
“Sáng thứ hai nào cũng phải chào cờ.” Đó là lời than thở của những đứa học
trò buổi sáng. Có đứa nói: “Sao không bắt tụi buổi chiều làm lễ hạ kỳ chiều thứ
bảy cho công bằng.” Chiều thứ bảy học trò hay được các thầy cô cho về sớm,
chúng nó chạy túa ra như đàn vịt, có khi làm nghẹt cả cổng trường. Bây giờ sắp
nghỉ tết, nên việc chào cờ hát quốc ca càng thêm ngán ngẩm cho bọn nó.
Hôm nay cả ngàn đứa học trò đang bị phạt đứng tại sân trường, không được vào
lớp học về tội “Chào cờ và hát quốc ca rất lếu láo.” Ông hiệu trưởng đã nói như
thế, ông giận run lên và quày quả bỏ vào phòng giáo sư. Khi hiệu trưởng giận
thì cái mặt vuông của ông bỗng ngang phè ra và đỏ như cục gạch. Chưa bao giờ ông
lại giận nhiều như vậy. Chưa bao giờ ông nặng lời sỉ vả những đứa trẻ mà có lẽ
ông rất yêu thương, khiến chúng khá hốt hoảng, nãy giờ đứng yên phăng phắc,
chưa dám hó hé nửa lời.
Bây giờ sắp vào xuân, nắng mai êm đềm xuyên qua hang dương xanh bạc mộng mơ,
tạt lên đầu tóc, lên những áo trắng của lũ con trai rắn rỏi; sơn lên màu áo
thiên thanh của đám con gái cái chất xuân thì thiếu nữ.
Hương đứng ở hàng cuối, dĩ nhiên là vì có cặp chân dài, một rừng tóc mây sợi
nhỏ bay phất phơ, con mắt sắc sảo hôm nay đứng yên không liếc qua liếc lại.
Hương không để ý chút gì về việc hát quốc ca, cũng không cần biết tại sao bây
giờ còn bị phạt đứng ở sân cờ. Có lẽ cô đang nghĩ tới cái phòng dạy vẽ vừa được
bọn cô trưng dụng để làm quán nhạc trong tuần lễ trước khi nghỉ tết.
Thầy Bích lùn đã giao trách nhiệm này cho cô, nhắc đi nhắc lại là tiền lời
bán quán giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc phải đưa ngay cho thầy. Hương tươi cười
với thầy lắm, nhưng khi quay đi, cô trề môi lẩm bẩm: “Đưa cho thầy để cô đi chợ
hết sao! Xin thầy có một ít tiền quỹ để sơn phết, tô điểm cái phòng cho mát con
mắt, thầy cũng có nhiều lý do để không đưa.” Hương nghĩ ngay tới những đứa bạn.
Những đứa cùng lớp cả trai lẫn gái, đứa nào cũng dễ thương, cũng hết lòng với
cô: “Giờ này thằng Thanh Đẹt đã đi mượn bộ trống với dàn âm thanh cho tui chưa
đây? thằng Quasimodo có lo đinh búa sơn cọ đóng cho tui tấm bảng chưa? Cửa quán
quay ra ngoài đường, không có tấm bảng thì ai biết chỗ nào mà vô! Vậy chứ Hương
thương nhất là thằng gù này. Hương sai bảo cái gì lần nào nó cũng lo lắng tận
tình. Sáng nay thằng Quasimodo đưa cho Hương xem một quyển thơ khổ nhỏ, in rất
đẹp với cái tên “Xanh Lá Sân Trường” Nó bảo của tụi ban C làm ra. Hương mở ra
xem thấy lũ chúng nó làm thơ cứng tay lắm, cứ như là các thi sĩ thứ thiệt. Hương
càng thêm xốn xang. Nhất A1 của Hương phải làm cái gì bảnh hơn tụi nó kia. Ừ,
phải rồi con Kim sẽ đổ bánh flan, Ngọc Lan sẽ lo chả giò gỏi cuốn; còn nước
ngọt coca thì dễ thôi, cứ ra hàng mẹ ngoài chợ mà bưng về là xong ngay. Quán
nhạc của Hương mở ra vào tuần lễ giáp tết, cái thời khắc đẹp đẽ nhất của một
năm, cái lúc mà lòng người êm ả nhất nghĩ đến kẻ khác. Ngày mai cả tỉnh sẽ biết
tin này, Không chừng hốt bạc.
Bỗng ở bốn góc sân trường, trong các tàng cây xanh có tiếng loa vang động.
Hương ngước nhìn lên, một thanh niên người cao cao đang đứng trước micro. Tụi
nhỏ thì thầm: “Ông thầy mới.. Ổng đờn ca hay lắm, ổng vẽ cũng đẹp.. ..Sao mày
biết.. .. Ổng ở trọ nhà con Minh mà.. ..
– Tôi vừa về từ chiến trường và đã trở lại nghề dạy học của tôi đứt đoạn hai
năm trước. Sáng nay tôi tham dự lễ chào cờ và nghe hát quốc ca. Ở những nơi tôi
vừa đi qua như một đồn địa phương quân, một trụ sở hội đồng xã hay một trường
tiểu học, chưa bao giờ tôi thấy người ta cử hành lễ chào quốc kỳ mà lại thiếu
nghiêm chỉnh như các em hôm nay. Ở những nơi ấy, người lính áo quần xộc xệch dơ
bẩn, tối hôm qua mắt ngủ vì quần thảo với địch quân. Những ông già hội đồng xã,
ngày ra trụ sở nhưng đêm lánh mặt tận đâu đâu. Những đứa học trò bé tí xíu lội
sông đi học, cởi truồng tồng ngồng, sách vở quần áo đội trên đầu, vậy mà khi
hát quốc ca cũng không quá tệ như các em đây. Người thì hát “Này công dân ơi”,
người thì: “Này thanh niên ơi”; có người hát: “đứng lên đáp lời sông núi..”,
người khác lại hát: “quốc gia đến ngày giải phóng..”với một cái giọng của những
hành khất ngoài chợ. Hát như vậy, có ngày bị bọn họ giải phóng thật đấy. (Nhiều
tiếng xì xào: Thầy ngon he! Chịu chơi đó thầy!). Còn hai em đứng ở cột cờ phụ
trách kéo cờ lên mới hay chứ! Người muốn kéo lên, kẻ kia trì lại. Đùa giỡn với
nhau, để đến khi bài quốc ca đã dứt mà lá cờ mới ở lưng chừng; lúc đó mới chụp
giựt, kéo xấp kéo ngửa cho nhanh, lá cờ vụt chạc chạy lên coi thật thảm hại.
