Lily, cô gái con người quản gia, thực sự không giây phút nào
được nghỉ chân. Cô vừa mới đưa một quý ông vào gian phòng nhỏ phía sau văn
phòng ở tầng trệt và giúp ông cởi áo khoác ngoài thì tiếng chuông cửa rè rè lại
vang lên và cô lại phải tất tả bước dọc theo hành lang trống trải để đón một vị
khách khác vào. Cũng may cho cô là cô không phải phục vụ quý bà quý cô. Nhưng
dì Kate và dì Julia đã dự liệu điều đó và biến phòng tắm trên lầu thành phòng
thay đồ dành cho quý phụ nữ. Hai dì Kate và Julia đứng đó tán chuyện, cười nói ồn
ào, đoạn líu ríu đi theo nhau đến đầu cầu thang, nhìn xuống lan can và gọi Lily
để hỏi xem những ai đã đến.
Đó luôn là một sự kiện lớn, buổi khiêu vũ hằng năm của các
bà trong gia đình Morkan. Tất cả những người quen biết đều đến dự, người trong
gia đình, bạn cũ của gia đình, các thành viên trong dàn hợp xướng của dì Julia,
bất kỳ cô cậu học sinh nào đã trưởng thành của dì Kate, và thậm chí cả một số học
trò của Mary Jane nữa. Chưa lần nào buổi dạ vũ thường niên bị thất bại. Năm này
qua năm khác, người ta nhớ là lần nào nó cũng diễn ra thật lộng lẫy; kể từ khi
hai dì Kate và Julia, sau cái chết của người anh trai Pat, đã rời ngôi nhà ở
Stoney Batter và đưa Mary Jane, cô cháu gái duy nhất của họ, đến chung sống
trong ngôi nhà tối tăm, tồi tàn ở Usher’s Island [1]. Ngôi nhà họ thuê của ông
Fulham, chỉ ở tầng trên, tầng trệt dưới nhà là cơ sở sản xuất ngô. Đó là một
ngày dễ thường cách đây ba mươi năm. Mary Jane lúc đó là một cô bé mặc áo quần
ngắn cũn cỡn, giờ là trụ cột chính của gia đình vì cô là nhạc sĩ đàn đại phong
cầm trong giáo đường trên đường Haddington [2]. Cô từng theo học và tốt nghiệp
Nhạc viện, cô cũng tổ chức các buổi hòa nhạc dành cho học sinh hằng năm ở phòng
trên tòa nhà hòa nhạc Antient. Nhiều học sinh của cô là con cháu các gia đình tầng
lớp khá giả ở quận hạt Kingstown và Dalkey. Hai bà dì của cô, mặc dù đã có tuổi
nhưng cũng làm tròn phần việc của mình. Dì Julia, tóc đã bạc nhiều, vẫn là giọng soprano chính
trong Adam & Eva [3], còn dì Kate, vì sức khỏe không cho phép đi lại nhiều,
thì ở nhà dạy đàn cho những người mới học nhạc với chiếc piano loại nhỏ vuông vức
cũ kỹ ở phòng sau. Lily, con gái người quản gia, giúp việc nhà cho họ. Tuy cuộc
sống không lấy gì làm khá giả nhưng họ rất chú trọng đến việc ăn uống; thức ăn
thức uống trong nhà phải là các thứ ngon nhất: thịt bò bíp-tếch loại hảo hạng,
trà giá ba shilling và bia đen loại vô chai ngon nhất. Lily hiếm khi phạm phải
sai lầm trong lúc làm việc nhà việc cửa nên cô rất hòa thuận với ba bà chủ của
mình. Họ cầu kỳ, chỉ thế thôi. Điều duy nhất họ không chịu nổi là những câu trả
lời cãi ngược lại họ.
Tất nhiên, họ có lý do chính đáng để rối rít trong một buổi
dạ vũ như đêm nay. Đã quá mười giờ từ rất lâu mà vẫn không thấy bóng dáng vợ chồng
Gabriel đâu. Hơn nữa, họ sợ đến phát khiếp nếu anh chàng Freddy Malins lại giở
trò gì đó gây rắc rối. Họ chẳng mong muốn tí nào các cô cậu học trò của Mary
Jane nhìn thấy anh chàng Freddy say bí tỉ; những lúc anh ta như vậy, rất khó để
kềm giữ cho anh ta bình thường. Anh ta luôn đến muộn, nhưng họ tự hỏi điều gì
có thể khiến Gabriel bị chậm chân: và đó là lý do cứ hai phút đồng hồ họ lại chạy
ra lan can thò người xuống hỏi Lily xem Gabriel hay Freddy đã đến chưa.
“Ồ, kính chào ngài Conroy,” Lily nói với Gabriel lúc cô mở cửa
cho anh vào, “Dì Kate và dì Julia tưởng ngài không đến được. Kính chào bà
Conroy.”
“Chắc hẳn hai bà dì của tôi sốt ruột lắm,” Gabriel nói,
“nhưng đừng quên rằng bà vợ tôi đây mất đến ba tiếng đồng hồ chết người mới mặc
xong quần áo.”
Anh đứng trên thảm, cạo tuyết bám trên đôi ủng cao su, trong
khi Lily đưa vợ anh đến chân cầu thang, gọi lớn:
“Thưa dì Kate, bà Conroy đã đến.”
Hai bà Kate và Julia ngay tức khắc bốn chân xiêu tó bước xuống
chiếc cầu thang tối mò. Cả hai người ôm hôn vợ Gabriel, nói rằng có thể chết đi
được vì mong đợi và hỏi Gabriel có đi cùng không.
“Cháu ở ngay đây này, dì Kate ơi! Dì lên lầu trước đi. Cháu
sẽ lên sau,” Gabriel từ trong bóng tối nói vọng ra.
Anh tiếp tục cạo tuyết trong lúc ba người đàn bà, hai già một
trẻ, vừa cười nói tíu tít vừa đi lên lầu tới phòng thay quần áo phụ nữ. Một lớp
tuyết mỏng phủ như chiếc áo choàng trên vai áo khoác ngoài của Gabriel, tuyết
cũng dính cứng trên mũi đôi ủng cao su dùng để đi tuyết của anh; và, khi những
chiếc khuy áo khoác ngoài kêu loảng xoảng lúc anh bước qua mái hiên tuyết đóng
cứng, một luồng không khí lạnh buốt nhưng thơm tho từ ngoài trời len qua kẽ hở
ùa vào nhà.
“Tuyết lại rơi nữa à, thưa ngài Conroy?” Lily hỏi.
Cô đi trước dẫn lối cho anh vào phòng thay đồ, giúp anh cởi
áo choàng. Gabriel mỉm cười với thanh âm ba chữ mà cô dùng để gọi anh, đoạn liếc
nhìn cô. Dáng người cô mảnh khảnh; một cô gái đang lớn, nước da xanh xao và mái
tóc màu cỏ khô. Đèn khí đốt trong căn phòng hẹp khiến cô trông càng xanh xao
hơn. Gabriel biết cô từ khi cô còn tấm bé thường ngồi ở bậc thang thấp nhất để
nâng niu chăm chút một con búp bê tã nát.
“Đúng thế, Lily ạ,” anh trả lời, “và tôi nghĩ rằng chúng ta
sẽ có một đêm tuyết rơi đầy.”
Anh nhìn lên trần căn phòng đang phát những tiếng kêu ọp ẹp
theo tiếng chân người trên mặt sàn lầu trên, lắng nghe tiếng đàn piano một lúc
rồi lại liếc nhìn cô gái đang cẩn thận gấp chiếc áo choàng của anh đặt lên cuối
kệ.
Anh nói giọng thân thiện, “Này Lily, em vẫn đi học đấy chứ?”
“Ồ, không, thưa ngài,” cô trả lời. “Em đã hoàn tất việc học
trong năm nay và còn hơn thế nữa đấy.”
“Ồ, thế à,” Gabriel vui vẻ nói, “tôi đồ rằng chúng tôi sẽ đi
dự đám cưới của em trong một ngày đẹp trời nào đó với chàng trai trẻ của em, có
phải thế không nào?”
Cô gái ngoái nhìn anh, nói với giọng điệu
vô cùng cay đắng:
“Đàn ông bây giờ toàn là bọn nhảm nhí và chỉ biết lợi dụng.”
Gabriel đỏ mặt, như thể anh cảm thấy mình vừa phạm sai lầm
nào đó. Không thèm nhìn cô, anh đá đôi ủng cao su đi tuyết văng vào góc phòng
và cầm chiếc khăn quàng cổ quất mạnh lên đôi giày da đắt tiền của mình.
Anh là một người đàn ông còn trẻ, cao to, béo tốt. Đôi gò má
ửng hồng của anh thậm chí còn nhô lên đến trán, phơn phớt vài mảng da màu đỏ nhạt
không hình dạng rõ rệt; và trên khuôn mặt không để râu của anh lấp lánh không
ngừng hai tròng kính bóng loáng với gọng kính mạ vàng sáng chói trên đôi mắt
thanh tú và không ngớt ngó nhìn. Mái tóc đen bóng của anh rẽ ngôi giữa và chải
thành một đường cong dài sau hai tai, nơi nó hơi xoăn lại bên dưới đường rãnh
do chiếc mũ để lại.
Sau khi phẩy cho sạch bóng đôi giày của mình, anh đứng dậy
kéo áo gi-lê cho sát vào cơ thể to tròn, đoạn nhanh tay móc ra từ trong túi một
đồng xu.
“Ô, Lily này,” anh nói, tay giúi đồng xu vào tay cô, “sắp đến
Giáng Sinh rồi, phải không? Chỉ là... đây chỉ là một chút…”
Anh bước nhanh về phía cửa.
“Ồ không, thưa ngài!” cô gái kêu lên, đi nhanh theo anh.
“Thưa ngài, quả tình em không dám nhận tiền của ngài đâu.”
“Giáng Sinh! Giáng Sinh mà, Lily!” Gabriel nói, đi như chạy
tới bên cầu thang, vẫy tay với cô tỏ vẻ phản đối.
Cô gái thấy anh đã lên cầu thang bèn nói vọng theo:
“Ồ, cảm ơn ngài.”
