Mùa thu năm 2012 tôi trở về Việt Nam thăm gia đình. Dịp này tôi gặp lại 2 người bạn học từ những ngày xa xưa lắm. Khi đó chúng tôi 3 người thuộc nhóm học sinh tập tễnh viết thơ văn để kịp đăng trên tờ bích báo của trường sắp ra mắt số đầu tiên. 2 bạn viết truyện vui và truyện tuổi học trò; còn tôi làm thơ... tình. Sau rất nhiều năm xa cách, bây giờ gặp lại 2 bạn và được 2 bạn khuyến khích, tôi quyết định, 3 tuần cuối cùng tôi sẽ không đi ra khỏi thành phố vào 2 ngày thứ bảy và Chúa nhật. 2 ngày này tôi sẽ có mặt tại quán café Ngọc Hân số 41 đường Lê Quý Đôn Quận 3 Thành phố Sàigòn. Tôi có mặt tại quán café từ 7 giờ 30 sáng đến 11 giờ trưa. Tại đây tôi sẽ được gặp những nhà văn đã lớn tuổi của Sàigòn cũ. Và, đó cũng là những người đàn anh của 2 bạn. Qua những nhà văn này, tôi sẽ được chỉ dẫn để có thể tạo ra thật dễ dàng rất nhiều cốt truyện hấp dẫn để viết về thế giới tâm linh. Tôi không muốn những gì tôi viết sẽ để lộ sự non nớt chưa có tay nghề, hoặc, không đáp ứng được nhu cầu của độc giả.
Nhớ lại những tháng
ngày “chân ướt chân ráo” mới đến định cư tại Vương Quốc Hòa Lan, tôi đã tiếp tục
làm thơ. Thơ của tôi được đăng trên các báo của người Việt bên Mỹ, cùng báo Việt
Nam Nguyệt San của Cộng Đồng Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hòa Lan, và
trên tạp chí điện tử Cái Đình. Tôi chưa từng viết truyện ngắn bao giờ. Bây giờ
tôi muốn kết hợp thơ cùng truyện ngắn về thế giới tâm linh. Và, tôi tin tôi
cũng sẽ thành công và cũng sẽ được độc giả khắp bốn phương... cùng độc giả tại
Hòa Lan đón nhận.
Hôm nay là ngày chúa nhật,
tôi còn 8 ngày ở Việt Nam. Sáng hôm nay tôi đến quán nhưng không gặp 1 người
anh nào có mặt. Vì là ngày chúa nhật nên quán đông khách quá. Tôi thất vọng
nhưng quyết định sẽ chờ. Nhìn quanh từ trong quán ra đến ngoài sân, tôi thấy
không còn bàn nào trống cả. Tôi định đi loanh quanh đâu đó một chút rồi quay lại.
Thì, tôi thấy 1 người đàn ông lớn tuổi ngồi một mình bên cái bàn nhỏ mà tôi có
thể xin ngồi cùng. Tôi đi đến và hỏi:
- Thưa bác, cháu có thể ngồi đây được không bác?
Người đàn ông không nói
mà chỉ gật đầu. Tôi kéo ghế và ngồi xuống. Tôi để quyển truyện lên bàn và gọi
ly café sữa đá. Trong khi chờ café đem ra, tôi mở quyển truyện ra để đọc tiếp.
Quyển truyện tôi đang đọc có tựa: “Liêu Trai Chí Dị” của tác giả Bồ Tùng Linh.
Tôi đọc quyển truyện này vì tôi muốn xem cách viết, cách tạo cốt truyện của
‘lão tiền bối’ này ra sao.
Tôi vừa thoáng nhìn thấy
ông khách ngồi đối diện tôi nhếch môi cười. Một nụ cười như chế nhạo tôi? Hay
có ý nào khác thì tôi chưa biết. Quyển truyện tôi đang đọc mà 2 người bạn của
tôi cho là truyện tầm thường. Nên, nụ cười của ông đã làm cho tôi cảm thấy chút
khó chịu.