Ngưng một lát như chờ xem phản ứng của học trò, anh ta tiếp :
– Có lần xem phim Thế Vận Hội nước Úc. Ngày khai mạc người ta trổi quốc
thiều của các nước tham dự khi đoàn lực sĩ nước ấy diễn qua khán đài chính. Tôi
đã xem bao nhiêu lá cờ, tôi đã nghe bao nhiêu bài quốc ca, đến lúc đoàn lực sĩ
nước mình đi qua : nhỏ bé và ít ỏi lắm, nhưng ngọn cờ vàng tươi đẹp làm sao khi
bay trong gió sớm hôm ấy. Rồi quốc thiều VN trổi lên, phấn khích và hùng tráng
quá sức. Tuy các nhạc sĩ trình tấu đều là người nước khác, chưa bao giờ hát
quốc ca VN, nhưng bị kích động vì dòng nhạc đặc biệt, họ chơi tuyệt diệu, vượt trội
hầu hết các quốc thiều khác. Đó là họ không phải con dân của tổ quốc VN, Đó là
họ không hiểu những lời ca đấu tranh rực lửa của anh sinh viên Lưu Hữu Phước,
của các sinh viên VN trong cao trào đấu tranh chống thực dân Pháp hồi đó. Ngày
nay anh sinh viên Lưu Hữu Phước trở thành một cán bộ cộng sản cao cấp nhưng
không thể nói quốc ca này của cộng sản được; cũng như không thể nói nhạc của
Phạm Duy, Văn Cao hay Trịnh Công Sơn là của riêng các ông này. Không có quê
hương này, không có dân tộc này, không có các em đây, thì làm gì có Phạm Duy,
có Văn Cao, có Trịnh Công Sơn. Có phải không nào?
Các em chưa có cái vinh quang của người chiến sĩ cắm ngọn cờ vàng lên một
tiền đồn vừa chiếm lại, cháy đen xác ta xác địch. Các em chưa có cái đau buồn
đứng gác hai bên quan tài phủ cờ của người bạn cùng khóa, nhìn người góa phụ
thảm sầu, nhìn những trẻ thơ ngơ ngác. Tôi cũng không mong các em sẽ ở trong
hoàn cảnh ấy, nhưng ngày đó có thể sẽ đến, các em sẽ nhớ mãi buổi chào cờ hôm
nay.
Có vài tiếng vỗ tay, rồi bỗng một rừng pháo tay được bùng lên. Hình như ở
cái sân trường vừa trang nghiêm vừa thân ái này chưa bao giờ có những âm thanh
vang động mà chân thành đến thế.
– Cám ơn các em, tôi chỉ có bấy nhiêu lời. Thầy hiệu trưởng phạt các em đứng
đây cho hết giờ đầu, nhưng hãy cùng tôi tập hát. Tất nhiên không phải là bài
quốc ca, vì chẳng có ai lại tập hát quốc ca bao giờ. Khi ta vào lớp học đầu
tiên, chưa biết hát, thì chính các lớp lớn hơn dạy cho chúng ta biết hát. Bài
ca ấy tự nhiên phải biết, tự nhiên phải nhớ như một bổn phận công dân. Bây giờ
tập hát bài Nhạc Tuổi Xanh. Cố gắng dùng trí nhớ thì tốt hơn, nếu không được,
có thể chép lời. Hát xong sớm thì được vào lớp sớm.
Hàng ngũ các lớp bỗng lộn xộn ngay vì có nhiều đứa học trò lục cặp lấy giấy
bút.
Xong chưa? Tôi bắt đầu đây:
“Đời còn tươi như hoa mới nở sớm mai, như là đời giòng suối non cao trôi ra
sông dài. Đời còn xanh như bao cánh đồng lúa mới, bát ngát, bát ngát bao la như
biển khơi…”
Đời còn tươi.. .. Đời còn tươi.. ..hai.. ..ba..
Đi bộ về nhà, phải nói là nhà trọ thì đúng hơn, nhưng ở đó đã quen, mọi thứ
đều thoải mái, nên cứ tưởng như ở nhà. Những con đường thật sạch – có gì sạch
bằng cát – thành phố biển toàn là đất cát này sạch là phải. Bàn chân mình như
đang cảm nhận sự dịu dàng và sạch sẽ của cát biển, như hôm nào bước đi trên
nhữnh đường làng quê có những cánh hoa trắng rải kín đường đi.
Khu chợ kiến trúc sơ sài họp dưới những cây phi lao, bán nhiều thứ lặt vặt
của quân đội Mỹ và sản phẩm địa phương. Tôi tạt vào chợ mua một bao Salem có vỏ
màu xanh ngọc bích. Có lẽ tôi chọn mua bao thuốc này vì cái màu xanh của đất
trời ngày hôm ấy, chứ không phải thích cái vị cay cay bạc hà rất đàn bà của
loại này.
Lúc trở ra, có một cậu ngồi trên xe Honda chận tôi lại. Cậu ta có kính
trắng, nước da trắng và một cái lưng hơi gù.
– Chào thầy, chị Hương mời thầy trở lại trường.
– Chị Hương là ai vậy?
– Cũng học cùng lớp với em thôi. Chúng em đã làm quán nhạc, không biết chỉ
muốn nhờ thầy giúp cái gì, chắc là về phần mỹ thuật thôi.. .. Đi thầy, ngồi sau
em chở về.
Người học trò lớp cuối cùng của trường nhìn tôi với ánh mắt ân cần, không
chần chừ, tôi ngồi ngay lên phía sau. Một ngày đầy ắp vui vẻ có thể đang chờ
tôi phía trước.
Phòng vẽ được mở toang cửa ra. Hai cái bục giảng kê liền với nhau thành sân
khấu. Bàn nhỏ, ghế thấp vay mượn từ khắp nơi đã sẵn sàng. Một bộ trống đàn, âm
thanh thật đầy đủ. Người con gái có tên Hương đứng trên một ghế dựa, tay đinh
tay búa đang treo một miếng bìa, trên đó có viết hai chữ “Máy Chém”bằng sơn đỏ
có máu chảy ròng ròng. Tôi liếc nhìn nội dung phía dưới, nào là coca, trà đá
chanh, trà Lipton, bánh flan, chả giò, gỏi cuốn với một cái giá bằng bốn lần
cao hơn ở ngoài.
Trông thấy tôi vào, cô cười rất tươi, làm như đã quen tự bao giờ:
– Thầy coi, cái menu máy chém này có bén không? Tiếng nói cô trong veo lanh
lảnh, bất giác tôi đưa tay lên gáy mình làm tất cả mọi người trong quán cười
lên vui vẻ, Tôi bảo:
– Các em tin là nhiều người sẽ vào đây đưa cổ cho chém hả?
– Đúng vậy, họ đâu có biết trong này để máy chém, lại nữa, em có ba bốn mỹ
nhân tình nguyện hầu bàn thì.. ..chạy làm sao thoát.
– Vậy là dùng tới mỹ nhân kế để kiếm tiền giúp đồng bào? Hay lắm, bây giờ
cần tôi làm cái gì đây?