Anh đợi bên ngoài cửa phòng khách cho đến khi điệu valse kết
thúc, lắng nghe tiếng váy đàn bà kéo lê xoàn xoạt và tiếng chân người xộn xạo
trên mặt sàn. Anh vẫn còn cảm giác băn hăn bứt rứt vì câu đáp trả đầy cay đắng
và bất ngờ của cô gái. Nó phủ lên anh một bầu không khí u ám và anh cố xua đuổi
nó bằng cách chỉnh lại cổ tay áo và chiếc nơ trên cổ. Sau đó, anh rút từ trong
túi áo gi-lê một mảnh giấy nhỏ, liếc nhìn những tiêu đề anh phác thảo cho bài
phát biểu của mình trong bữa tiệc. Anh chưa có quyết định gì về những câu thơ của
Robert Browning [4], vì anh e nó vượt quá tầm suy nghĩ và hiểu biết của người
nghe. Có lẽ hay hơn là một số trích dẫn từ Shakespeare hay từ bài thơ Giai
điệu, sẽ dễ hiểu hơn đối với họ. Tiếng giày khua lạch cạch và tiếng lê lết
của đế giày đàn ông chẳng mấy thanh tao nhắc nhở anh rằng trình độ văn hóa của
họ khác với anh. Trích dẫn những bài thơ họ không hiểu chỉ khiến anh trở nên lố
bịch. Họ sẽ nghĩ rằng anh hợm mình khoe khoang trình độ học vấn vượt trội. Anh
sẽ thất bại với họ giống như anh vừa thất bại với cô gái trong phòng gửi áo
choàng. Anh chọn sai điệu rồi. Toàn bộ bài phát biểu của anh là một sai lầm từ
đầu đến cuối, một thất bại hoàn toàn.
Ngay lúc đó hai bà dì và vợ anh từ phòng thay đồ bước ra.
Hai bà già vóc người nhỏ nhắn, ăn mặc giản dị. Dì Julia cao hơn dì Kate khoảng
hai phân. Mái tóc màu xám của dì được buộc thấp phủ gần kín hai tai; và cũng
màu xám, tối hơn, là khuôn mặt to, nhợt nhạt. Mặc dù thân hình dì khá đẫy đà và
đứng thẳng, nhưng với đôi mắt lờ đờ và đôi môi hé mở khiến dì mang vẻ ngoài của
một người đàn bà không biết mình đang ở đâu và sẽ đi đâu. Dì Kate thì năng động
hơn. Khuôn mặt dì trông linh hoạt hơn dì Julia, nhưng toàn những nếp nhăn rúm
ró, giống như một quả táo đỏ khô, và mái tóc thắt bím kiểu xưa vẫn không mất đi
màu hạt chín.
Cả hai ôm hôn Gabriel một cách âu yếm. Anh là đứa cháu cưng
của họ, con trai người chị đã chết, tên Ellen, người đã kết hôn với ông T.J.
Conroy, một nhân viên của sở bến cảng Port & Docks.
“Gabriel này, Gretta bảo dì tối nay cháu sẽ không gọi xe ngựa
về Monkstown,” dì Kate nói.
“Dạ, đúng thế, thưa dì,” Gabriel nói, đoạn quay sang vợ,
“năm ngoái chúng mình đã có thừa chuyện đó rồi, phải không em? Dì Kate, dì có
nhớ Gretta đã bị cảm lạnh như thế nào không? Các cửa sổ xe ngựa kêu lạch cạch
nghe đến khổ và quãng đường đi ngang Merrion gió đông thổi vào xe đến chết lạnh.
Vui ơi là vui. Và Gretta đã bị một trận cảm lạnh khủng khiếp sau đó.”
Dì Kate cau mày nghiêm nghị và gật đầu
trước mỗi lời nói.
“Đúng rồi, Gabriel, cháu nói hoàn toàn đúng, ta nên cẩn thận
là hơn.”
“Nhưng còn Gretta đấy hả,” Gabriel nói, “cô ấy sẽ đi bộ về
nhà trong tuyết nếu được phép.”
Cô vợ Gabriel cười lớn.
“Đừng bận tâm đến anh ấy, dì Kate ạ,” cô nói. “Ông chồng yêu
quý của cháu quả là một kẻ phiền toái khủng khiếp, anh ấy bắt thằng Tom lấy những
miếng kính màu xanh lục che mắt vào ban đêm và bắt nó tập tạ, rồi ép con Eva ăn
món xào. Tội nghiệp con bé! Chỉ cần nhìn thấy món ăn đó là nó đã chết khiếp lên
rồi!... Ồ, nhưng hai dì sẽ không bao giờ đoán được bây giờ anh ấy bắt cháu phải
mặc quần áo gì!”
Cô bật lên cười, liếc nhìn chồng mình. Gabriel giương đôi mắt
ngưỡng mộ và hạnh phúc nhìn vợ, từ chiếc váy đến khuôn mặt và mái tóc của cô.
Hai bà dì cùng vui vẻ cười xòa vì sự quan tâm của Gabriel với vợ, họ thường
xuyên lấy đó làm đề tài chế nhạo anh.
“Ủng cao su!” Gretta nói tiếp. “Đấy là chuyện mới nhất, hai
dì ạ. Bất kỳ khi nào ra đường mà dưới chân ướt, cháu đều phải đi ủng cao su.
Ngay cả đêm nay, anh ấy cũng bắt cháu đi ủng nhưng cháu nhất quyết không chịu.
Chắc vài hôm nữa anh ấy sẽ mua cho cháu một bộ đồ lặn.”
Gabriel cười gượng gạo, anh đưa tay lên nắn lại nơ cổ áo như
để tự trấn an, trong khi dì Kate gần như gập người lại vì cười, bà thích trò
đùa này lắm. Nhưng nụ cười nhanh chóng tắt trên gương mặt dì Julia và đôi mắt
buồn bã của bà hướng về phía người cháu trai. Sau một lúc, bà hỏi:
“Gabriel, ủng cao su là cái gì, hử cháu?”
“Trời đất ơi, Julia!” dì Kate kêu lên. “Chúa ơi, cô không biết
ủng cao su là cái gì thật sao? Ta mang nó bên ngoài... bên ngoài đôi giày thường
của mình. Gretta, có phải thế không, cháu?”
“Thưa vâng ạ,” Gretta nói. “Toàn những đồ vật lỉnh kỉnh đấy mà.
Bây giờ vợ chồng cháu mỗi người có một đôi. Gabriel bảo cháu ở bên Lục địa ai
cũng đi ủng cao su.”
“Ồ, ở bên Lục địa,” dì Julia thì thầm, chậm rãi gật đầu.
Gabriel nhíu mày, nói như thể anh hơi tức giận:
“Chẳng có gì hay ho lắm đâu, thưa hai dì,
nhưng Gretta cho rằng nó buồn cười vì cô ấy nói cái chữ ủng cao su làm cô ấy nhớ
đến những người làm trò trong đoàn hát Christy Minstrels [5].”
“Nhưng Gabriel này, cháu nói cho dì biết nhé,” dì Kate nói
như chọn lời để né tránh điều gì tế nhị. “Tất nhiên là cháu đã đến xem căn
phòng rồi. Gretta đang nói...”
“Ồ, về căn phòng thì không có việc gì đáng phải lo, dì ạ,”
Gabriel trả lời. “Cháu đã thuê một căn ở Gresham.”
“Hẳn rồi, đó là điều tốt nhất ta nên làm,” dì Kate nói. “Và
bọn trẻ, Gretta, cháu không lo lắng về chúng sao?”
“Ồ, chỉ là một đêm thôi,” Gretta nói. “Hơn nữa, có Bessie
chăm sóc chúng nó mà.”
“Chắc chắn là thế,” dì Kate lại nói. “Thật vững tâm khi có một
cô người làm như vậy, người mà ta có thể tin cậy! Còn con bé Lily nhà dì đây,
chẳng biết gần đây có chuyện gì xảy ra cho nó mà nó hoàn toàn không còn như trước
nữa.”
Gabriel định hỏi dì Kate vài câu về chuyện này, nhưng bà
quay ngoắt sang nhìn theo bà Julia, bà này bỏ ba người ở lại, một mình dò dẫm
đi về phía cầu thang rồi đứng trên lan can nghển cổ nghe ngóng.
Dì Kate gọi to gần như gắt gỏng, “Julia! Julia! Cô đi đâu thế?”
Julia đã đi được nửa đường tới cầu thang, bà quay lại nhẹ
nhàng thông báo:
“Freddy đã đến!”
Ngay lúc đó, tiếng vỗ tay và nhịp điệu cuối cùng của tiếng
nhạc piano báo hiệu điệu valse đã kết thúc. Cửa phòng khách mở ra từ bên trong
và vài cặp sánh vai bước ra. Dì Kate vội vàng kéo Gabriel sang một bên, thì thầm
vào tai anh:
“Gabriel, cháu xuống nhà giữ thái độ lịch sự xem cái gã ấy
có ổn không, và đừng để gã ta lên trên này nếu gã ta say bí tỉ. Dì dám chắc gã
ta đang say. Chắc chắn là thế chứ không thể sai vào đâu được.”
Gabriel bước ra phía cầu thang đứng trên lan can lắng nghe
tiếng động dưới nhà. Anh nghe tiếng hai người đang nói chuyện trong phòng gửi
áo choàng. Rồi anh nhận ra tiếng cười của Freddy Malins. Anh giậm chân bước xuống
cầu thang.
“Thật là nhẹ nhõm,” dì Kate nói với vợ Gabriel, “có Gabriel ở
đây, dì thấy an tâm... Cô Julia này, cô Daly và cô Power đây sẽ dùng chút đồ giải
khát. Cô Daly, cảm ơn cô đã đàn điệu valse vừa rồi rất hay. Thật là tuyệt diệu.”
Một người đàn ông cao lớn, khuôn mặt nhiều nếp nhăn với bộ
ria mép cứng ngắc và nước da ngăm đen đang ngất ngưởng đi vào cùng người bạn của
mình, nói:
“Và chúng tôi cũng có thể uống chút gì đó được không, thưa
bà Morkan?”
“Julia,” dì Kate nói ngắn gọn, “đây là ông Browne và cô
Furlong. Cô đón họ vào cùng với cô Daly và cô Power giùm tôi.”
“Tôi là người đàn ông của quý bà quý cô,” ông Browne nói,
ông ta mím môi cho đến khi bộ ria mép dựng ngược và các nếp nhăn trên khuôn mặt
ông ta đều mỉm cười. “Bà biết đấy, thưa bà Morkan, sở dĩ họ quý mến tôi đến thế
là vì…”
Ông ta nói chưa hết câu, nhưng thấy dì Kate lảng ra chỗ
khác, bèn dẫn ba cô gái trẻ vào phòng sau. Giữa phòng có hai chiếc bàn vuông vức
kê sát nhau, dì Julia và bà quản gia đang trải ra rồi vuốt cho phẳng phiu một tấm
khăn vải lớn. Trên tủ bát đĩa bày biện đủ thứ đĩa, ly, dao, nĩa và thìa. Mặt
trên của chiếc đàn piano vuông khép lại cũng được dùng làm bàn bày thức ăn nhẹ
và đồ ngọt. Bên cạnh một chiếc tủ nhỏ hơn trong góc, hai chàng trai trẻ đang đứng
uống bia.
