt những năm tiểu học.
Biết bao điều lạ lẫm, thú vị về một
miền quê hương xa khuất ẩn chứa trong từng câu chữ.. Tôi biết món ăn của người
Bắc thường có đậu phụ kho tương, tép ram, canh rau cà pháo, canh thiên lý nấu
cua đồng…thật khác với bữa cơm quê tôi và nghe…ngon quá.
Thật thanh bình cho miền quê êm đẹp
ấy.
“Chiều hôm đón mát cổng làng
Gió hiu hiu thổi mây vàng êm trôi”
Giữa năm lớp đệ thất , một đứa con
trai Bắc Kỳ Di Cư vào học lớp tôi.
Bạn cùng tuổi với chúng tôi nhưng ăn
nói chững chạc, lưu loát hơn chúng tôi nhiều.
Giờ học về ca dao, thầy hỏi. Em nào
biết có câu ca dao nào có hai chữ Bát Tràng.
Chúng tôi chịu thua.
Bạn Bắc Kỳ Di Cư xin đọc.
Lần đầu tôi nghe một giọng đọc bài
lên bổng xuống trầm thật cuốn hút:
“Chên chời”có đám mây xanh
Chính giữa mây “chắng” chung quanh
mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Thì anh mua gạch “Bát Chàng” về
xây..
Sao bạn giỏi vậy bạn Bắc Kỳ.
Một buổi chiều tôi được mẹ sai đi
chợ mua thêm ít rau. Tôi ngạc nhiên nhìn thấy anh bạn Bắc Kỳ cũng xách giỏ đi
chợ. Bạn ăn mặc sạch sẽ và đã thay đôi săng đan bằng một đôi guốc xuồng bằng
gỗ.
Bạn giỏi thật.
Năm lớp đệ lục tôi rời xa quê nhà để
chuyển trường học ở Tuy Hòa. Tôi sẽ sống với ba tôi đang làm công chức ở đó.
Tôi tiếp tục học Việt văn bằng những trích đoạn trong Tự Lực Văn Đoàn. Bờ đê
Yên Phụ bây giờ có thêm bóng cô Loan với chiếc khăn san bay phơ phất. Tôi rất
thích cảnh vật núi đồi miền trung du nơi anh chàng Ngọc đạp xe lên thăm ngôi
chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên.
Ở ngôi trường tôi học có nhiều thầy
là người Bắc. Các thầy đều dạy giỏi và lắm tài. Thầy Q dạy toán nhưng hát thật
hay. Và thầy chỉ hát duy nhât bài “Giấc Mơ Hồi Hương”
“Nghẹn ngào thương nhớ em
Hà Nội ơi”
Hà Nội chắc đẹp lắm nều không thầy Q
chẳng nghẹn ngào đến vậy.
Thầy Đổ dạy âm nhạc. Thầy dạy chúng
tôi bài “One Day”
Sau khi dạy chúng tôi xướng âm từng
nốt nhạc thầy dạy chúng tôi hát :
“One day when we were young
One wonderful morning in May.
You told me you love me..
When we were young one day…”
…………………………………
“nói với nhau câu yêu thương
Trong một ngày tuổi mới đôi mươi”
Thầy có giọng hát ấm , thường chỉ có
nơi người phát âm giọng Bắc.
Nhờ các thầy Bắc tài hoa, Bọn học
trò quê mùa chúng tôi bắt đầu tập mơ màng những giấc mơ lãng mạn.
Nhưng vẻ đẹp của xứ Bắc mà những
“Bắc Kỳ Di Cư” gửi gắm vào giọng hát, tiếng đàn, tác phẩm văn chương đã từng
làm tôi yêu mến có lẽ cũng chỉ là những hoài niệm.
Miền quê ấy nay đã không còn giống
như những gì tôi mường tượng..
“Lá đào rơi rắc lối thiênthai
Suối tiễn oanh đưa những ngậm ngùi”
(Tản Đà)
Huyền Chiêu
(Trong bài có một số bài thơ trong
sách tập đọc mà vì hồi đó sách không ghi tên tác giả nên tôi không nhớ để ghi
lại)