Cô bước xuống ghế, rất tự nhiên đẩy nhẹ tôi ra cửa. Trên khung cửa ra vào mà
lúc nãy khi bước qua tôi không để ý; quán đã có một cái tên rất học trò, rất dễ
thương: Quán Cỏ May.
– Thằng Quasimodo là đứa vẽ cái tên này, Có được không? Sao em thấy run rẩy
quá, nên em bảo nó đi tìm thầy cho chắc ăn.
Tên quán được vẽ bởi Tuấn, chính là người đã chận tôi ngoài chợ và chở về
đây.
– Tôi thấy nét chữ viết tay không ngay ngắn, hơi run nhưng có cái đẹp khác;
tôi sẽ thêm thắt chút ít để thành một tấm bảng đặc biệt, khác hơn những cái ở
ngoài đường phố. Đồng ý không?
– Đồng ý, đồng ý. Thầy vẽ sao tụi em cũng chịu.
Tôi nhờ Tuấn và bạn nó tháo cái bảng xuống. Lục tìm chìa khóa trong túi, tôi
mở cái tủ nhỏ đựng đồ nghề của lớp vẽ rồi bắt đầu sửa chữa thêm thắt; đàng sau
lưng là những con mắt nai theo dõi với thật nhiều tin tưởng. Chừng hơn tiếng
đồng hồ sau, do cái khoái hoạt quá đáng của tôi, nó không còn giống tấm bảng
nữa mà là một bức tranh. Tôi vẽ them vào đó một cảnh chiều lúc hoàng hôn, rực
lên ở chân trời các màu hồng, cam, vàng xanh, tím nhạt. Trên cánh đồng cỏ nâu,
có hai bé thơ đang vợt bướm. Chữ Quán Cỏ May nằm trên cánh đồng, ngây
thơ và run rẩy như tuổi học trò sắp bước vào đời của những trái tim hăng say
yêu đời kia. Bọn họ hết lời bàn tán, ca tụng cái bảng mới. Ngày hôm nay tôi
được vỗ tay tới hai lần, nên cảm thấy mình thật là một nhân vật quan trọng quá!
– Ra biển lũ bay ơi!
Một cậu nhỏ la lên như vậy, thế là tất cả đùng đùng bỏ việc làm dang dở, kéo
nhau ra bờ biển. Họ đi bằng xe đạp, Honda hay ôm eo ết một bác xe thồ. Dĩ nhiên
tôi được mời đi theo. Lại ngồi sau lưng Tuấn, lại đi qua những con đường êm ả
của thành phố, đếm những gốc phượng già vĩ đại, nhưng giờ này chẳng có hoa;
lòng háo hức như đứa trẻ lần đầu được đi xem hát bóng.
– Ở đây khí hậu tốt quá, nắng nhẹ gió hiền thật dễ chịu, Tuấn nhỉ?
– Không phải hoàn toàn như vậy đâu thầy. Tới tháng năm, gió Nam Cồ thổi từ
nam lên bắc, dai dẳng khó chịu lắm. Hồi nhỏ em ở với ông bà nội, buổi trưa gió
Nam Cồ thổi qua vườn chuối vườn dừa nghe buồn bã hoang mang không chịu nổi. Có
khi gió thổi bay những mái tranh, cuốn mất mấy đụn rơm. Gió gì mà như muốn lột
quần lột áo mấy cô nữ sinh; mấy cổ, tay giữ nón tay níu vạt aó dài lính quýnh
khổ sở. Còn mấy thằng con trai không giúp đỡ gì được hết, chỉ dòm.
– Tôi nghĩ đó là cơn gió Nồm Nam mà quân Chúa Nguyễn đã lợi dụng để dong
buồm ra Bắc diệt Trịnh.
– Có thể lắm thầy. Gió Nam Cồ chỉ thổi đúng có một tháng. Tới tháng sáu, nó
thổi xéo ra biển.
– Sao Tuấn lại để ý đến gió nhiều như vậy?
– Người nhà em có ghe làm cá, họ phải biết rõ, nên em cũng biết chút ít. Hôm
nào đó, em sẽ mời thầy xuống ghe chơi, có ông tài công biết làm lẩu cá ngon hết
biết.
Lúc ấy Hương lái xe vượt qua, cái xe bé xíu chỉ có 35 phân khối, nhưng cô
nàng phóng hết ga, mắt long lanh sau cặp kính thời trang rất to, như mời gọi
Tuấn đua theo. Bỗng Tuấn nói:
– Nếu Hương được làm vua thì nước mình có nhiều trò vui lắm đó.
– Nếu Hương làm vua thì Tuấn làm gì?
– Làm quan đại thần.
– Ừ! Tôi mong hai người sẽ mãi mãi làm việc bên nhau để có những ngày vui.
Biển ở đây không đẹp, nếu hiểu là một bờ cát trắng thênh thang, xuống dốc
thoai thoải; nhưng biển ở đây có cái nét hoang sơ quyến rũ khác. Trên bờ chỉ có
độc nhất một quán nước. Không vào quán, chúng tôi đi dọc bờ cát phía Nam. Một
ngày an bình giả tạo với trời thật xanh, mây thật trắng, từng cụm bay về phương
Bắc xa xôi.
– Thầy có thích biển không?
– Thích lắm đó Hương, hình như biển tượng trưng cho trí tuệ còn rừng núi là
tình cảm. Thứ nào tôi cũng thích.
– Hôm nay biển xanh quá thầy. Tuấn nói.
Tôi cười thầm, ông thầy này có vẻ đang được ngưỡng mộ, học trò hỏi tới tấp.
Tôi trả lời:
– Biển là tấm gương phản chiếu màu trời, nếu trời xanh thì biển cũng xanh.
Một cô bé chen vào đầy nét thông minh mà nghịch ngợm:
– Thế còn cái gì phản chiếu lòng mình?
– Bóng đêm đó cô à. Có hôm nào cô bị thức trắng một đêm, cô sẽ thấy đêm là
gương soi thấy lòng mình rõ nhất.
Một cô bé khác liền nhại giọng Bắc kỳ tôi:
– Ối giời ôi! thầy tôi lãng mạn chết đi được.
Thế là cả bọn cười rộ lên. Nãy giờ không chịu nói chuyện bình thường, tôi
dại dột đem mấy câu triết lý vụn, bị chọc ghẹo là đáng đời. Tôi liền trả đũa:
– Cô chờ đấy. Tôi sẽ học tiếng Phú Yên để đối đáp với cô. Cứ bình tĩnh chờ
đi.
– Không dễ gì mà học tiếng “Nẩu”của tụi em đâu. Nhưng mà thầy cứ ráng học
đi. “Phú Yên đi dễ khó về, trai đi có vợ, gái về có con”. Những tiếng cười vui
nhộn lại vang lên và lần này tôi nín bặt.