Ông Browne dẫn đầu nhóm của mình bước vào, ông vui vẻ cười
đùa mời các cô uống nước pha loại nóng, mạnh và ngọt. Các cô bảo họ chưa bao giờ
uống thứ nước gì mạnh nên ông mở ba chai nước chanh cho họ. Đoạn ông yêu cầu một
trong những chàng trai trẻ tránh sang một bên rồi cầm lên bình rượu rót cho
mình một cốc rượu whisky thật đầy. Trong lúc ông nhấp thử một ngụm, các chàng
trai trẻ giương mắt nhìn ông với đôi mắt thán phục.
“Chúa lòng lành ở cùng tôi,” ông nói, mỉm cười, “đây là lệnh
của bác sĩ.”
Khuôn mặt nhăn nheo của ông toét một nụ cười thật rộng, ba
cô gái trẻ cười ngặt nghẽo theo tiếng nhạc trước sự pha trò của ông, thân hình
họ ngả nghiêng, đôi vai như rung lên. Người táo bạo nhất nói:
“Ô này, ông Browne ơi, ông có chắc rằng bác sĩ yêu cầu ông uống
rượu như thế không đấy?”
Ông Browne nhấp một ngụm whisky nữa và trả lời cô gái kiểu nửa
vời:
“Ồ, cô thấy đấy, tôi giống bà Cassidy nổi tiếng, người được
cho là đã nói câu: ‘Nào, Mary Grimes, nếu tôi không cầm lấy nó, thì hãy bắt tôi
cầm, bởi vì tôi cảm thấy tôi muốn nó.’”
Khuôn mặt nóng bừng của ông hơi chúi về phía trước một cách
quá tự tin và âm giọng Dublin của ông rất trầm nên các cô, do bản năng tự
nhiên, đã giữ im lặng trong lúc nghe bài phát biểu của ông. Cô Furlong, một
trong những học viên của Mary Jane, hỏi cô Daly khúc nhạc valse dễ thương mà cô
vừa chơi ban nãy tên là gì; ông Browne thấy mình bị phớt lờ bèn quay sang hai
chàng trai trẻ mà ông cho là có thái độ quý trọng mình hơn.
Một cô gái trẻ mặt đỏ bừng, mặc áo hoa păng-xê bước vào
phòng, vỗ tay phấn khích và kêu lên:
“Quadrilles! Quadrilles!” [6]
Theo sát cô đằng sau là dì Kate, bà nói
to với mọi người trong phòng:
“Thưa quý vị, đây là cô Mary Jane!”
“Ồ, đây là ông Bergin và ông Kerrigan,” Mary Jane nói. “Ông
Kerrigan, ông có thể nhảy với cô Power được không? Còn cô Furlong, tôi đề nghị
cô nhảy với ông Bergin nhé. Ồ, thế là xong ngay đấy mà.”
“Mary Jane, có đến ba quý cô đấy, cháu.” dì Kate nhắc.
Hai quý ông trẻ hỏi hai quý cô liệu họ có được hân hạnh này
không, và Mary Jane quay sang cô Daly.
“Ồ, cô Daly, cô đàn hai bản vừa rồi quá tuyệt, nhưng thật
tình mà nói tối nay chúng ta thiếu các cô.”
“Xin đừng bận tâm về tôi, thưa cô Morkan.”
“Nhưng tôi tìm được một bạn khiêu vũ tuyệt vời dành cho cô,
chính là ông Bartell D’Arcy đấy, giọng tenor. Tôi sẽ mời ông ấy hát
sau. Cả Dublin này đang say mê về ông ấy.”
“Giọng hát đáng yêu, giọng hát đáng yêu!” dì Kate nói.
Khi tiếng đàn piano bắt đầu hai lần khúc dạo đầu của tiết mục
đầu tiên, Mary Jane nhanh nhẹn hướng dẫn các tân binh của mình ra khỏi phòng. Họ
đi chưa được bao lâu thì dì Julia chậm rãi bước vào phòng, vừa đi vừa ngoái ra
phía sau nhìn cái gì đó.
“Chuyện gì thế, Julia?” dì Kate lo lắng hỏi. “Ai đến à?”
Dì Julia trên tay ôm một đống khăn ăn, quay sang chị gái
mình nói trống không, như thể câu hỏi làm bà ngạc nhiên:
“Chị Kate, chỉ là cậu Freddy thôi, Gabriel đang đi bên cạnh
cậu ta.”
Quả thực, ngay phía sau bà là Gabriel đang lái đưa Freddy
Malins vào bến đỗ. Đó là một người đàn ông trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng như
Gabriel, với đôi vai rất tròn. Ông ta có một khuôn mặt thịt nhưng lại xanh tái,
chỉ có màu hồng hồng ở dái tai dày cộm và đôi cánh mũi to. Nét mặt ông thô kệch,
mũi tẹt, lông mày nhô ra thụt vào, môi dày và lồi. Đôi mí mắt nặng trĩu và mái
tóc rối bù khiến ông trông như buồn ngủ. Ông đang cười khoái trá kể chuyện gì
đó cho Gabriel nghe trong lúc hai người bước lên cầu thang, trong lúc nói ông
di di đốt ngón tay trái của mình lên mắt trái.
“Chào Freddy,” dì Julia nói.
Freddy Malins chào hai bà dì nhà Morkan một cách tự nhiên,
giọng nói có vẻ như là người thân thuộc, và sau đó, khi thấy ông Browne đứng gần
tủ búp-phê đang cười toe toét với mình, ông bước qua phòng với đôi chân nghiêng
ngả và bắt đầu lặp lại bằng giọng trầm chuyện ông vừa kể với Gabriel.
“Gã nát rượu ấy tối nay không đến nỗi tệ lắm, phải không
cháu?” dì Kate hỏi Gabriel.
Lông mày của Gabriel hơi tối lại nhưng anh nhanh chóng nhướng
lên, trả lời:
“Ồ, không, thưa dì, khó nhận thấy lắm.”
“Thật đáng buồn,” bà dì nói tiếp. “Bà mẹ tội nghiệp của gã
vào đêm giao thừa đã bắt gã hứa phải tu thân. Nhưng thôi. Nào, Gabriel, dì cháu
ta vào phòng khách đi.”
Trước khi rời khỏi phòng cùng Gabriel, bà ra hiệu cho ông
Browne bằng cách cau mày và lắc lắc ngón tay trỏ để cảnh báo. Ông Browne gật đầu
trả lời và khi bà đi rồi, ông nói với Freddy Malins:
“Nào, Teddy, tôi sẽ rót cho bạn một cốc nước chanh ngon để
cho bạn vui tươi lên nhé.”
Đang cao hứng huyên thuyên kể chuyện, ông Freddy Malins nóng
nảy gạt phứt lời đề nghị về cốc nước chanh, nhưng ông Browne, sau khi chỉ ra
cho Freddy Malins thấy áo xống của ông có phần luộm thuộm, đã rót đầy một cốc
nước chanh và đưa cho ông này. Tay trái Freddy Malins miễn cưỡng nhận cốc nước,
tay phải máy móc xốc lại chiếc váy [7]. Khuôn mặt ông Browne lại nhăn tít, ông
tự rót cho mình một cốc whisky nữa trong khi Freddy Malins vẫn oang oang nói
như lệnh vỡ, và trước khi kể đến cao điểm câu chuyện, ông tuôn một tràng cười rặc
rặc như muốn ngất, tay ông đặt xuống cốc nước chanh sóng sánh chưa kịp uống ngụm
nào, rồi lại bắt đầu di di đốt ngón tay trái của mình lên mắt trái, kế đó ông lặp
lại những lời trong câu nói trước khi trận cười khiến ông không thốt được tiếng.
Gabriel chẳng nghe ra cái gì trong lúc Mary Jane đàn khúc nhạc
hàn lâm đầy những đoạn chạy nốt và những đoạn khó chơi, mọi người trong phòng
khách im lặng lắng nghe. Anh thích âm nhạc nhưng khúc nhạc cô đang chơi anh
nghe không ra một giai điệu nào, và anh nghĩ những người khác chắc cũng thấy
như anh thôi, mặc dù họ đã yêu cầu Mary Jane chơi khúc gì đó. Bốn thanh niên từ
phòng giải khát nghe tiếng đàn chạy sang đứng ở ngưỡng cửa, nhưng sau vài phút
họ lặng lẽ bỏ đi từng cặp một. Người duy nhất có vẻ như đang theo dõi điệu nhạc
là chính Mary Jane, hai tay cô chạy thoăn thoắt trên phím đàn hoặc nhấc lên khỏi
bàn phím ở những khoảng dừng giống như tay một nữ tu bị nguyền rủa; người thứ
hai là dì Kate, bà đứng cạnh cô, thi thoảng lật trang bài nhạc đặt trên giá
đàn.
Đôi mắt của Gabriel cảm thấy khó chịu vì sàn nhà lấp lánh
sáp ong dưới ánh sáng chiếc đèn bách đăng nặng nề treo trên trần nhà, anh mon
men bước đến bức tường phía sau chiếc đàn piano. Một bức tranh vẽ cảnh ban công
trong vở kịch Romeo và Juliet treo ở đó và bên cạnh là bức khác vẽ hai hoàng tử
bị sát hại trong Tòa Tháp, nơi dì Julia từng mặc những bộ đồ len màu đỏ, xanh
và nâu làm việc khi còn là một cô gái. Có lẽ tại ngôi trường dì theo học thời
thiếu nữ, loại công việc đó được dạy trong một năm. Chính mẹ anh đã khíu tặng
anh món quà sinh nhật là chiếc áo gi-lê bằng nỉ dày màu tím, có hình đầu những
con cáo nhỏ bên trên, lót bằng vải sa-tanh màu nâu và có những chiếc khuy tròn
hình dâu tằm. Điều rất lạ là mẹ anh không có năng khiếu âm nhạc mặc dù dì Kate
thường gọi bà là người gánh vác trí tuệ của gia đình Morkan. Cả hai dì hình như
luôn có chút tự hào về người chị nghiêm trang và ra dáng chị cả của mình. Có bức
ảnh của bà ngồi trước tấm gương lớn. Tay bà giữ một cuốn sách đang mở đặt trên
đùi và đang chỉ điều gì đó trong sách cho Constantine xem, cu chàng mặc bộ đồ
lính, đứng ngỏn ngoẻn bên chân bà. Chính bà là người đã chọn tên cho các con
trai mình vì bà rất ý thức về phẩm giá của cuộc sống gia đình. Nhờ bà mà
Constantine giờ đây trở thành giám tuyển cấp cao ở Balbriggan [8] và cũng nhờ
bà mà bản thân Gabriel lấy được bằng cấp tại Đại học Hoàng gia. Khuôn mặt anh
thoáng tối sầm khi anh nhớ lại mẹ anh đã phản đối cuộc hôn nhân giữa anh với
Gretta dữ dội như thế nào. Những lời lẽ khinh khi xem rẻ bà nói về Gretta vẫn
còn đọng trong trí nhớ anh; bà nói Gretta là một cô gái nhà quê dễ thương,
nhưng điều đó hoàn toàn không đúng với Gretta. Chính Gretta là người đã tận tụy
sớm hôm chăm sóc bà trong suốt thời gian dài bà lâm bệnh tại ngôi nhà ở
Monkstown.