Thật bất ngờ, ông lên tiếng nói với tôi làm cho mọi ý nghĩ
không đúng về ông vụt trôi qua thật nhanh:
- Lâu lắm rồi tôi mới thấy lại quyển truyện này.
Câu nói của ông cho tôi
biết, ông không lạ gì với quyển truyện tôi đang đọc. Tôi muốn biết ông nghĩ thế
nào về nội dung quyển truyện. Tôi hỏi:
- Bác... có lẽ bác cũng đã đọc qua những truyện trong sách
này rồi, phải không bác?
Ông gật đầu và nói:
- Quyển truyện cô đọc, tôi đã đọc từ... từ khi cô còn là cô
bé... tắm truồng dưới mưa. Những truyện ngắn trong quyển đó kể ra cũng không tệ
mà cũng không có gì gọi là đặc sắc cả. Vừa nhìn thấy quyển truyện thì tôi... cười
vì tôi nghĩ, nếu tôi biết viết văn tôi sẽ viết truyện về thế giới tâm linh, thì
truyện của tôi sẽ... sẽ... “được” hơn truyện của Bồ Tùng Linh nhiều lắm. Một
con... ma nữ hiện lên làm người thật 100%. Con... ma nữ đó và tôi... ly kỳ lắm
cô à.
Nhìn ông nói, tôi tin
ông nói thật. Tôi nghĩ, phải làm sao để ông chịu kể câu chuyện có thật và đã xảy
ra với ông thì đúng là tôi... “đang buồn ngủ mà gặp được chiếc chiếu hoa.” Tôi
đang muốn tìm đề tài để viết cho có cái gọi là tác phẩm đầu tay. Tôi nói như
van xin ông:
- Thưa bác, cháu từng làm thơ, nhưng, hiện nay cháu đang tập
sự viết văn. Cháu muốn viết truyện ngắn về thế giới tâm linh. Nếu bác đồng ý kể
câu chuyện thật đã xảy ra với bác, cháu sẽ mang ơn bác nhiều lắm. Cháu muốn
có... tác phẩm đầu tay để làm kỷ niệm. Cháu mong bác đừng từ chối.
Và, người đàn ông mà tôi gọi là bác, đã nhìn ngay mắt tôi rồi
lại... nhếch môi cười. Ông hỏi:
- Cô nói cô từng làm thơ à! Thế... bút hiệu của cô là gì?
- Dạ thưa bác, là Miên Thụy ạ.
Ông không... nhếch môi cười mà lại cười thành tiếng thật lớn.
Ông nói làm cho tôi ngạc nhiên, làm cho tôi hãnh diện và vui mừng vô cùng. Ông
nói:
- Ô! Thế ra... cô là nhà thơ Miên Thụy ở Hà...ở Hòa Lan đấy
à! Thơ của cô hay lắm. Thơ của cô
tình cảm và mượt mà lắm. Bút hiệu Miên Thụy rất hay và... cũng đã là thơ đấy.
Tôi đã đọc nhiều bài thơ của cô từ trước năm 1975 trên các tờ báo phát hành tại
Sàigòn. Sau này tôi đọc thơ của cô do đứa cháu của tôi cũng đang sống ở
Hà... đang sống ở Hòa Lan về thăm ba má nó. Cháu tôi mở internet cho tôi xem và
tôi đã đọc thơ của cô trên đó.
- Bác đọc báo nào
trên mạng vậy, thưa bác?
- Báo Cái
Đình.
Tôi hỏi:
- Cháu của bác
cũng viết bài…?
- Không. Cháu tôi
chỉ là độc giả thôi. Nhưng nó rất thích thơ văn.
Ông ngưng nói và cầm ly lên uống hớp café cuối cùng còn trong ly. Tôi hồi hộp
chờ đợi để được nghe câu chuyện... ma có thật. Sau khi ông uống xong hớp café,
ông từ từ rót nước trà vô ly rồi chậm rãi ông nói và ông kể câu chuyện dài có
thật của chính ông cho tôi nghe:
“Cô Miên Thụy à!