Trên hải ngạn hoang sơ của Tuy Hòa một ngày bình yên, tiếng cười vỡ vụn ngọc
xanh hòa với tiếng bọt sóng từng đợt dội vào êm dịu quá. Đã bao lâu tôi mong
chờ cái không khí thân thương đó.
Tuy Hòa ngày.. ..tháng…
Thầy H. yêu quí của em!
Em nhớ thầy quá chời. Em từ ngoảy vượt Cù Mông khăn gói ra đây tìm thầy,
mà thầy bỏ đi mất tiêu! Em định rủ thầy về Sàigòn chơi, mà cửa khóa chặt rồi.
“Phòng không lạnh ngắt như tờ. Dấu honda đã rêu lờ mờ xanh”. Đứa con chủ nhà
bảo thầy về Đà Lạt ăn tết, tháng sau mới ra, thiệt có cà chớn không chứ!
Giờ này chiều rồi, còn xe nào bán vé nữa đâu mà đi. Không biết tính sao,
tao ngồi ngay ngạch cửa phòng mày, trên đầu cầu thang kéo thuốc mù mịt. Lát
sau, cái sân gạch phía dưới ồn ào hẳn lên, tao ngó xuống thấy một bọn lau nhau,
chắc là học trò trường mày. Một em thơm như mít, áo dài mini, bước lên cầu
thang tìm thầy H. Tao nói: “thầy về Đà lạt rồi, tháng sau mới ra”. Mặt em xụp
xuống buồn so. Tao mới bảo em rằng: “Cô đừng có lo, tuy nhiên tôi có thể đại
diện cho thầy, cô có thể nói chuyện trực tiếp với tui hoặc gởi gấm cái gì cũng
được. Em cười, biết tao là một thằng ba xạo, em nói cám ơn rồi đi xuống. Nhưng
ngay sau đó có một thằng nhỏ mời tao ra trường coi văn nghệ. Thiệt là buồn ngủ
gặp chiếu manh, tao theo tụi nó liền.
Đêm đó thật là vui, người ta đi coi đông lắm, rất nhiều người phải đứng.
Một chương trình tự biên tự diễn mà hay vô cùng. Mấy nơi xa xôi vạn dặm như đây
mà có lắm nhân tài, thật lạ! Bọn đàn trống vững vàng, bọn ca hát không thua gì
ca sĩ, lạ có mấy màn cải lương vọng cổ ngộ lắm.
Em bé lúc chiều đi tìm mày, bây giờ ngồi két vơ tiền. Nhỏ này vừa lanh
vừa dễ thương. Con gái nhiều đứa làm bộ ngoan, e ấp, nói năng ít lời, nhưng
thật ra kín đáo đưa tình. Đi qua mặt mình thì lấy nón che kín mít, qua được một
khúc thì nghiêng nón liếc mình một cái muốn đứt cổ. Em này thì không, nói năng
mạnh bạo mà thật thà, tay chân lúc nào cũng cử động mà vẫn thấy dịu dàng thơ
ngây; gần em thật là phấn khích yêu đời. Em không giống con bướm khép đôi cánh
đậu, cũng chẳng phải là con bướm đang vờn hoa; em chỉ là con bướm đang thong
dong bay qua cánh đồng cỏ may.
Có lúc tao lân la lại quầy, em cho tao xem một hộp tiền đầy ắp. Em cười
tít lên rồi bảo em sẽ thụt két cho mà coi. Tối khuya hôm đó, lấy cớ đi hộ tống
két bạc, tao đưa em về nhà. Trời khuya sao rơi lành lạnh, tao cởi cái áo len
của mày cho mượn khoác lên người em, em ra chiều cảm động lắm, nhưng chẳng mời
vào nhà, cũng chằng cho ngủ đỡ một đêm, dù là ở nhà kho hay chuồng gà! thế mới
hèn chứ. Thế là ra bến xe kiếm cái ghế bố nằm khoèo cho quên đời đen bạc.
Thầy ơi ra giêng nhớ xuống em chơi.
Bách.
Cái thư này bạn tôi nhét qua khe cửa phòng trọ hôm trước tết, nay đã qua
tháng. Ngồi đây bên cái bàn kê trên bục giảng, lòng nhẹ thênh thang lấy thư ra
đọc đi đọc lại trong lúc học trò làm bài, vừa buồn cưởi, vừa tiếc sao không
ráng ở lại vài hôm với bạn có phải vui không.
Rồi tôi kẹp lá thư vào một quyển sách vẫn mang theo đọc, kéo hộc bàn để sách
vô trong. Nhưng trong hộc bàn có một gói giấy bóng xinh xắn; trời ạ! một miếng
kẹo đậu phụng thơm lừng ở trong gói giấy!
Lớp học vẫn yên lặng, những mái đầu xanh vẫn nghiêng xuống tập vở, lâu lắm
mới có đứa ngước lên nhìn bâng quơ, nghĩ ngợi rồi lại cúi xuống. Đây rất có thể
là trò chơi của một đứa hay vài đứa con gái trong lớp, nhất định không thể là
của con trai. Biết chắc tôi không phải một ông thầy nghiêm khắc gì mà rất gần
gũi kể cả tuổi tác lẫn tính nết. Biết thế nào tôi cũng cắn vào miếng kẹo đó, và
tôi cắn thật! Một tiếng “cốc” thật lớn phát ra, có vài đứa ngước lên nhìn. Tôi
ngậm miệng làm bộ ngó đâu đâu. Không ngờ miếng kẹo quá dòn, kêu quá lớn, kẹt
rồi không dám nhai, cứ lúng búng nằm bên trong. Bỏ mẹ rồi, chắc họ đang cười
thầm. Tôi vội lấy quyển sách lên, làm bộ đọc để thanh toán miếng kẹo.
Những ngày sau đó, trò chơi này tiếp tục kéo dài với cả ô mai, khô bò. Tình
hình vẫn yên tĩnh, chưa thể phát hiện cô bé nào đùa dai vậy. Một hôm tôi đọc
được trong gói giấy một giòng chữ: “Hôm qua em mơ gặp thầy, nhưng thầy đi với
cô, cô lườm nguýt em”. Tôi có quen thân với một bạn gái ở Sài gòn, nhưng chưa
thể gọi là cô được; dòng chữ trong gói giấy chỉ là một dò hỏi lý lịch cá nhân.
Đáng lẽ ngưng ở đây là được rồi, mọi chuyện có thể êm xuôi, nhưng lời thư và
bánh kẹo trong một cái ngăn kéo thật là hấp dẫn, gợi tò mò thôi thúc vô cùng.