Anh biết khúc nhạc Mary Jane đang đàn sắp
kết thúc vì cô đàn lại giai điệu mở đầu, và sau mỗi trường canh là những nốt chạy
âm giai. Trong lúc chờ đợi bản nhạc kết thúc, nỗi oán giận trong lòng anh đã
nguôi ngoai. Khúc nhạc kết thúc với nốt láy rền quãng tám ở âm bổng và chấm dứt
hẳn với quãng tám ở âm trầm. Một tràng pháo tay vang dội tán thưởng Mary Jane,
cô đỏ mặt lúng túng gấp quyển nhạc rồi trốn ra khỏi phòng. Tiếng vỗ tay to nhất
đến từ bốn chàng trai trẻ đứng nơi ngưỡng cửa, họ bỏ vào phòng giải khát khi
khúc nhạc bắt đầu nhưng quay lại khi tiếng piano ngưng.
Các cặp đôi khiêu vũ đã được sắp xếp xong. Gabriel thấy mình
nhảy với cô Ivors. Cô là một phụ nữ trẻ có tật nói luôn mồm và bốp chát, khuôn
mặt cô đầy tàn nhang với đôi mắt nâu nổi bật. Chiếc váy dạ vũ cô mặc không
khoét sâu trước ngực và trên chiếc trâm khá to cài trước cổ áo có chạm một biểu
tượng gì đó của Ireland.
Khi họ đã vào chỗ, cô đột ngột bảo Gabriel:
“Tôi có một việc cần thanh toán với anh [9].”
“Với tôi?” Gabriel ngạc nhiên hỏi lại.
Cô gật đầu một cách nghiêm nghị.
“Chuyện gì vậy?” Gabriel hỏi, mỉm cười trước thái độ nghiêm
trọng của cô.
“G.C. là ai vậy?” Cô Ivors đưa mắt nhìn anh, hỏi ngược lại.
Gabriel đỏ mặt, đang định nhíu mày giả vờ như không hiểu thì
cô đã nói thẳng ra:
“Ôi, Amy vô tội! Tôi đã phát hiện ra rằng anh viết cho tờ
Express Nhật Báo. Này, anh không thấy xấu hổ sao?”
“Tại sao tôi phải xấu hổ về bản thân mình cơ chứ?” Gabriel hỏi,
chớp mắt, cố gượng gạo mỉm cười.
“Chà, tôi thấy xấu hổ vì anh lắm,” cô Ivors nói thẳng thắn.
“Nói rằng anh viết cho một tờ báo như thế, quả tình tôi không thể tin được. Tôi
không nghĩ anh là người Tây Anh [10].”
Vẻ bối rối hiện rõ trên nét mặt Gabriel.
Đúng là anh có giữ một chuyên mục văn học mỗi thứ Tư hằng tuần trên tờ Express
Nhật Báo và được trả mười lăm shilling mỗi bài. Nhưng điều đó chắc chắn không
khiến anh trở thành người Tây Anh. Những cuốn sách từ khắp nơi gửi về, anh nhận
đọc rồi viết bài điểm hầu như được anh chờ đợi nhiều hơn là những tấm ngân phiếu
rẻ bèo. Anh thích cảm giác cầm lên cuốn sách bìa đẹp và lật từng trang sách mới
in. Gần như mỗi ngày sau khi kết thúc việc giảng dạy ở trường đại học, anh thường
đi lang thang dọc theo bến cảng đến những gian hàng bán sách cũ, như Hickey
trên đường Bachelor, Web hoặc Massey trên bến cảng Aston, hoặc O’Clohissey ở
con phố bên cạnh. Anh không biết phải phản ứng như thế nào trước lời buộc tội của
cô Ivors. Anh muốn nói rằng văn chương nằm trên chính trị. Nhưng hai người là bạn
thân từ lâu năm và sự nghiệp của cả anh lẫn cô tiến triển song song nhau, thoạt
tiên ở trường Đại học và sau đó cả hai đều trở thành giảng viên: anh không thể
bừa bãi nói một câu gì đó kêu đôm đốp với cô. Anh tiếp tục chớp mắt, cố gắng mỉm
cười và nói lúng búng trong miệng rằng anh không thấy có gì dính líu đến chính
trị khi viết phê bình sách.
Đến lượt họ giao nhau trong điệu luân vũ, anh vẫn còn bối rối
và thiếu chú ý. Cô Ivors nhanh nhẹn nắm tay anh một cách ấm áp và nói với giọng
điệu thân thiện, nhẹ nhàng:
“Tất nhiên, tôi chỉ nói đùa thôi. Nào, đã đến lượt chúng ta
giao nhau.”
Lượt giao nhau kế tiếp, cô kể những chuyện trong trường Đại
học và Gabriel cảm thấy thoải mái hơn. Một người bạn cho cô đọc bài phê bình của
anh về thơ Browning. Nhờ đó cô phát hiện ra bí mật: nhưng cô thích bài phê bình
đó của anh lắm. Đoạn cô đổi đề tài đột ngột, nói:
“Ồ, Conroy này, anh có ý định đi thăm viếng quần đảo Aran
vào mùa hè này không? Chúng tôi sẽ ở đó cả tháng. Đại Tây Dương rất đẹp. Anh
nên đi. Anh Clancy sẽ đến, cùng với anh Kilkelly và cô Kathleen Kearney. Gretta
sẽ rất vui nếu cùng đi. Gretta là người gốc xứ Connacht, phải không?”
“Người nhà cô ấy thôi,” Gabriel nói ngắn gọn.
“Nhưng anh đi được, phải không?” Cô Ivors nói, trìu mến đặt
tay mình lên cánh tay anh.
“Sự thật là,” Gabriel nói, “tôi vừa sắp xếp để đi…”
“Đi đâu?”
“Ừm, cô biết đấy, năm nào tôi cũng đi đạp xe với một số bạn
bè và vì vậy…”
“Nhưng đi đạp xe ở đâu cơ chứ?”
“Ồ, thường chúng tôi sang Pháp, Bỉ hoặc có lẽ Đức,” Gabriel
lúng túng nói.
“Tại sao lại sang Pháp và Bỉ, thay vì đi thăm quê hương
mình?”
“Ồ, một phần là để có dịp kết nối với ngôn ngữ và một phần
là để thay đổi.”
“Chẳng phải anh có ngôn ngữ riêng để kết nối hay sao – tiếng
Ireland?” Cô Ivors hỏi.
“Ừm,” Gabriel nói, “nếu nói đến chuyện đó thì cô biết đấy,
tiếng Ireland không phải là ngôn ngữ của tôi.”
Những người xung quanh bắt đầu quay sang tò mò nghe ngóng cuộc
thẩm vấn. Gabriel bồn chồn liếc sang phải sang trái và cố gắng giữ sự hài hước
của mình trước những câu hỏi hóc búa tới tấp của cô Ivors khiến trán anh đỏ bừng.
“Và chẳng phải anh có vùng đất riêng của mình để đến thăm đấy
ư,” cô Ivors không buông tha mà tiếp tục, “những vùng đất nước mà anh không biết
gì về con người, cảnh thổ?”
“Ồ, nói thật với cô,” Gabriel đột nhiên vặn lại, “tôi chán
ngán đất nước của mình lắm rồi, vô cùng chán!”
“Tại sao?”
Gabriel không trả lời vì câu trả lời sẽ khiến anh nổi nóng.
“Tại sao?” Cô Ivors lặp lại.
Nếu đi thăm những nơi ấy, vợ chồng anh sẽ phải đi chung, và
vì anh im lặng nên cô Ivors đổi giọng ấm áp, nói:
“Tất nhiên là anh không có câu trả lời.”
Gabriel cố gắng che giấu nỗi bực đọc của mình bằng cách tập
trung tinh thần vào điệu luân vũ một cách hăng hái. Anh tránh ánh mắt của cô
Ivors vì anh nhìn thấy vẻ chua chát trên khuôn mặt cô. Nhưng khi họ giao nhau
trong dãy người dài, anh ngạc nhiên khi thấy tay mình bị cô ấn chặt. Đôi mắt cô
ngước lên nhìn anh một lúc lâu đầy thắc mắc cho đến khi anh mỉm cười. Sau đó,
khi hàng người chuẩn bị bắt đầu lại nhịp luân vũ, cô kiễng chân lên nói thầm
vào tai anh:
“Đồ Tây Anh!”
Khi buổi khiêu vũ kết thúc, Gabriel đi tới một góc khuất căn
phòng, nơi bà mẹ ông Freddy Malins đang ngồi. Bà là một bà già mập mạp nhưng yếu
ớt, mái tóc bạc trắng. Giọng nói bà có âm hưởng giống như anh con trai, lại
thêm tật hơi nói lắp. Bà đã được thông báo rằng Freddy đã đến và anh ấy gần như
chẳng sao cả. Gabriel hỏi bà đi đường có vui không. Bà sống với người con gái lấy
chồng ở Glasgow, đến thăm Dublin mỗi năm một lần. Bà thong thả trả lời rằng bà
có một chuyến đi thật tuyệt vời và thuyền trưởng đã quan tâm đến bà nhiều nhất.
Bà cũng kể về ngôi nhà xinh đẹp mà con gái bà làm chủ ở Glasgow, về tất cả bạn
bè họ có ở đó. Trong lúc nghe bà chậm rãi kể đủ thứ chuyện vặt vãnh, Gabriel cố
xua đuổi khỏi tâm trí mọi ý nghĩ về sự việc khó chịu xảy ra giữa anh và cô
Ivors vừa rồi. Tất nhiên cô gái hay người đàn bà đó, bất kể cô là ai hay là gì,
là một người nhiệt tình nhưng luôn có thời gian dành cho mọi thứ việc trên đời.
Có lẽ anh không nên trả lời cô như vậy. Nhưng cô không có quyền gọi anh là đồ
Tây Anh trước mặt mọi người, kể cả trong lúc đùa bỡn. Cô biến anh trở thành kẻ
lố bịch trước mặt mọi người, tra hỏi anh và nhìn anh chằm chằm bằng đôi mắt thỏ
của mình.