Câu chuyện mà tôi sắp kể là chuyện thật 100% đã xảy đến với tôi, tuy không rùng
rợn,không làm tôi phải bị đứng tim; nhưng, rất đặc biệt đối với tôi vào những
năm xa xưa lắm cô Miên Thụy à. Đó là vào cái thời mà vùng ven Sàigòn còn nhiều
ruộng lúa, còn nhiều sông rạch và ao hồ; cũng như còn nhiều thú dữ. Đó là cái
thời mà tôi mới lớn; thời mà tóc tôi còn xanh và tình tôi còn nồng vì đang độ
tuổi yêu cuồng nhiệt. Thế rồi... thế rồi cách nay gần 1 tháng. Chính xác đó là
ngày 13 tháng 9 năm 2012, khi đó tôi đang trên đường đi đến quán café này. Tôi
vừa bước chân vô trong quán, tôi đã giật mình khi nhìn thấy người thiếu nữ có
đôi con mắt thật đặc biệt đang ngồi trong góc quán và... nhìn tôi.” Bác ngưng kể
và chỉ tay đến cái bàn trong góc bên tay phải của tôi và nói tiếp: “Người thiếu
nữ ngồi đó và nhìn tôi đến không chớp mắt. Cô gái nhìn tôi như thể cô muốn thôi
miên tôi vậy, buộc tôi phải nhìn lại cô. Và, tôi đã nhận ra cô là người mà tôi
đã gặp qua lần trước đó. Lần này là lần thứ hai tôi gặp lại cô. Lần trước, cách
chỉ 1 ngày, khi đó tôi cũng đang đi bộ từ nhà đến quán café này và thấy cô ta
đang đứng trước cổng Công Viên Tao Đàn. Cô gái đứng đó như thể cô đang chờ đợi
người nào đó sẽ đến với cô. Có một điều lạ là, đôi mắt của cô như có 1 sức thu
hút, như có 1 ma lực mạnh mẽ buộc tôi phải nhìn ngay mặt của cô; mặc dù tôi rất
ngại nhìn những cô gái trẻ.
Đôi mắt của cô, dù tôi chỉ nhìn thoáng qua thôi, nhưng, tôi có cảm nhận đôi mắt
đó là của người tôi từng quen biết. Tôi sợ có người thấy tôi nhìn cổ cách quá sỗ
sàng và sẽ cho tôi là... “già rồi mà còn ham gái trẻ”. Già hết xí quách rồi mà
còn muốn... tò tí te; muốn gặm cỏ... măng. Một ông già 82 tuổi, răng cỏ chỉ còn
đúng 3 cái... đang lung lay chưa biết giờ phút nào nó sẽ vĩnh biệt cái miệng của
tôi. Hơn nữa tôi ăn mặc lại tuềnh toàng như ông già nhà quê... thì còn ham muốn
gì nữa mà nhìn gái trẻ chứ. Phải vậy không cô Miên Thụy?”
Tôi chỉ biết mỉm cười chứ không dám có ý kiến. Bác kể tiếp: “Cô gái vẫn ngồi đó
và vẫn đang nhìn ngay tôi. Nhưng, hai tay của cổ lại đang mân mê 1 vật mà thoạt
nhìn, tôi đã nhận ra ngay đó là chiếc xe thổ mộ – chiếc xe có 1 con ngựa kéo để
chở hàng hóa và chở người rất thông dụng vào những năm của thập niên 40-50 của
thế kỷ thứ 20, là thời của tôi khi mới lớn. Nay thì chiếc xe đó đã đi vào quá
khứ rồi... cô Miên Thụy à.
Tôi là khách thường xuyên của quán café này, nên mỗi lần đến đây các nhân viên
của quán đã biết “gu” của tôi uống gì rồi. Vì vậy khi tôi ngồi vô ghế chưa được
một phút, một cô tiếp viên đã đem đến đặt trên bàn của tôi ly café sữa. Ngồi một
lúc, tôi muốn biết cô gái ngồi đó một mình hay với người nào khác, nên tôi quay
đầu qua để nhìn cổ. Nhưng, cô gái đã “biến” đi đâu mất tiêu rồi. Trên bàn thì
chiếc xe thổ mộ xưa vẫn còn để đó. Đây cũng là điều làm cho tôi phải bị đau đầu.