Tôi cũng chỉ là một cậu trai tơ nghịch ngợm thôi mà. Tôi lấy một quyển tạp chí
cũ, viết lên trang đầu một bài thơ thật phóng đãng:
Còn lại chút mây buồn trong mắt biếc
Hồn lang thang tự chín cõi lưu đầy
Sao đêm về ta còn mãi so dây
Nàng Oanh, Yến có châm dùm điếu thuốc
Để một chiều thương nhớ áng mây bay
Bỏ quyển tạp chí vào lại hộc bàn, xong rồi đâm hối hận. Ở những tỉnh nhỏ xa
xôi này, người ta quý thầy giáo lắm, mình phải giữ tư cách cho đàng hoàng chứ.
Buổi chiều tan học tôi trở lại lớp ấy ngay mong lấy lại quyển sách, nhưng thôi
rồi nó đã biến đi đàng nào.
Cửa sổ phòng tôi mở ra hướng đông, mỗi sáng ánh mặt trời chiếu qua song mang
theo cái dịu dàng mà ấm áp của những đóa hoàng anh cố gắng vươn lên cao. Lũ hoa
tươi cười như muốn bảo: tôi thấy anh rồi! Minh mới học lớp bảy, thường ngồi
chơi dưới bụi hoa vàng vĩ đại đó. Mỗi khi tôi đi ngang qua, em thường nhắc:
“khi nào thầy cần uống nước thì xuống nhà dưới” Cũng có khi em mang lên cho tôi
một bình trà, nhưng tôi không có nhu cầu uống nước nhiều, nên ít khi xuống nhà
dưới để uống trà với cô nữ sinh bé nhỏ và rất kín đáo ấy. Sáng nay tôi đứng
trên cầu thang nhìn xuống sân gạch có bụi hoa vàng chói lọi mặt trời và có Minh
đang ngồi dưới bụi hoa đọc sách.
– Thầy không đi trường sáng nay à?
– Không em, thứ năm tới chủ nhật được nghỉ.
– Thầy nhàn quá hé.
– Ừ, bù lại cho hồi đi lính.
Minh Thảo vô nhà trong, mang ra cho tôi một ly trà còn nóng, tay kia cầm một
máy cassette.
– Thầy có thích nhạc Trịnh không?
(Dạo ấy Trịnh Công Sơn đã quá nổi, nên đám thanh niên học sinh ở đây hay gọi
tắt một cách thân thương như vậy)
– Có, thích lắm, ông ấy hát ra những bài thơ.
– Bài nào thầy thích nhất?
– Ru ta ngậm ngùi.
Tôi định nói với Minh Thảo thế nào là nghệ nhân? Một nghệ nhân cần có học
thức, tình yêu, tài nghệ . Những thứ đó cũng chưa quan trọng. Cái nghệ nhân cần
nhất là niềm đau. Có vượt qua được đau khổ mới là nghệ nhân thật sự. Nhưng tôi
chỉ nói với em:
– Tôi gần gũi với nhạc Lê uyên Phương hơn.
Và tôi ngồi dưới bụi hoa bên cô học trò nhỏ, nghe cho hết cuộn băng trong
cái không gian êm đềm hiếm hoi ấy. Thế rồi em dẫn tôi vô nhà, cho xem cái bàn
học, đồ chơi sách vở của em, những con búp bê, hình ảnh hồi nhỏ của em cũng mũm
mĩm như những con búp bê ấy. Phần nhà dưới này khá chật chội cho một gia đình
năm người. Có xuống đây tôi mới thấy sự ưu ái cha mẹ em đã dành căn gác cho tôi
mà tiền lương căn bản không thể trả nổi.
Lúc trở lên thấy thấp thoáng có bóng người ở trong phòng, khiến tôi bước
vội. Thì ra là Hương. Hơn một tháng qua tôi không nhớ tới cô, tất nhiên tôi
không thuộc về thế giới của cô. Trông thấy cô đến, dạn dĩ qua lại trong phòng,
mở cửa ra sân rung những cành cây trứng cá, tôi bàng hoàng một lúc lâu. Hình
như một nhân vật trong truyện của Lamartine vừa bước ra từ trang sách! Lòng tôi
rung lên khi thấy em trong suốt với tà áo trắng, nhí nhảnh cất tiếng một mình
làm như không có tôi đang dõi theo.
– Ngủ trên cái giường này ư? Ồ! viết trên cái bàn kia sao, còn vẽ bức tranh
người cầm đàn đi trong rừng nữa! Chăn màn gì mà lôi thôi quá, phải đem giặt.
Em lại còn chì chiết nho nhỏ: cây đàn sao lại để dưới đất, đi đạp bể thì
sao? Ôi một căn phòng thoáng mát đẹp đẽ dành cho một chàng rất lười. Em nói
đúng, tôi rất lười chưng dọn cho căn phòng và cho cả người tôi nữa; bỗng nhiên
tôi thấy em kỳ ảo lạ lùng và căn phòng bề bộn đầy ắp những âm thanh ríu rít của
chim quyên. Từ nhỏ đến giờ, tôi đã gặp bao nhiêu là phụ nữ, từ mẹ đến các chị,
u già, cô giúp việc, bạn gái, học trò gái, nhưng chưa bao giờ thấy một cô bé
lăng xăng lít xít tự nhiên đến thế. Tôi chìm ngay vào thế giới mộng tưởng của
các chuyện thần tiên cho đến khi em hỏi mới giật mình tỉnh ra:
– Thầy ở một mình à?
– Dĩ nhiên rồi Hương, có ai nữa đâu?
Nàng chỉ cây đàn:
– Đàn cho ai nghe vậy?
– Hầu như ngày nào cũng có vài đứa quây quần trong cái phòng nhỏ này: Túc,
Bình, Cu ti, Vân Nga, Kim Khuê, Phúc, Hào Cận, Thảo Dẹo, Lê thuý Nga và nhiều
đứa không nhớ tên.
– Ai giặt quần áo cho?
– Có ông thợ giặt tới lấy đồ mỗi tuần, nhưng mà thương nhất là thằng Bình,
mỗi lần nó đến là vơ quần áo dơ đem xuống giếng, rồi giặt, rồi phơi, rồi ủi.
Hình như tôi với cô học trò này đã bắt đầu bỏ bớt chủ từ trong câu nói; hình
như đã bắt đầu cần nói trống không với nhau.
– Bình học lớp mười?
– Không hỏi nó, nhưng cũng cỡ đó thôi.
– Nó mồ côi đó, nó muốn gì mà làm như vợ thầy không bằng!
– Nó chỉ xin vẽ cho nó một tấm tranh thật lớn với đề tài Ngày trở về.
– Rồi thầy vẽ chưa?
– Chưa, mà định vẽ một bức tranh nền tối với ánh sáng của trăng. Người trai
trở về vai đeo cây đàn đứng nép bên một gốc cây lớn, cây này hoàn toàn là bóng
đen, là lỗ hổng của hư vô, của cuộc đời. Nàng nằm như ngủ ở trong vườn cỏ biếc,
phía sau là một mái nhà xưa với ánh trăng xanh.