Anh thấy vợ mình đang len lỏi xuyên qua những cặp đôi đang
khiêu vũ đi về phía anh. Khi đến cạnh anh, cô nói vào tai anh:
“Gabriel, dì Kate muốn biết liệu anh có thể xẻ thịt con ngỗng
như thường lệ, được không. Cô Daly sẽ thái thịt giăm-bông còn em cắt bánh
pudding.”
“Được,” Gabriel nói.
“Dì sẽ cho đám trẻ vào trước ngay sau khi điệu valse kết
thúc để chúng ta có bàn riêng.”
“Vừa rồi em có khiêu vũ không?” Gabriel hỏi vợ.
“Có chứ! Anh không thấy em à? Anh cãi nhau gì với cô Molly
Ivors vậy?”
“Làm gì có chuyện cãi nhau. Tại sao em hỏi? Cô ấy nói vậy
à?”
“Đại khái thế. Em đang cố gắng thuyết phục ông D’Arcy ra
hát. Em nghĩ ông ta là người đầy tính tự phụ.”
“Không có cãi vã gì cả,” Gabriel lừng khừng nói, “chỉ có điều
cô ta mời anh đi du lịch tới miền Tây Ireland và anh nói là không đi.”
Vợ anh hào hứng chắp hai bàn tay lại, nhún nhảy một chút.
“Ồ, đi đi, Gabriel,” cô kêu lên. “Em rất muốn về thăm lại
Galway một chuyến.”
“Em muốn đi thì đi một mình,” Gabriel lạnh lùng nói.
Cô nhìn anh một lúc rồi quay sang bà Malins, nói:
“Đây là một người chồng tốt cho bà đấy, bà Malins ạ.”
Trong khi cô băng ngang phòng quay về chỗ cũ, bà Malins,
không hề để ý đến sự gián đoạn, tiếp tục kể cho Gabriel nghe về những nơi chốn
đẹp đẽ và phong cảnh tuyệt vời ở xứ Scotland. Anh con rể bà hằng năm đều đưa vợ
và mẹ vợ đi chơi hồ và họ thường đi câu cá. Con rể bà là một tay câu cá cừ
khôi. Một ngày nọ, anh ta câu được một con cá lớn rất đẹp và người đầu bếp
trong khách sạn đã nấu cho họ ăn một bữa tối tuyệt ngon.
Gabriel hầu như chẳng nghe bà nói gì. Sắp đến giờ ăn, anh bắt
đầu suy nghĩ lại về bài phát biểu của mình và các lời trích dẫn. Khi trông thấy
Freddy Malins băng qua phòng để đến hỏi han mẹ, Gabriel để trống chiếc ghế cho
ông ta ngồi và lui vào khung cửa sổ. Căn phòng đã thưa người và từ phòng phía
sau vang lên tiếng dao đĩa va chạm nhau. Những người còn lại trong phòng khách
có vẻ đã chán khiêu vũ và đang tụm thành từng nhóm chuyện trò to nhỏ. Gabriel
gõ nhẹ những ngón tay run rẩy nhưng ấm áp lên ô kính cửa sổ lạnh lẽo. Bên ngoài
chắc lạnh lắm! Thật thú vị biết bao được đi dạo một mình, thoạt tiên dọc theo bờ
sông và sau đó qua công viên! Tuyết đóng trên các vòm cây tạo thành một chiếc
mũ lung linh sáng trên đỉnh tượng đài Wellington [11]. Ở đó sẽ dễ chịu hơn biết
bao so với bàn ăn tối ở đây!
Anh lướt qua các tiêu đề của bài phát biểu: lòng hiếu khách
của người Ireland, những kỷ niệm buồn, Three Graces [12],
Paris [13], trích đoạn thơ của Browning. Anh lặp lại với chính mình một câu anh
viết trong bài phê bình: “Người ta có cảm tưởng như đang nghe một khúc nhạc bi
thương.” Cô Ivors khen ngợi bài viết của anh. Nhưng liệu cô ấy khen thật lòng
không? Liệu cô ấy thực sự có cuộc sống riêng đằng sau tất cả những lời nói hoa
mỹ phù phiếm đó không? Giữa hai người chưa bao giờ có cảm giác khó chịu nào cho
đến tối nay. Anh cảm thấy không mấy vui khi nghĩ rằng có thể cô sẽ ngồi chung
bàn ăn với mình, ngước đôi mắt dò xét đầy phê phán nhìn anh trong khi anh trò
chuyện. Có lẽ cô sẽ không thấy tiếc nếu bài phát biểu của anh thất bại, chẳng
được ai tán thưởng mà còn bị dè bỉu khinh chê. Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu
anh đem lại cho anh sự can đảm phần nào. Anh sẽ nói, ám chỉ từ vị thế của dì
Kate và dì Julia, rằng: “Kính thưa quý vị, thế hệ đang già nua và suy tàn hiện
nay của chúng tôi có thể có những lỗi lầm, nhưng về phần tôi, tôi thiết nghĩ nó
có những phẩm chất nhất định như lòng hiếu khách, tính hài hước, tính nhân văn,
những điều mà đối với tôi, thế hệ mới ngày nay, tuy rất nghiêm túc và có trình
độ học vấn cao đang lớn lên xung quanh chúng ta, hình như thiếu sót.” Rất tốt:
đó là nhát bổ vào mặt cô Ivors. Việc gì anh phải quan tâm các dì của anh chỉ là
hai bà già ngớ ngẩn, chẳng biết gì?
Trong phòng bỗng có tiếng xì xào nổi lên thu hút sự chú ý của
anh. Ông Browne đang từ cửa ra vào tiến lại, ông lịch sự khoác tay hộ tống dì
Julia, đầu dì tựa vào cánh tay ông, hơi ngước lên, miệng mỉm cười. Một tràng
pháo tay không đều đặn theo dì đến tận chiếc đàn piano và sau đó, khi Mary Jane
ngồi xuống ghế, dì Julia, không còn mỉm cười nữa, quay người để hướng mặt về
phía người nghe, cũng từ tốn đứng lại. Gabriel nhận ra ngay khúc dạo đầu. Đó là
bài hát tủ của dì Julia, một bài hát rất cũ – Dàn hàng đón cô dâu [14].
Giọng hát dì còn mạnh và trong trẻo lắm,
dì đặt hết tinh thần vào bản nhạc, những đoạn hát nhanh dì không bỏ sót dù chỉ
một nốt luyến láy nhỏ nhất. Nghe hát mà không cần nhìn vào mặt ca sĩ là cảm nhận
và chia sẻ niềm phấn khích như trong một chuyến du hành mau chóng và an toàn.
Gabriel vỗ tay thật to cùng tất cả những người khác khi bài hát kết thúc, và
cũng có tiếng vỗ tay vang dội từ phía bàn ăn phòng bên kia. Tiếng vỗ tay nghe
có vẻ nhiệt tình, chân thật chứ không giả dối cốt chỉ để lấy lòng người hát,
khiến một chút sắc đỏ hiện lên khuôn mặt dì Julia khi dì cúi xuống đặt lại tập
nhạc cũ kỹ bọc bìa da có tên viết tắt của dì trên bìa lên giá nhạc. Ông Freddy
Malins, lúc nghe hát nghiêng đầu sang một bên để nghe cho rõ, vẫn vỗ tay khi những
người khác đã ngừng và quay sang nói gì đó một cách hào hứng với bà mẹ, đầu bà
khe khẽ gật gật theo mỗi câu nói như hoàn toàn đồng ý với anh con trai. Cuối
cùng, khi không thể vỗ tay được nữa, ông đứng bật dậy và băng thật nhanh qua
phòng đến chỗ dì Julia, hai tay ông nắm lấy hai tay dì, rồi cứ thế lắc lắc, và
có lẽ ông nói không nên lời hoặc có cái gì đó mắc nghẹn trong cổ họng khiến ông
cứng lưỡi.
Cuối cùng ông nói to với dì Julia:
“Tôi vừa nói với mẹ tôi rằng chưa bao giờ
tôi nghe bà hát hay đến thế! Chưa bao giờ! Không, tôi chưa bao giờ nghe giọng
bà hay như đêm nay. Nào! Bà có tin điều đó không? Đó là sự thật. Tôi dám thề
trên danh dự của tôi, đó là sự thật. Tôi chưa bao giờ nghe giọng hát bà tươi
vui và trong trẻo đến thế, chưa bao giờ.”
Dì Julia cười rạng rỡ và nói nhỏ điều gì đó về những lời
khen ngợi khi bà rút tay ra khỏi tay ông Malins. Ông Browne vừa giơ hai cánh
tay mở rộng vừa đi về phía dì Julia, ông nói dõng dạc để những người xung quanh
nghe rõ như thể ông là ông bầu chương trình ca nhạc đang giới thiệu một thần đồng
với khán giả:
“Bà Julia Morkan, một khám phá mới nhất của tôi!”
Ông phá lên cười thích thú với câu nói này của mình trong
lúc Freddy Malins quay sang ông, nói:
“Ừm, ông Browne này, nếu ông nghiêm chỉnh thì có thể ông sẽ
khám phá ra một điều tệ hơn thế. Tất cả những gì tôi có thể nói là trong suốt
thời gian lui tới ngôi nhà này, chưa bao giờ tôi nghe bà Julia hát hay bằng một
nửa đêm nay. Và đó là sự thật tôi nói với tất cả lòng mình.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” ông Browne nói. “Tôi nghĩ giọng hát của
bà Julia tiến bộ rất nhiều.”
Dì Julia nhún vai nói với vẻ khiêm tốn song không giấu được
niềm kiêu hãnh:
“Từ ba mươi năm trước, giọng hát tôi chưa bao giờ tệ cả.”
“Tôi thường nói với Julia rằng,” dì Kate chen vào, nhấn mạnh,
“trong dàn hợp xướng họ đã không đối xử đẹp với cô em tôi. Nhưng cô ấy chẳng
bao giờ chịu nghe lời tôi.”
Bà quay sang những người khác đang đứng xung quanh như kêu gọi
sự đồng tình của họ đối với một đứa bé bướng bỉnh, trong lúc dì Julia bơ bơ
nhìn ngơ ngác về phía trước, miệng nở một nụ cười mơ hồ, khuôn mặt mơ màng như
hồi tưởng lại điều gì xa xôi lắm trong quá khứ.
“Không được, nhất định không được,” dì Kate lại nói tiếp,
“Julia nhà này không thể để ai muốn nói gì thì nói, muốn sai gì thì sai! Cái
gì? Làm việc quần quật như con ở trong cái dàn hợp xướng đó cả ngày lẫn đêm. Cả
ngày lẫn đêm! Giáng Sinh, phải dậy từ sáu giờ sáng! Tất cả để làm gì?”
“Ồ, chẳng phải đó là vì vinh danh Chúa sao, dì Kate?” Mary
Jane hỏi, cô xoay người trên chiếc ghế đàn piano, mỉm cười.