Cô gái không thể đi vô nhà vệ sinh được vì người lao công đang làm vệ sinh mà cửa
nhà vệ sinh thì đang mở ra toang hoác. Cô gái đó cũng không thể đi ra khỏi quán
được, vì khi cô đi cô phải đi ngang qua trước mặt tôi. Nhân có 1 cô tiếp viên
đi ngang qua chỗ tôi ngồi, tôi chận cô lại. Tôi vừa chỉ tay về cái bàn có chiếc
xe thổ mộ vừa hỏi: “Cô ơi, cho tôi hỏi cô một chút. Cô gái ngồi ở cái bàn kia
đi đâu cô có thấy không?” Cô tiếp viên nhìn theo hướng tay tôi chỉ rồi quay lại
nói nhỏ với tôi: “Bác ơi. Có lẽ đèn trong quán mờ quá nên làm cho bác tưởng tượng
chứ không có ai ngồi ở cái bàn đó đâu bác.” “Ơ... tôi mới nhìn thấy....” “Cái
bàn đó không có khách bác à.” Tôi lại chỉ tay về hướng cái bàn và hỏi: “Thế cái
xe ngựa... cái xe thổ mộ đó là của ai?” Nghe tôi nói, cô tiếp viên liền đi đến
cái bàn đó và cầm chiếc xe thổ mộ lên ngắm nhìn với vẻ ngạc nhiên. Cô tiếp viên
liền hỏi cô ngồi ở quầy tính tiền: “Bàn này có khách không chị?” Người kia lắc
đầu. Thấy vậy tôi ngoắc cô tiếp viên lại và cầm cái xe thổ mộ rồi cũng nhìn ngắm
thật kỹ. Chiếc xe và con ngựa được làm bằng cây và đánh vẹc-ni bóng loáng. Tôi
nhìn thấy bên hông chiếc xe có ghi ngày tháng và năm, 13/9/1947. Tôi định đưa
chiếc xe lại cho cô tiếp viên thì, ngay lúc đó tôi bỗng giật nẩy cả người lên.
Mồ hôi trong người tôi liền tuôn ra như thể tôi đang ở trong phòng tắm hơi vậy.
Tôi vội vàng nhìn lại những con số một lần nữa cho chắc chắn. Tôi ngước nhìn
nhanh lên tấm lịch treo tường, tờ lịch của ngày hôm đó cho tôi thấy là
13-9-2012. Tôi hoảng hốt khi vừa nhớ ra khuôn mặt của cô gái mà tôi đã gặp tổng
cộng 2 lần là người nào rồi. Tôi lại nhìn chiếc xe thổ mộ đến không chớp mắt. Mặt
của tôi lúc đó chắc chắn phải nhợt nhạt lắm vì mồ hôi cứ chảy dầm dề từ trên
trán xuống làm cho cả hai con mắt bị cay sè. Tôi như người bị mê sảng nên lảm
nhảm nói đi nói lại chỉ một câu với cô tiếp viên: “Trời ơi cô ơi! Vậy là tôi sắp
chết rồi. Trời ơi là trời! Tôi sắp chết rồi..cô ơi!”
Tôi liền đứng lên và bước đi ra khỏi quán đến quên cả uống café và quên trả tiền
ly café. Có lẽ cô tiếp viên của quán cũng ngạc nhiên khi nghe tôi nói lảm nhảm...
mà chắc chắn cô không hiểu gì cả. Tôi đi ra khỏi quán và đi thật lẹ về nhà. Khi
tôi bước chân vô hẳn trong nhà, tôi liền nằm vật ra giường. Và, câu chuyện về
chiếc xe ngựa – chiếc xe thổ mộ của những năm xa xưa lắm, đang như cuốn phim hiện
ra từ từ và thật rõ ràng trong cái đầu của tôi....