– Đừng có lãng mạn quá như vậy. Rồi ai nấu cơm cho ăn?
– Bà Mỵ Châu Thành.
– Đừng có ăn cơm hàng, không tốt đâu. Kế bên nhà người ta cũng cho mướn
phòng, thầy đến đó ở rồi qua nhà Hương ăn cơm đi. Mẹ nấu cơm thì còn ai bằng!
– Mẹ nào cơ?
– Thì mẹ Hương chứ ai? Lại nữa, con đường hẻm vào căn phòng đó hai bên toàn
là cây sầu đông, ở đó không chừng làm được cả xấp thơ với nhạc.
– Ở đây quen rồi cô bé ạ..
Những câu đối đáp lẩm cẩm như thế còn nhiều và tôi giữ vững lập trường cho
đến khi Hương cáu kỉnh bước ra sân thượng, bứt những quả trứng cá còn xanh ném
con chó mực ở dưới sân, rồi lại cười lên khanh khách.
Chủ nhật Hương lại đến, tay ve vẩy một cái vé ciné:
– Chú Huỳnh của Hương cho một vé, thầy đi xem đi, chủ nhật ở nhà buồn chịu
sao nổi.
– Buồn quen rồi, … mà phim gì vậy?
– “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”
– Trời đất, thứ này đâu phải là thứ hấp dẫn người ta đến hai tiếng đồng hồ.
– Con bạn xem rồi nó bảo hay lắm, cười gần chết.
– Hương thích cười, sao không đi đi?
– Không thích đi một mình,
– Rắc rối nhỉ?…thì xé nó đi!
Hương không nói gì nữa, bàn tay run run, mắt đỏ hoe, quay ra cửa. Ồ sao tôi
tàn nhẫn quá vậy, vội nói với:
– Đùa đấy thôi, Hương đưa nó đây.
Hương vẫn bước ra cửa, không quay lại nhưng thả tấm vé trên cái bàn nhỏ.
Rạp hát chỉ cách nhà ba trăm mét. Tôi tìm chỗ ngồi ở tầng trên, hàng gần
cuối. Ngửa đầu ra sau có thể nhìn thấy những cái lỗ trên tường, nơi người ta
đặt máy chiếu phim ở bên trong và chiếu ra những luồng sáng. Mãi rồi cũng hết
phần quảng cáo, đến những con số đen trắng, lớn trước nhỏ sau, từng số hiện lên
thật lẹ báo hiệu phim chính bắt đầu; rồi đến con sư tử già mặt buồn rười rượi
gầm lên vài tiếng…
Đúng là một phim hài, tuy không phải hiệp sĩ mù nghe gió kiếm như Hương
quảng cáo, Nhưng trong phim này cũng có một chàng hiệp sĩ đang trừ gian diệt
bạo. Chàng ta không tài giỏi gì lắm chỉ dùng mưu lược mà đánh bại kẻ địch. Bấy
giờ tôi đang xem đến đoạn hiệp sĩ phải tỉ thí với một cao thủ võ lâm. Trước khi
chiến đấu cao thủ này có thông lệ ăn liền 18 bát cháo… Lúc đó rạp bắt đầu đông
hơn; vài người đi qua đi lại, thật bực mình. Lại có người đến ngồi ngay bên
cạnh, còn mấy đứa nhỏ chạy lăng xăng la í ới… Trên màn ảnh hiện ra trận đấu
kinh hồn giữa cao thủ võ lâm với chàng hiệp sĩ. Nhưng dần dần hiệp sĩ thắng
thế, càng lúc càng rõ hơn. Thật ra vị cao thủ này tài giỏi lắm, vì ăn tới 18
bát cháo nên cần phải đi tiểu trước khi lâm trận; nhưng chỗ nào cũng bị hiệp sĩ
bố trí cho các người đẹp rình coi, khiến ông ta không thể giải quyết và chiến
đấu với cái bụng đầy nước. Cuối cùng vị cao thủ lăn kềnh ra, quần ướt nhẹp,
khán giả cười ầm lên.
Cùng lúc ấy tôi nghe tiếng cười hắc hắc rất quen thuộc của người ngồi bên
trái. Tôi quay nhìn và thấy hai con mắt em long lanh trong ánh sáng phản quang
của màn ảnh, miệng đã thôi cười mà nhìn tôi đăm đăm vừa có vẻ thỏa mãn vừa có
vẻ khiêu khích. Rồi Hương đứng dậy đi về, bước càn qua phía tôi, khiến tôi phải
co hai chân lại. Một mùi hương thoang thoảng từ quần áo hay từ da thịt thiếu nữ
bay qua. Tôi cũng đứng dậy về theo. Qua cửa rạp, một vùng ánh sáng tràn vào
choáng ngợp. Tôi thường rất thích cái khoảnh khắc ấy: đang chìm đắm vào phim
truyện, bỗng nhiên ra khỏi và nhập lại với cuộc đời cũ, một thay đổi đột ngột
như người đi xa lâu ngày trở về nhà, bỗng nhiên xa lạ với những cái đã thân
quen… xa lạ với chính thân xác mình.
Vậy mà cũng chiều rồi, lác đác thành phố đã lên đèn, những chiếc lá bàng
rung rung theo cơn gió nhẹ. Hương đi ở bên kia đường. Bộ quần áo đậm màu ngắn
gọn, thỉnh thoảng quay lại nhìn, miệng cười tươi với hai cái răng cửa rất xinh.
Tôi đi phía sau bên này đường, thầm hỏi không biết cô còn giở thêm trò nào khác
đây? Cuối cùng cô đi lên một con dốc thoai thoải. Đúng rồi, đây là đoạn dốc dẫn
lên tháp Nhạn, cái tháp Hời duy nhất của thành phố mà tụi học trò hay nói đến.
Càng lên cao ánh vàng của trời chiều càng chói lọi, thành phố lúc này chìm dần
vào bóng chiều mờ nhạt, lấm chấm ánh sáng của các ngọn đèn như các chấm sao.
Các sao trời cũng lác đác xuất hiện ở trên cao. Bấy giờ bóng Hương in rõ trên
nền trời: cao thon, sáng xanh viền bạc như một cây dương và cũng dũng mãnh như
cây dương, biểu tượng của quê hương vùng biển. Đôi mắt long lanh ấy, mùi hương
lạ, cây dương bạc, em lúc bấy giờ như một Chiêm nương, một tiểu công chúa Chàm hiên
ngang như ngọn tháp Hời đang thách thức với thời gian.