Dì Kate quay sang cô cháu gái mình, gay gắt nói:
“Cháu Mary Jane này, dì biết tất cả mọi điều về sự vinh danh
Chúa, nhưng dì nghĩ thật không vinh dự chút nào khi Đức Giáo hoàng đuổi tất cả
phụ nữ ra khỏi dàn đồng ca sau khi suốt đời họ làm nô lệ trong đó, và đặt những
thằng con trai tào lao lên đầu họ. Đức Giáo hoàng làm điều đó, dì cho rằng vì lợi
ích của Giáo hội. Nhưng điều đó không công bằng, và không đúng nữa.”
Dì Kate hăng hái tiếp tục bảo vệ em gái mình vì đó là một vấn
đề nhức nhối đối với bà, nhưng Mary Jane, khi thấy tất cả các người khiêu vũ đã
quay lại, bèn tìm cách dàn hòa:
“Dì Kate ơi, dì chỉ làm khó cho ông Browne thôi, ông ấy
không nghĩ như dì đâu.”
Dì Kate quay sang ông Browne thấy ông đang chành miệng cười
trước sự ám chỉ đến tôn giáo của ông, dì vội vàng nói:
“Ồ, tôi không hề đặt vấn đề Đức Giáo hoàng đúng hay sai. Tôi
chỉ là một bà già ngu ngốc và tôi không hề dám nghĩ như vậy. Nhưng có điều gì
đó như sự lịch sự và lòng biết ơn thông thường trong cuộc sống hằng ngày. Và nếu
tôi ở vào địa vị của Julia, tôi sẽ nói thẳng vào mặt Cha Healey điều ấy…”
“Ngoài ra, dì Kate ạ,” Mary Jane nói, “sự thực là tất cả
chúng ta đã đói bụng lắm rồi, và khi đói người ta hay cãi vã nhau.”
Ông Browne nói thêm: “Và khi khát, chúng ta cũng hay gây gổ.”
Mary Jane nói: “Vậy tốt nhất chúng ta nên đi ăn tối và kết
thúc cuộc thảo luận sau.”
Ở đầu cầu thang bên ngoài phòng khách, Gabriel thấy vợ mình
và cô Mary Jane đang cố thuyết phục cô Ivors ở lại ăn tối. Nhưng cô Ivors đã đội
mũ và cài khuy áo choàng, không chịu ở lại. Cô bảo cô không cảm thấy đói chút
nào và cô đã ở lại quá thời gian được phép của cô.
“Nhưng chỉ mười phút thôi, Molly,” vợ Gabriel nói. “Mười
phút thì đâu đến nỗi khiến cô về trễ.”
“Chỉ ăn một chút thôi [15],” Mary Jane nài nỉ thêm, “sau những
màn khiêu vũ vừa rồi, chắc hẳn cô phải đói bụng lắm chứ.”
“Thật tình tôi không thể ở lại được.” Cô Ivors đáp lời hai
người.
Mary Jane nói một cách tuyệt vọng: “Tôi e là cô chẳng thấy
vui chút nào.”
“Rất vui, tôi đảm bảo với cô như thế,” cô Ivors nói, “nhưng
bây giờ cô phải để tôi chạy đi ngay.”
“Nhưng làm sao cô về nhà được?” Gretta hỏi.
“Ồ, nhà tôi chỉ cách bến cảng hai quãng đường ngắn thôi mà.”
Gabriel do dự một lúc rồi nói:
“Cô Ivors, nếu cô cho phép, tôi sẽ đưa cô về nhà nếu cô thực
sự phải đi ngay.”
Nhưng cô Ivors đã phóng chân chạy nhanh.
“Thôi nhé,” cô kêu lên. “Chúa ơi, anh cứ vào ăn tối đi và đừng
bận tâm đến tôi. Tôi có thể tự lo cho bản thân được mà.”
“Ồ, cô đúng là một phụ nữ khôi hài đấy, Molly ạ,” Gretta nói
với theo một cách thẳng thắn.
“Beannacht libh [16],” cô Ivors vừa cười vừa nói vọng lại
trong lúc chạy xuống cầu thang.
Mary Jane nhìn theo cô, vẻ mặt bối rối
không vui, trong khi Gretta nhoài người qua lan can để nghe tiếng cửa ra vào.
Gabriel tự hỏi phải chăng anh là nguyên nhân khiến cô bỏ về đột ngột. Nhưng có
vẻ như cô không tỏ ra khó chịu: cô vừa đi vừa cười. Anh ngơ ngác nhìn xuống cầu
thang.
Ngay lúc đó dì Kate xệch xạc bước ra khỏi phòng ăn, gần như
vặn vẹo đôi tay vì tuyệt vọng.
“Gabriel đâu rồi?” Bà kêu lên. “Gabriel ở chỗ quái nào vậy?
Mọi người đang ngồi đợi cả trong này, sẵn sàng khai tiệc mà chẳng có ai xẻ thịt
con ngỗng!”
“Cháu ở đây này, dì Kate ơi!” Gabriel kêu lên, anh bỗng sôi
động hẳn lên, “cần xẻ thịt một đàn ngỗng, nếu cần, cháu cũng làm được.”
Một con ngỗng màu nâu béo ụ nằm ở đầu bàn và ở đầu bên kia,
trên mảnh giấy dính dầu mỡ rải đầy những nhánh mùi tây, có đặt một khúc
giăm-bông lớn, lớp vỏ bên ngoài được lột kỹ, vỏ bánh mì rắc vụn lên trên, quấn
xung quanh đùi con ngỗng là diềm xếp nếp bằng giấy gọn gàng đẹp mắt, và bên cạnh
đó là những khoanh thịt bò tẩm gia vị cay. Giữa hai đầu bàn có vẻ như thách đố
nhau này, bày la liệt những món ăn phụ để ăn kèm: hai hộp thạch nhỏ, hai màu đỏ
vàng; một chiếc đĩa nông đựng đầy những thỏi bánh blancmange [17]
và mứt đỏ, một chiếc đĩa lớn hình chiếc lá màu xanh lục có tay cầm hình cuống,
trên đó đặt nho khô màu tím và hạnh nhân đã bóc vỏ, bên cạnh là một đĩa khác ăn
kèm có những quả sung Smyrna [18] xếp ngay ngắn thành hình chữ nhật, một đĩa sữa
trứng trên rắc hạt nhục đậu khấu bào nhuyễn, một chiếc bát nhỏ đựng đầy
sô-cô-la và đồ ngọt bọc trong giấy vàng giấy bạc và một chiếc bình thủy tinh,
vài cọng cần tây ló lên miệng bình. Ở giữa bàn, giống như những người canh gác
quầy bán trái cây, cam và táo Mỹ được xếp thành hình kim tự tháp, bên cạnh hai
chiếc bình thủy tinh kiểu xưa, một chiếc đựng rượu đỏ ngọt và chiếc kia đựng rượu sherry màu
vàng sẫm. Trên chiếc đàn piano vuông đã đóng nắp có đặt một chiếc đĩa lớn màu
vàng với chiếc bánh pudding đang chờ sẵn và đằng sau là ba dãy chai gồm có bia
đen, rượu và nước khoáng, được xếp gọn ghẽ theo màu chai, hai hàng đầu màu đen
với nhãn hiệu màu nâu và đỏ, hàng thứ ba ít hơn, màu trắng, viền ngang màu xanh
lục.
Gabriel mạnh dạn ngồi vào chỗ đầu bàn, anh nhìn lưỡi dao rồi
chọc mạnh cái nĩa vào con ngỗng. Lúc này anh cảm thấy khá thư thái trong lòng bởi
anh vốn quen tay xẻ thịt gà ngỗng và chẳng gì thích hơn là được ngồi ở đầu một
chiếc bàn đầy ắp đồ ăn đồ uống.
“Cô Furlong, cô muốn ăn phần nào của con ngỗng đây, tôi sẽ cắt
cho cô? Cánh hay ức?” Anh hỏi cô Furlong ngồi gần đấy nhất.
“Một lát nhỏ thịt ức thôi.”
“Cô Higgins, còn phần cô?”
“Ồ, ông Conroy, ông cắt cho tôi cái gì cũng được.”
Trong khi Gabriel và cô Daly chuyển xuống bàn cho khách khứa
những đĩa thịt ngỗng, giăm-bông và thịt bò tẩm gia vị ngon lành, thì Lily đi từ
vị khách này sang vị khác với một đĩa khoai tây chiên bột nóng bọc trong một
chiếc khăn ăn màu trắng. Đây là ý kiến của Mary Jane, cô cũng gợi ý món thịt ngỗng
ăn với nước sốt táo nhưng dì Kate gạt đi, bảo rằng món ngỗng quay đơn giản
không có sốt táo đã đủ ngon đối với bà lắm rồi, và bà hy vọng mình sẽ không bao
giờ phải ăn uống tệ hơn thế. Chính tay Mary Jane phục vụ các học viên của cô,
cô bỏ vào đĩa những lát thịt ngon nhất, trong lúc hai dì Kate và Julia mở chai
đem bia rượu từ nắp chiếc đàn piano cho quý ông và nước khoáng cho quý
cô, quý bà. Cảnh tượng trông vô cùng náo nhiệt, tiếng cười, tiếng ồn ào, tiếng
ra lệnh, tiếng đẩy đưa, tiếng dao nĩa, tiếng mở nút chai và nút thủy tinh. Xẻ
thịt con ngỗng xong đợt đầu, Gabriel lại bắt tay ngay đợt thứ hai, mà vẫn chưa
ăn miếng nào. Thấy mọi người phản đối ầm ỹ, anh bèn uống một hơi gần nửa cốc
bia đen vì công việc cắt ngỗng này làm người anh nóng bừng. Mary Jane lặng lẽ
ngồi xuống ăn nhưng dì Kate và dì Julia thì vẫn chạy quýnh quýu xung quanh bàn,
giẵm cả lên chân nhau, cản đường nhau, người này sai người kia làm chuyện này
chuyện nọ mà chẳng ai nghe ai. Ông Browne thấy vậy nài nỉ họ ngồi xuống ăn,
Gabriel cũng nói vậy, nhưng hai bà dì nói vẫn còn sớm chán, chúng tôi ăn sau
cũng được. Thế là ông Freddy Malins đứng dậy túm lấy dì Kate và ấn dì ngồi xuống
ghế giữa tiếng cười vang phòng của mọi người.
Khi mọi người đã có đầy đủ thức ăn, thức uống, Gabriel mỉm
cười nói:
“Bây giờ ai muốn có thêm một chút thứ mà kẻ thô lỗ gọi là đồ
nhồi thì xin hãy lên tiếng.”
Một loạt tiếng nói đồng thanh yêu cầu anh bắt đầu cầm dao
nĩa, Lily bước tới với ba miếng khoai tây chiên bột cô để dành cho anh.