*****
Đã 4 tháng trôi qua kể từ ngày ba mẹ tôi dọn về ở trong khu đồng ruộng vắng vẻ
vùng Đa Kao này. Chung quanh khu nhà tôi, tôi đếm được chỉ có 8 căn nhà và tổng
cộng có 21 nhân khẩu. Thời gian đó toàn thành phố Saigon Gia Định dân cư vẫn
còn rất thưa thớt, nên ngoài những khu trung tâm thị tứ ra, những vùng chung
quanh phần nhiều vẫn còn là những khu hoang vắng với đầm lầy và ruộng lúa cùng
sông ngòi chằng chịt. Tôi là con trưởng trong gia đình có 4 người em. Năm đó,
năm 1947 tôi đã 17 tuổi nên, tôi cũng muốn phụ giúp gia đình bớt gánh nặng
trong sinh hoạt thường ngày. Tôi đã nhờ bạn bè kiếm giúp tôi một chỗ dạy kèm
cho trẻ em vào buổi chiều. 1 ngày kia tôi được bạn bè giới thiệu 1 công việc
đúng như ý muốn, dạy kèm cho 2 anh em ruột còn nhỏ nhà ở vùng Phú Nhuận. Ngày đầu
đến nói chuyện,tôi không giấu nổi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc chỉ
bắt đầu vào lúc 7 giờ tối và kết thúc lúc 9 giờ 30. Thất vọng là vì nơi mà tôi
mỗi tối đến dạy kèm cách nhà tôi cũng khoảng 6 cây số mà lại là khu vực quá vắng
vẻ. Căn nhà tôi sẽ dạy kèm nằm cách cánh đồng trồng lúa khoảng hơn trăm thước
và nằm sau dãy nhà mặt tiền ở con đường chính. Con đường chính từ ngã tư dẫn đến
chợ Phú Nhuận không có, hoặc có rất ít xe chạy vào thời gian tôi chấm dứt công
việc. Và, nếu phải đi bộ về nhà thì tôi không dám vì đường quá xa và quá vắng vẻ
âm u. Thật sự thì tôi cũng sợ ma lắm vì tôi tin có cuộc sống ở bên kia thế giới.
Thấy tôi có vẻ lo lắng nên ông bà chủ muốn biết tôi bị những trở ngại gì. Ông
chủ hỏi: “Có điều gì không vừa lòng thì cậu cứ nói cho chúng tôi biết... xem
sao, may ra chúng tôi có thể giúp cho cậu.” Tôi nói ngay ra điều tôi lo sợ: “Dạ,
kính thưa hai bác, 9 giờ rưỡi thì trễ quá vì cháu không có phương tiện để di
chuyển...”
“Chuyện đó cũng không có gì làm cậu phải lo lắng lắm đâu. Ngay ngã tư Phú Nhuận
có bến xe ngựa. Nếu cậu đồng ý công việc và điều kiện thì chúng tôi sẽ chịu
luôn tiền xe cho cậu. Cậu cứ hỏi xem giá cả như thế nào rồi cho chúng tôi biết.”
“Cháu cám ơn sự ưu ái của hai bác. Như vậy thì ngày mốt cháu sẽ bắt đầu công việc,
cũng như sẽ cho hai bác biết về tiền xe mà cháu phải đi.”
Đi bộ từ nhà ông
bà chủ ra đến ngã tư Phú Nhuận, tôi nhìn thấy 1 chiếc xe thổ mộ đã đậu ở ngã tư
từ lúc nào rồi. Vị chi tôi mất đúng 6 phút đi bộ từ chỗ làm việc ra đây. Thấy
tôi nhìn chiếc xe, người xà ích già lên tiếng mời chào: “Cậu đi về đâu... cậu?”
“Về Đa Kao... bao nhiêu bác?” “Dạ, 4 cắc.” Nhìn thấy trong xe không có khách
nên tôi hỏi: “Còn bao lâu nữa thì chạy vậy bác?”