Chính lúc cái ánh sáng hốt hoảng của hoàng hôn bám víu lên em, bám víu lên
màu gạch cũ của ngọn tháp là lúc tôi run run ghi nhanh vào ký ức nét đẹp thiên
cổ nghìn thu sững sờ ấy. Tôi thảng thốt nghĩ rằng chính em cũng là một ngọn
tháp và tôi bước vội đuổi theo, lúc ấy em đã khuất sau ngọn tháp cổ.
Chỗ cao nhất của núi đá này là chỗ người xưa xây ngọn tháp. Vùng đất này rất
bằng phẳng, con sông Đà Rằng tưới bón cho một vùng đất mênh mông. Ở đâu nhìn về
thành phố cũng thấy tháp, cái chứng tích tình yêu của thần Shiva. Lòng tội rưng
rưng cảm động khi nhìn ngược lại con đường quanh co thoai thoải dốc mà tôi vừa
đi qua. Ngàn năm trước những chàng trai Chiêm Thành mình trần đen bóng như
những pho tượng, lăn từng hòn gạch ở dưới kia, chỗ bây giờ người ta bán tạp hóa
hay mở các tiệm mì, tiệm phở. Còn các cô gái Chiêm cao gầy, một tay giữ cái giỏ
đựng mấy viên gạch ở trên đầu, một tay đong đưa ve vẩy đang nối đuôi nhau đi
trên con đường cong cong đó để lên xây ngọn tháp tình. Cứ mỗi phút giây ánh
sáng thay màu, cứ mỗi phút giây cảnh tượng thay đổi. Ngày qua ngày, nắng qua
mưa, qua cơn gió giật phũ phàng tháp vẫn đứng vững phô cái đẹp thiên thu. Đi
đâu cũng thấy tháp, cũng bị tháp dõi theo, nhắc nhở những kẻ yêu nhau hãy thật
thà và giữ lòng chung thủy.
– Thầy lên đây bao giờ chưa?
Tôi nghe tiếng nói và tìm thấy em đang ngồi sát ngay dưới chân tháp, hai
chân duỗi thẳng, lưng dựa vào nơi phần nửa tháp không được chiếu sáng. Tôi nói
với Hương là tôi được nghe nhiều về tháp Nhạn nhưng lên đây mới là lần đầu. Tôi
không ngờ chỗ này nhìn thấy cả bình nguyên Tuy Hòa, con sông và mặt biển vĩ
đại.
Chiều đang xuống dần, chúng tôi ngồi yên lặng cảm nhận cái bao la của đất
trời thấm sâu vào lòng người, sự ngưỡng mộ và sùng kính thượng đế. Mặt biển bây
giờ như tấm gương bóng loáng thật sạch và yên lặng. Tôi trông thấy bãi cát dài
và những con sóng êm đềm xô nhẹ vào bờ như những lời thì thầm hạnh phúc. Từ
phía nam, không biết bao nhiêu thuyền đánh cá giăng hàng nối tiếp xeo xéo ra
khơi. Ánh đèn của những thuyền gom lại lấp lánh như châu ngọc. Văng vẳng tiếng
rền rĩ mơ hồ của các động cơ đẩy thuyền đi tới cũng hùng tráng như những cánh
buồm nâu mạnh mẽ vượt trường giang mà tôi đã được nhìn thấy ở quê hương miền
Bắc. Kìa trăng lên, nó hiện ra hé nhìn cuộc đời, rồi bỗng nhiên đứng thẳng lên
lồ lộ thân hình, giống như có một bàn tay vô hình nào đẩy nàng trăng lên từ
biển. Đã bao lần tôi nhìn trăng? Trăng rừng ở cao nguyên, trên đồi núi, trăng
trong chiến hào, trăng trên giòng sông ngăn đôi quê hương chảy miết hai bờ
thương nhớ. Trăng trên ngoại ô thành phố nghèo nàn, người lính trở về súng trên
vai tìm mãi một địa chỉ, một mái nhà. Ôi trăng hoang đường quyến rũ quá lúc nào
cũng rắc xuống trần gian cái ánh sáng trong vắt dịu dàng để an ủi niềm đau nhân
loại. Tối nay tôi lại được nhìn thấy trăng một lần nữa hiển lộ, uy nghi, huy
hoàng trên mặt biển bao la. Rồi trăng lộng lẫy lên thật cao chiếu sáng một vùng
biển, chiếu sáng cả những con thuyền đang lầm lũi ra khơi. Tối nay thuyền không
chở đầy cá mà chở đầy ánh trăng vàng. Tôi quay sang Hương, thấy trăng cũng phủ
đầy người cô bé, trên gương mặt đậm nét và trên mái tóc những sợi vàng đong đưa
theo gió nhẹ.
Bỗng nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội và hàng loạt tiếng nổ long trời lở đất
phá tan cái cảnh giới nhiệm màu ấy. Tôi nghe từng tiếng đạn quay tròn rít lên
trong lòng khương tuyến của những đại pháo. Tiếng rền rĩ kéo dài trong đêm và
tiếp theo là ánh sáng rối tiếng nổ nhỏ dần ở cuối tầm. Hương bịt hai tai lại
nhưng trông cô không có vẻ gì sợ hãi.
– Pháo binh bắn yểm trợ cho các đồn đó. (Hương nói sau khi dứt một loạt
súng) Hương quen với một anh trong pháo đội đóng trên núi này. Ảnh nói đặt súng
trên núi bắn rất xa, nên nhiều đồn bót mình được bảo vệ trong tầm súng.
Mãi rồi tiếng súng cũng ngừng, đêm lại yên phăng phắc Lúc nãy trong những
tiếng nổ long trời lở đất, thiên hôn, địa ám ấy, trăng trốn đi đâu? bây giờ lại
chiếu trên tháp Hời óng ả, trên áo quần đầu tóc chúng tôi.
– Chắc Hương lên đây nhiều lần rồi?
– Vài lần thôi, chỉ có một lần nhớ mãi là năm Hương mười ba tuổi, tết Mậu
Thân. Bọn họ chiếm khu gần nhà thương và nhiều nơi khác, giết chết nhiều người
trong đó có ông anh họ. Mấy hôm sau quân ta phản công. Hương với nhiều người
khác lên đây xem máy bay oanh tạc, xem trực thăng săn đuổi bọn họ trên những
cánh đồng. Dễ sợ quá!
– Bắn giết là trò chơi của bọn điên ở trên, còn bao nhiêu người khác bị cuốn
hút theo như cuồng phong cuốn theo nhà cửa…Còn nhiều nữa, chưa hết đâu. Mà cũng
chẳng bao giờ hết đâu. Có được chút nào yên ấm thì phải hưởng cho nhanh.
– Thầy thích sống hiện sinh?
– Không thích cũng không được. Có đạo nào mà không bàng bạc quan điểm hiện
sinh? Người ta cố tìm một khe hở hạnh phúc trong trận cuồng phong bi đát ấy để
tận hưởng. Có một truyện đọc hồi năm đệ tam của Guy de Maupassant mà cứ nhớ
hoài.