“Được rồi,” Gabriel thân thiện nói và uống thêm một ngụm bia
khai vị khác, “xin quý vị tạm thời trong vài phút quên sự có mặt của tôi.”
Anh bắt đầu ăn và không tham gia vào cuộc trò chuyện quanh
bàn trong lúc Lily đi thu dọn bát đĩa. Chủ đề của cuộc nói chuyện là đoàn ca kịch
lúc đó đang có buổi công diễn ở Hí viện Hoàng Gia. Ông Bartell D’Arcy, giọng tenor,
một người đàn ông còn trẻ tuổi, nước da ngăm đen với bộ ria mép lịch sự,
không tiếc lời ca ngợi nữ ca sĩ giọng contralto [19], nhưng cô
Furlong thì cho rằng vở nhạc kịch nói chung khá thô sơ, không được hoành tráng
cho lắm. Ông Freddy Malins nói có một ca sĩ chính người da đen hát trong phần
hai của vở kịch câm Gaiety, anh ta là một trong những người có giọng tenor hay
nhất mà ông từng nghe.
“Ông nghe anh ta hát bao giờ chưa?” Ông hỏi ông Bartell
D’Arcy ngồi ở phía bên kia bàn.
“Chưa bao giờ,” ông Bartell D’Arcy thờ ơ trả lời.
“Bởi vì,” Freddy Malins giải thích, “tôi rất tò mò muốn biết
ý kiến của ông về anh chàng ca sĩ da đen. Tôi nghĩ anh ta có một giọng hát tuyệt
vời.”
“Chỉ Teddy mới cất công tìm tòi khám phá ra những điều thực
sự tốt đẹp,” ông Browne nói như quá quen với khách trong bàn ăn.
“Và tại sao anh ta không thể có một giọng hát tốt chứ?”
Freddy Malins gay gắt đặt câu hỏi. “Có phải chỉ vì anh ta là người da đen?”
Không ai trả lời câu hỏi này và Mary Jane xoay câu chuyện
trong bàn trở lại đề tài vở opera. Một trong những học viên của cô biếu cô một
tấm vé vào cửa rạp Mignon. Tất nhiên điều đó thật tuyệt vời, cô nói, nhưng nó
khiến cô nghĩ đến cô Georgina Burns tội nghiệp. Ông Browne nhắc lại chuyện quá
khứ xa hơn, về những đoàn opera của Italy thuở trước từng đến Dublin trình diễn
– những giọng hát lẫy lừng như Tietjens, Ilma de Murzka, Campanini, Trebelli,
Giuglini, Ravelli, Aramburo. Ông nói chỉ ở Dublin này thuở đó người ta mới biết
ca hát là gì. Ông cũng kể về nhà hát Royal cũ đêm này qua đêm khác chật kín
khán giả như thế nào, về chuyện có đêm nọ, một ca sĩ người Italy đã phải hát
năm lượt theo yêu cầu của khán giả bài “Hãy để tôi gục ngã như một chiến sĩ,”
và lần nào cũng hát nốt Đô cao, và về chuyện các chàng trai làm việc trong nhà
hát đôi khi hứng chí đến độ tháo con ngựa ra khỏi xe của một nữ diễn viên nào
đó và hè nhau kéo chiếc xe qua các con phố về khách sạn của bà. Ông hỏi mọi người,
tại sao bây giờ không ai trình diễn những vở opera hoành tráng nữa, như vở
Dinorah, vở Lucrezia Borgia? Bởi vì họ không tìm đâu ra giọng hát nào để hát những
vở opera đó: đó là lý do.
Ông Bartell D’Arcy nói, “Ồ, tôi cho rằng ngày nay cũng có những
ca sĩ hát hay như ngày xưa.”
“Họ ở đâu?” Ông Browne thách thức hỏi.
“Ở London, Paris, Milan,” ông Bartell D’Arcy ôn tồn trả lời.
“Tôi cho rằng Caruso chẳng hạn, cũng khá hay, nếu không muốn nói là hay hơn bất
kỳ ca sĩ nào ông vừa đề cập.”
“Có lẽ thế,” ông Browne nói. “Nhưng tôi có thể nói với ông rằng
tôi rất nghi ngờ điều đó.”
“Ồ, tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để được nghe Caruso hát,”
Mary Jane nói.
“Đối với tôi,” dì Kate bây giờ lên tiếng, dì vừa nói vừa gặm
một khúc xương, “chỉ có một giọng tenor. Ý tôi muốn nói là chỉ có một
giọng tenor khiến tôi ưng ý nhất. Nhưng tôi cho rằng chưa ai
trong quý vị từng nghe nói về ông ta.”
“Ông ta là ai vậy, thưa bà Morkan?” Ông Bartell D’Arcy lịch
sự hỏi.
“Tên ông ta là Parkinson. Tôi nghe ông ta hát vào thời kỳ
phong độ nhất của ông ta và tôi nghĩ đấy là giọng tenor trong
trẻo nhất từng có.”
“Lạ thật,” ông Bartell D’Arcy nói. “Tôi chưa bao giờ nghe
nói về ông ta.”
“Vâng, vâng, bà Morkan nói đúng đấy,” ông Browne nói. “Tôi
nhớ đã từng nghe nói về ông già Parkinson nhưng ông ấy ở vào thời quá xa xưa đối
với tôi.”
“Một giọng tenor Anh thật hay, trong trẻo,
ngọt ngào và êm dịu,” dì Kate nói một cách sôi nổi.
Gabriel ăn xong, chiếc bánh pudding khổng lồ được bưng ra
bàn. Tiếng thìa nĩa lại vang lên. Vợ Gabriel cắt từng lát bánh và chuyển đĩa xuống
bàn cho mọi người. Khi đĩa bánh chuyển đến tay Mary Jane, cô giữ lại, thêm vài
quả dâu rừng hoặc thạch cam hoặc blancmange và mứt. Chiếc bánh
pudding, do dì Julia làm và được mọi người khen ngon. Dì bảo nó chưa đủ sắc
nâu.
“Ồ, bà Morkan này,” ông Browne bảo dì, “tôi hy vọng là tôi đủ
sắc nâu đối với bà bởi vì, bà biết đấy, da thịt trên người tôi toàn màu nâu.”
Tất cả các quý ông, ngoại trừ Gabriel, đều ăn một ít bánh
pudding để khen dì Julia. Vì Gabriel không bao giờ ăn đồ ngọt nên cần tây được
đem đến cho anh. Ông Freddy Malins cũng lấy một cọng cần tây ăn cùng với bánh
pudding. Có người bảo ông cần tây bổ máu và lúc đó ông đang được bác sĩ chăm
sóc. Bà Malins, ngồi im lặng suốt bữa ăn, bỗng lên tiếng nói rằng khoảng một tuần
nữa con trai bà sẽ lên chơi vùng núi Melleray. Thế là cả bàn xoay sang nói về
Melleray, rằng không khí ở đó trong lành biết bao, rằng các tu sĩ hiếu khách
như thế nào, họ chẳng bao giờ xin xỏ khách viếng một đồng xu.
“Ý ông muốn nói là,” ông Browne hỏi một cách hoài nghi, “bất
cứ một tên cầu bơ cầu bất nào cũng có thể lên đó ở như thể đó là một khách sạn
và sống thong dong sung sướng trong một thời gian rồi ra đi mà không phải trả đồng
nào ư?”
“Ồ, hầu hết khách vãng lai đều tự nguyện đóng góp một số tiền
cho tu viện khi đi.” Mary Jane bảo ông.
Ông Browne thẳng thắn nói: “Tôi ước gì chúng ta có một tổ chức
như thế trong Giáo hội của mình.”
Ông tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng các tu sĩ không
bao giờ nói chuyện, rằng họ thức dậy từ hai giờ sáng và ngủ trong quan tài của
mình. Ông hỏi họ làm vậy để làm gì.
“Đó là quy định của tu viện,” dì Kate nói một cách chắc nịch.
“Ừ, nhưng tại sao?” ông Browne hỏi ngược lại.
Dì Kate nhắc lại rằng đó là quy định, chỉ thế thôi, nhưng
ông Browne có vẻ vẫn chưa hiểu. Ông Freddy Malins lại cố gắng hết sức mình để
giải thích cho ông ta nghe rằng các nhà tu cố gắng bù đắp những tội lỗi mà tất
cả những kẻ phạm tội trên thế gian bên ngoài đã gây nên. Lời giải thích không
rõ ràng lắm, ông Browne chỉ nhăn răng ra cười toe toét, nói:
“Tôi rất ưng cái ý tưởng đó nhưng liệu một chiếc giường nệm
lò xo thoải mái cũng có tác dụng tốt như một chiếc quan tài hay không?”
“Chiếc quan tài,” Mary Jane bảo ông, “là để nhắc nhở họ về kết
cục cuối cùng của họ.”
Khi câu chuyện trở nên buồn tẻ, nó bị chôn vùi trong sự im lặng
của bàn ăn, người ta chỉ nghe tiếng bà Malins nói với người ngồi bên cạnh bằng
một giọng không rõ ràng:
“Họ là những người rất tốt, những thầy tu ấy, những người rất
ngoan đạo.”
Nho khô, hạnh nhân, sung, táo, cam, sô-cô-la và kẹo giờ đây
được bày ra khắp bàn và dì Julia mời tất cả các vị khách uống bia đen hoặc rượu sherry.
Lúc đầu, ông Bartell D’Arcy từ chối uống nhưng người bên cạnh huých ông một cái
nhẹ và nghiêng đầu thì thầm điều gì đó vào tai ông, và ông cho phép rót đầy ly
của mình. Khi cốc rượu cuối cùng được rót đầy, cuộc trò chuyện cũng dần dà lắng
xuống. Tiếp theo là sự im lặng, chỉ bị gián đoạn bởi tiếng cốc ly va chạm và tiếng
ghế lắc lư. Ba cô cháu nhà Morkan nhìn xuống tấm khăn trải bàn. Có người ho một
hai tiếng rồi vài quý ông vỗ nhẹ lên bàn ra hiệu im lặng. Sự im lặng bao trùm
và Gabriel đẩy ghế ra.
Tiếng vỗ tay ngay lập tức to hơn như để khích lệ rồi ngừng hẳn.