“Dạ, cứ đúng 10 giờ 30 dù có hay không có khách tôi cũng chạy cậu à. Vì đó là
chuyến cuối cùng.” “Mỗi đêm đều đúng giờ như vậy hả bác?” “Dạ, đúng vậy.” Đường
xá Sàigòn vào những năm cuối của thập niên 1940 còn rất vắng vẻ, cả ban ngày
cũng vậy. Xã Phú Nhuận thời gian đó thuộc vùng ngoại ô. Đường thì có trải nhựa
và rộng thênh thang nhưng rất ít xe cộ chạy qua lại trên đường. Người bộ hành
cũng rất ít. Mỗi đêm tôi đi bộ từ nơi làm việc ra đến bến xe thổ mộ luôn luôn
cũng chỉ một mình tôi chứ tuyệt nhiên không thấy một người nào trên đường. Thảng
hoặc, tôi mới thấy 1 chiếc xe chạy qua. Nhà ở hai bên đường Paul Blanchy – Võ
Di Nguy sau này – từ ngã tư Phú Nhuận lên đến chợ Tân Định thì hầu hết sau 9 giờ
đều đã then cài cửa đóng.
Những cây
đèn điện ở hai bên đường không đủ soi sáng lắm, nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận
lên đến cầu Kiệu. Có lần tôi đã nghĩ quẩn là, nếu chẳng may có 1 bọn cướp ra chận
chiếc xe thổ mộ bắt người xà ích và tôi lôi vô con hẻm để khảo của thì cũng chẳng
ai dám đến cứu chúng tôi. Cảnh sát chưa chắc đã dám đến can thiệp nữa nói chi đến
người dân. Có những lúc tôi cũng sợ khi nghĩ vu vơ về những chuyện ma quỉ hiện
ra nhát người đi đường mà tôi thường được nghe ba má tôi kể lại, cũng như đã đọc
trong những quyển truyện. Nhưng, tôi vội gạt những ý nghĩ đó ra khỏi đầu ngay.
Tôi không muốn tự mình nghĩ ngợi huyễn hoặc rồi làm cho mình nhút nhát lo sợ vu
vơ. Từ đêm đầu tiên cho đến đêm hôm nay, đã 2 tuần trôi qua rồi, nhưng cũng chỉ
một mình tôi là khách duy nhất của chuyến xe thổ mộ cuối ngày.
Có đôi lúc tôi
nhìn người xà ích từ phía sau lưng và cảm thấy tội nghiệp cho ông. Không biết mỗi
ngày ông có bao nhiêu người khách? Cuộc sống quả là quá cơ cực đối với người
lao động như ông. Đúng 5 tuần làm việc trôi qua trong êm đềm thì,một đêm kia,
thường thì tôi ngồi quay lưng lại với người xà ích và để 2 chân được thòng xuống
cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe, tôi đang nhìn trời và cảnh vật hai
bên đường, mặc dù cảnh vật vẫn giống như mọi đêm, nghĩa là ở những nơi có đèn
đường thì còn sáng, chứ từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu thì không. Đột nhiên
chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại. Tôi quay nhìn ra phía trước thì thấy có
người đứng bên đường đang đưa tay đón xe.
Tôi chuyển chỗ ngồi
và tránh qua một bên thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng: “Cô về đâu cô?”
“Qua khỏi cầu Kiệu bao nhiêu tiền hả bác?” “Dạ, 2 cắc cô ạ.” Khách là cô gái mặc
áo dài trắng mà quần cũng trắng.Chỗ cô gái đứng đón xe không có ánh đèn đường
nên tôi không nhìn thấy được rõ mặt. Cô gái thoáng nhìn tôi với cử chỉ hơi lúng
túng khi cô tìm cách bước lên xe. Cái bàn đạp có hơi cao. Nhưng, vì hai tay của
cô đang ôm mấy quyển sách nên cô chưa biết phải làm sao để bước lên. Thấy vậy
tôi nói: “Cô đưa mấy quyển sách tôi cầm giúp cho.” Sau khi đưa mấy quyển sách
cho tôi, cô gái đặt một chân lên cái bàn đạp và tay cô cầm cái vịn tay rồi leo
lên ngồi cạnh tôi. Nghĩa là cô cũng để hai chân thòng xuống chỗ bàn đạp. Có lẽ
cô gái không muốn ngồi hẳn vào bên trong xe vì như vậy hai chân của cô phải bị
co lại. Tôi rất vụng về trong giao tiếp với phái nữ. Có thể nói là chưa bao giờ
tôi có dịp trò chuyện thân mật với một cô gái nào cả.