– Thầy kể đi.
– Ừ, : ..thành phố bị quân Đức vây ngặt. Kháng chiến quân Pháp ráo riết
chống trả. Có hai ông già Pháp đi chơi ngoài đường, cùng than thở về chiến
tranh, về cái bọn ngu xuẩn sao cứ lao vào nhau mà bắn giết. Thú vui giản dị của
họ là được ngồi câu cá bên nhau. Qua tổng hành dinh quân kháng chiến, một ông
chợt nhớ ra vị tư lệnh ở đây là bạn học cũ. Thế là ông vào tìm tư lệnh xin được
cấp giấy phép ra bờ sông câu cá. Vị tư lệnh thỏa mãn ngay yêu cầu nhỏ bé ấy và
hai ông già hớn hở về nhà lấy đồ nghề. Họ đi qua các trạm gác, các tuyến phòng
ngự và đến được bờ sông, rồi tận hưởng hạnh phúc câu cá. Bên kia sông vài căn
nhà đổ nát vắng hoe. Cá nhiều, họ giật luôn tay. Đang sung sướng cười cái bọn
ngu xuẩn kia thì họ bị thộp gáy quăng xuống thuyền phao chở qua bên kia sông.
Sau những căn nhà đổ nát ấy là những người lính cao lớn, tóc vàng. Tên sĩ quan
Đức ngồi trên ghế phì phà ống đìếu:
– Này, hai anh điệp viên bị bắt rồi, cứ thật thà khai báo đi chứ?
Hai ông già nhìn nhau sợ hãi, còn biết nói gì đây!
Sĩ quan kéo một ông ra chỗ khác:
– Nói đi, bạn anh không biết đâu.
Nhưng ông này lắc đầu. Sĩ quan đến gặp ông kia, miệng cũng nói câu ấy, còn
tay lên đạn súng lục. Ông cũng lắc đầu, nhìn về phía bạn:
– Vĩnh biệt Morisso.
Một tiếng súng nổ, rồi hai tiếng súng nổ. Hai cái thân xác già nua chao đảo
rồi rơi tòm xuống giòng nước đang chảy lặng lờ.
– Truyện hay quá, mà thầy kể cũng hay nữa.
– Không nhớ rõ đâu Hương, khi nào tìm được quyển truyện ấy phải đọc lại mới
được.
– Những đêm trăng sáng như hôm nay, ông nội em cũng hay kể chuyện. Ông nội
làm ăn buôn bán với người Chàm nên có nhiều chuyện về ngọn tháp này; như là
chuyện trai gái yêu nhau lên đây thề nguyền, chuyện kẻ tham lam đào bới trong
lòng tháp cổ tìm vàng nên bị chết thảm, chuyện vua Chàm cùng vương hậu lên đây
tế trời đất, xin được mùa, xin được yên ổn tránh binh đao với người phương Bắc…
Bỗng nhiên cô yên lặng, một thoáng bối rối, rồi cô mỉm cười. Dưới ánh trăng
tôi thoáng thấy sắc hồng trên da mặt.
– Hồi ấy, những kẻ yêu nhau lên đây thề nguyền – như ông nội em kể – phải
nhắm mắt lại thành tâm nghĩ đến lời thề hay điều ước muốn, chậm rãi đếm tới số
49 mới được mở mắt ra.
– Lạ thật, người Việt lại ngồi dưới trời sao, khi nào có sao rơi thì nhanh
tay kết hai vạt áo lại, đồng thời nói lời ước nguyện là sẽ được toại ý.
– Đó là chuyện của đêm sao. Nếu trăng sáng như thế này làm gì thấy được sao.
Mà làm như vậy khó lắm. …Hay là thầy nhắm mắt lại làm thử đi.
– Nhưng biết ước ao cái gì đây?
– Thầy thông minh lắm mà, sao không biết ước cái gì! Đi…nhắm mắt lại đi…Rổi
Hương nghiêng người đưa tay bịt mắt tôi lại.
Dựa hẳn đầu vào cổ tháp, hai bàn tay áp xuống nền đá mát lạnh, chiều cô học
trò, tôi nhắm mắt lại và bắt đầu đếm chầm chậm tuy đầu óc trống rỗng, chẳng ước
ao, chẳng lưu luyến gì.
– 37…38…39…40…
Tôi bỗng chợt nhận ra mình bị lừa và mở bừng mắt ra. Ánh trăng chói lọi đập
vào mắt và cái cảm giác lúc ban chiều ra khỏi rạp hát lại xuất hiện. Hương
không còn ngồi bên cạnh nữa. Tôi cất tiếng gọi, không thấy trả lời. Tôi đi
nhanh ra phía bên kia tháp nhìn xuống con đường, không có ai đi trên con đưởng
vắng vẻ tràn ngập ánh trăng đó. Có thể em vẫn cỏn lần khuất đâu đây, đang ờ sau
tảng đá kia, bụi cây nọ. Buồn rầu tôi cũng đi về, lòng thầm nhủ: lần sau phải
cẩn thận hơn với những con số của cô bé tinh ranh này.
Bấy giò chưa đến giờ giới nghiêm, nhưng phố xá đã vắng . Đêm bắt đầu chìm
vào giấc ngủ của người. Tôi đi giữa đường phố, trăng ở trên vai, từng bước theo
tôi về. Hai bên đường các cửa tiệm, cửa nhà đóng chặt. Tôi đi qua những cánh
cửa – phần linh hoạt nhất của một ngôi nhà. Những cửa kéo bằng sắt của các tiệm
buôn, cửa to lớn hơn của công sở, trường học và các cánh cửa bằng gỗ của nhà
dân. Cửa mở ra, như một sự gọi mời, đôi khi là cạm bẫy; nhưng nếu cửa đóng im
ỉm như bây giờ thì lại mang bộ mặt chối từ, thật là thất vọng.. Bỗng nhiên tôi
chợt nhớ rằng có một căn nhà không có cửa: một căn nhà cao nhất mà cổ xưa nhất
của thành phố này, đó là ngọn tháp mà chúng tôi vừa ngồi dưới trăng đêm nay. Có
một chỗ to lớn nhất mà tôi đã quên không lục tìm! Tôi ngước nhìn lên, tháp Hời
cao ngất ngưởng càng thêm vẻ hoang đường; trăng vẫn còn vẻ uy nghi lộng lẫy, mà
có phần nhân từ đôn hậu hơn. Hình như có tiếng nói từ trên cao của trăng:
– Quay trở lại đi, quay trở lại đi! Có người quỳ giữa lòng tháp cổ, hai tay
chắp lại trước trán, nàng đang nguyện cầu cho một mối tình nhỏ bé nhưng đẹp như
trăng và bền như Nhạn tháp. Quay lại ngay đi …
Cao Hoàng