Gabriel chống mười ngón tay run rẩy lên mặt khăn trải bàn, miệng mỉm cười
nhưng không giấu được vẻ hồi hộp. Anh nhìn xuống thấy hai dãy người trong bàn
cùng ngước mặt lên anh, chờ đợi. Anh ngửng đầu, đưa tia mắt nhìn lên cây
đèn bách đăng trên trần. Tiếng piano đang dạo một điệu valse và anh có thể nghe
thấy tiếng váy loạt xoạt lướt qua cửa phòng khách. Bên ngoài, có lẽ có người
đang đứng trên tuyết từ bến cảng nhìn lên những ô cửa sổ sáng đèn và lắng nghe
điệu nhạc valse. Không khí ở đó chắc là trong lành lắm. Xa hơn là công viên nơi
cây cối trĩu nặng tuyết. Đài tưởng niệm Wellington đội một lớp tuyết dày lấp
lánh chiếu sáng về phía tây trên cánh đồng Mười Lăm Mẫu tuyết phủ đầy.
Anh bắt đầu:
“Kính thưa quý vị, tối nay, cũng như những năm trước, tôi đã
có cơ hội thi hành một nhiệm vụ rất thú vị nhưng là một nhiệm vụ tôi e rằng
năng lực làm diễn giả kém cỏi của tôi hoàn toàn không đáp ứng nổi.”
“Không, không đâu!” Ông Browne kêu lên.
“Nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi chỉ có thể yêu cầu quý vị tối
nay hãy mở lòng dành cho tôi sự chú ý của quý vị trong giây lát để tôi cố gắng
bày tỏ với quý vị bằng lời nói cảm xúc của tôi trong dịp này là gì.
“Thưa quý vị, đây không phải là lần đầu tiên chúng ta tụ họp
dưới mái nhà hiếu khách này, quanh khu nhà hiếu khách này. Đây không phải là lần
đầu tiên chúng ta là người nhận – hoặc có lẽ, tôi nên nói cho chính xác hơn, những
kẻ không đòi mà được hưởng – lòng hiếu khách của một số quý bà, quý cô tốt bụng.”
Anh giơ tay vẽ một vòng tròn trong không khí và tạm thời
ngưng nói. Mọi người ai nấy cất tiếng cười hay mỉm cười với dì Kate, dì Julia
và cô Mary Jane, ba người đỏ mặt vì sung sướng. Gabriel tiếp tục nói một cách mạnh
dạn hơn:
“Mỗi năm trôi qua, tôi lại cảm thấy mình tin tưởng một cách
mạnh mẽ hơn rằng đất nước chúng ta không có truyền thống nào tốt đẹp hơn lòng
hiếu khách và chúng ta phải kiên quyết bảo vệ nó. Đó là một truyền thống hiếm
có, gần như độc nhất vô nhị cho đến nay, theo kinh nghiệm của tôi đi thăm viếng
nhiều nơi ở nước ngoài trong số các quốc gia hiện đại. Có lẽ có người cho rằng
đó là một thất bại hơn là bất cứ điều gì đáng tự hào. Nhưng ngay cả thế, trong
tâm trí tôi, đó là một thất bại đáng quý, một điều mà tôi tin tưởng là sẽ được
nuôi dưỡng thật lâu bền trong tâm thức chúng ta. Ít nhất tôi tin chắc một điều,
đó là khi nào mái nhà này còn che chở những người phụ nữ tốt bụng tôi vừa đề cập
– và tôi thực tâm mong ước điều đó vẫn tiếp tục trong rất nhiều tháng năm dài sắp
tới – thì truyền thống hiếu khách ấm áp và chân tình của dân tộc Ireland, mà tổ
tiên chúng ta đã truyền lại cho chúng ta và đến lượt chúng ta truyền lại cho
con cháu mình, vẫn còn tồn tại trong chúng ta mãi mãi.”
Tiếng rì rầm tán thưởng nồng nhiệt nổi lên lan ra khắp bàn.
Gabriel chợt nhớ cô Ivors không có ở đó, cô đã bỏ ra về một cách bất lịch sự:
và anh nói với sự tự tin chắc nịch:
“Thưa quý vị, một thế hệ mới đang lớn lên giữa chúng ta, một
thế hệ được thúc đẩy bởi những ý tưởng mới, những nguyên tắc mới. Nghiêm túc và
nhiệt tình, những ý tưởng mới này với tính cách sôi động của nó, ngay cả khi bị
định hướng sai lạc, tôi tin rằng ở bản chất là chân thành. Nhưng chúng ta đang
sống trong một thời đại đầy hoài nghi và, nếu tôi có thể sử dụng cụm từ này, một
thời đại bị giày vò về tư tưởng: và đôi khi tôi e sợ rằng thế hệ mới này, dù được
giáo dục đầy đủ, thậm chí còn hơn thế nữa, nhưng lại thiếu những phẩm chất về
tính nhân đạo, lòng hiếu khách, tính hài hước tử tế, vốn là thuộc tính của các
thế hệ xa xưa. Tối nay khi nghe quý vị nhắc đến tên tuổi những ca sĩ lừng lẫy
trong quá khứ, tôi phải thú nhận rằng chúng ta đang sống trong một thời đại kém
rộng rãi. Thời đó ta có thể không ngoa gọi là thời của những ngày rộng rãi: và
nếu chúng ta không thể tìm lại được những ngày tháng đó thì ít nhất chúng ta
hãy hy vọng rằng trong những cuộc tụ họp như thế này chúng ta vẫn nhắc về nó với
niềm tự hào và lòng yêu mến, vẫn ấp ủ trong lòng ký ức về những con người vĩ đại
đã chết, đã ra đi không bao giờ trở lại mà danh tiếng họ thế giới không thể
chôn vùi.”
“Nghe! Nghe!” Ông Browne bật lên nói to.
“Tuy nhiên,” Gabriel nói tiếp, giọng nhẹ nhàng hơn, “trong
những buổi tụ họp như thế này, luôn luôn có những những suy nghĩ buồn bã quay
trở lại tâm trí chúng ta: những suy niệm về quá khứ, tuổi trẻ, những đổi thay,
những khuôn mặt không có nơi đây mà chúng ta cùng nhau tưởng nhớ đến. Đường đời
chúng ta rải đầy những kỷ niệm buồn bã như vậy: và nếu chúng ta cứ mãi đau buồn
suy ngẫm về những điều đó, chúng ta sẽ không thể nào tìm đâu ra tâm sức để tiếp
tục một cách dũng cảm với công việc của mình giữa những người đang sống. Tất cả
chúng ta đều có nghĩa vụ sống và cuộc sống này luôn đòi hỏi, và đòi hỏi một
cách đúng đắn, những nỗ lực khó khăn vất vả của chúng ta.
“Vì vậy, tôi sẽ không nán lại quá khứ. Tôi sẽ không để bất kỳ
đạo đức u ám nào xâm chiếm chúng ta ở đây tối nay. Ở đây chúng ta tụ họp lại với
nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi sau những nhộn nhịp lo toan tất bật
của cuộc sống hằng ngày. Chúng ta gặp nhau ở đây như những người bạn, trên tinh
thần bằng hữu tốt đẹp, với tư cách là đồng nghiệp, và ở mức độ nào đó, trên
tinh thần huynh đệ chí thiết thực sự, và với tư cách là khách của – tôi phải gọi
họ là gì đây? – Ba Nữ thần [20] của thế giới âm nhạc thành phố Dublin.”
Với ám chỉ này, cả bàn vỗ tay rào rào và phá lên cười thích
thú. Dì Julia ngơ ngác yêu cầu từng người ngồi xung quanh thuật lại những gì
Gabriel vừa nói cho dì nghe, nhưng chẳng ai bận tậm, cuối cùng Mary Jane quay
sang bảo dì:
“Anh Gabriel gọi chúng ta là Ba Nữ thần,
dì Julia ạ.”
Dì Julia vẫn chẳng hiểu gì cả nhưng bà ngước lên, mỉm cười với
Gabriel, trong lúc anh tiếp tục nói với giọng như cũ:
“Thưa quý vị, tối nay tôi sẽ không cố gắng diễn vai trò mà
Paris đã đóng [13]. Tôi chỉ cố gắng hoàn tất nhiệm vụ với tất cả khả năng kém cỏi
của mình, và đây quả là một nhiệm vụ rất khó khăn đối với tôi. Vì khi tôi lần
lượt nhìn họ, cho dù đó là bà chủ nhà, người có trái tim nhân hậu, trái tim quá
nhân hậu, đã trở thành cái gì quá quen thuộc với tất cả những ai quen biết bà,
hay người em của bà, người dường như được ban tặng tuổi trẻ suốt bao năm và giọng
hát của bà hẳn là một ngạc nhiên thích thú, một khám phá đối với tất cả chúng
ta tối nay, hoặc, cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, khi tôi nhắc đến
cô chủ nhân trẻ tuổi nhất của chúng ta, tài năng, vui vẻ, chăm chỉ và là cô
cháu gái tốt lành nhất, tôi đành thú nhận một điều, thưa quý vị, rằng tôi không
biết nên trao giải cho ai trong số ba người phụ nữ khả ái này.”
Gabriel liếc xuống các dì của mình thấy nụ cười rạng rỡ trên
khuôn mặt dì Julia, và những giọt nước mắt long lanh trong mắt dì Kate. Anh vội
vã bước đến gần, nâng ly rượu của mình lên một cách trịnh trọng, trong khi mọi
trong bàn cùng nhau nâng ly và nói lớn:
“Chúng ta hãy cùng nâng ly chúc mừng cả ba người nhé. Chúng
ta hãy uống mừng sức khỏe, sự giàu có, cuộc sống trường thọ, hạnh phúc và thịnh
vượng của họ, và cầu mong họ tiếp tục duy trì lâu dài vị trí đáng kiêu hãnh và
tự lực mà họ nắm giữ trong công việc cũng như vị trí danh dự và tình cảm của họ
trong trái tim chúng ta.”
Đoạn tất cả đứng dậy, ly trong tay cùng hướng về phía ba người
phụ nữ đang ngồi, đồng thanh hát, với ông Browne là người dẫn đầu:
For they are jolly gay fellows,
For they are jolly gay fellows,
For they are jolly gay fellows,
Which nobody can deny. [21]
Dì Kate cầm khăn tay lên chậm nước mắt, và ngay cả dì
Julia cũng có vẻ xúc động. Ông Freddy Malins đánh nhịp bằng chiếc
nĩa ăn bánh pudding và mọi người quay mặt vào nhau, như thể đang cùng
nhau hội ý, trong khi rướn cổ hát lớn:
Unless he tells a lie,
Unless he tells a lie,
Sau đó, một lần nữa họ quay về phía hai bà dì và cô Mary
Jane, hát:
For they are jolly gay fellows,
For they are jolly gay fellows,
For they are jolly gay fellows,
Which nobody can deny.
Nhiều vị khách khác bên ngoài cửa phòng ăn cũng góp tiếng
tung hô, họ lặp lại hết lần này đến lần khác, ông Freddy Malins đóng vai chỉ
huy với chiếc nĩa giơ lên cao.
(còn tiếp 1 kỳ)
James
Joyce | Trịnh Y Thư dịch & giới thiệu