Tuy đang là ban
đêm và trời lạnh, nhưng tôi cảm thấy mặt của tôi nóng bừng lên, và, khi xe chạy
ngang qua chỗ có ánh đèn điện tôi liếc nhìn thật nhanh mặt của người con gái để
nhận ra là, nàng rất đẹp. Đẹp lắm! Tuổi của cô gái có lẽ cũng bằng tuổi của tôi
thôi. Mùi thơm da thịt từ người của cô gái tỏa ra làm tôi ngây ngất và càng làm
cho tôi rụt rè hơn. Người con gái từ khi thấy tôi nhìn lén thì từ đó nàng cứ
cúi mặt nhìn xuống đường như thể cô muốn tìm kiếm vật gì đó dưới đường. Cô gái
luôn ôm mấy quyển sách sát vô ngực như thể cô muốn những quyển sách đó luôn được
sưởi ấm từ người của cô. Thỉnh thoảng cô gái cũng có ngước mặt lên một chút và
rồi lại nhìn xuống mặt đường ngay. Mỗi lần chiếc xe thổ mộ nghiêng qua nghiêng
lại vì mặt đường gập ghềnh rồi sự đụng chạm giữa cô và tôi làm cho cô giống như
con giun vậy. Cô co hai chân lên và thân mình thì muốn thu nhỏ lại để... ẩn
mình.
Những lần
như vậy tôi chỉ biết nói lí nhí trong miệng hai tiếng xin lỗi mà tôi không biết
cô nàng có nghe được hay không.Xe vừa chạy lên giữa cầu thì cô gái quay đầu lại
nói với người xà ích: “Ngừng ngay dốc cầu bên kia nghe bác.” Sau khi trả tiền,
cô gái bước xuống xe rồi thoăn thoắt đi xuống những bực thềm để đi vô xóm nhà
mà tôi cố giương hai con mắt lên cho thật lớn để nhìn theo chiếc áo dài trắng của
cô cho đến khi mất hút. Gần chỗ cô gái mất bóng, tôi nghe nói nơi đó có ‘bãi tắm
ngựa’ của quân đội Pháp nên tôi không nhìn thấy căn nhà nào cả. Đêm tối... mù
mù như vậy mà cô gái bước đi thoăn thoắt như vậy chứng tỏ cô đã quá quen đường
lối đi trong đêm tối. 3 đêm kế tiếp, cũng đúng tại địa điểm cũ, cũng người con
gái mặc áo dài trắng, cũng ra đón xe và người xà ích cũng lập lại lời mời khách
như ông đã từng mời tôi và cô gái lần đầu tiên. Ngày mai thứ bảy cuối tuần tôi
được nghỉ. Nhưng, ông bà chủ muốn mời tôi ăn bữa cơm với gia đình. Nếu không vì
muốn gặp lại cô gái cùng đồng hành 4 đêm liền thì tôi đã từ chối, vì công việc ở
nhà và bài vở ở trường quá nhiều.
Cả ngày thứ
bảy tôi cứ nhớ mãi về người con gái cùng đồng hành trên một đoạn đường ngắn ngủi
và tự hỏi, nàng làm gì và từ đâu đi ra đón xe vào thời điểm mà trên đường gần
như hoàn toàn không còn một người bộ hành nào qua lại. Hay... cũng có thể lắm.
Có thể cô gái cũng đi dạy kèm như tôi chăng? Rõ ràng cô gái có ôm một chồng
sách giống như tôi vậy mà. Nhưng, cô gái trú ngụ ở căn nhà nào trong cái khu
còn đầy ruộng nước hoang vắng mà cách phục sức của cô thì lại quá sạch sẽ với
cái áo dài trắng tinh? Chắc chắn cô gái không thể là... tôi vội xua đuổi ý nghĩ
kinh dị vừa thoáng qua trong đầu và tin rằng cô gái không thể là người của cõi
âm hiện lên với mục đích... để chọc ghẹo, để nhát tôi.
Chắc chắn cô gái
cũng đang dạy học như tôi vì tối nay thứ bảy mà cô gái không ra đón xe như 4
hôm trước tức là tôi đã nghĩ đúng. Và, đúng như tôi đã suy đoán, tối thứ bảy
hôm đó cô gái không ra đón xe. Tối ngày thứ hai đầu tuần bà chủ cho tôi về sớm
1 tiếng rưỡi vì lũ trẻ sẽ được bà đưa đi đâu đó. Được về sớm hơn 1 giờ, tôi thả
bộ ra ngã tư Phú Nhuận. Người xà ích và chiếc xe thổ mộ chưa đến. Thời gian còn
hơn cả tiếng đồng hồ nên tôi đi dọc theo đường Võ Di Nguy để nhìn ngắm các cửa
tiệm. Ngay tại ngã tư phía tay trái tôi hướng về cầu Kiệu có 1 vườn ươm cây rất
lớn hiện đã đóng cửa. Đối diện phía bên kia đường là nhà may Âu phục Bảo Toàn
mà tôi định đến kỳ lương tôi sẽ đến đó may vài bộ... hiện cũng đã đóng cửa. Xa
hơn 1 chút là ngã ba đường chưa được trải nhựa và rất nhỏ. Xa hơn 1 chút nữa có
ngôi trường làng tên Võ Tánh. Sát ngay bên phải ngôi trường là tòa nhà của Hội
Đồng Xã PhúNhuận mà tôi thấy có 1 người lính đứng gác phía trước cổng.
Xa hơn chút nữa về
phía bên trái có 1 khu đất rộng lớn mà người ta đang xây rạp chiếu phim mà ông
bà chủ của tôi đã có nói cho tôi biết, đồng thời ông bà cũng nói là sau khu đất
rộng lớn đó là khu nhà của nông dân sinh sống bên những cánh đồng lúa chạy dài
đến khu nhà của ông bà. Phía trước khu đất rộng, bên kia đường có 1 cái đình mà
tôi không biết tên vì nơi đó không có ánh đèn. Phía trước đình có 1 cái phông
tên nước mà giờ này vẫncòn nhiều người đến gánh nước. Đi thêm 1 quãng nữa tôi
đã đến chợ Phú Nhuận. Giờ này dĩ nhiên chợ cũng không còn buôn bán nên vắng
tanh và tối thui. Từ chợ Phú Nhuận đến cầu Kiệu, hai bên đường là hai dãy nhà
lá, nhà tôn nhưng không có căn nhà nào có ánh đèn. Phía sau những căn nhà đó
cũng là những cánh đồng ruộng mênh mông nước. Bất chợt tôi nhìn về phía xa xa
nơi mà đã 4 đêm có người con gái cùng tôi trên chiếc xe thổ mộ. Tôi nghĩ người
con gái có lẽ giờ này cũng đang ngồi đâu đó trong các căn nhà ở khu đó và đang
dạy kèm cho mấy em nhỏ. Nhìn đồng hồ thấy đã gần đến giờ nên tôi quay trở lại
ngã tư Phú Nhuận.
Từ xa tôi đã thấy chiếc xe thổ mộ đậu sẵn tự bao giờ. Người xà ích có lẽ quá mệt
suốt một ngày lao động nên ông nằm ngã lưng ra sàn xe và chân này gác lên lên
chân kia còn cánh tay phải đang vắt ngang trán. Người xà ích già có lẽ đang ngủ.
Con ngựa thì thỉnh thoảng co cái chân trước lên rồi nhịp nhịp xuống mặt đường
như thể nó đang bực bội vì phải đứng yên một chỗ quá lâu. Đêm nay, với sự háo hức
trong lòng mong được gặp lại người con gái đi cùng trên chiếc xe trong mấy đêm
qua thì chiếc xe thổ mộ đã bình thản chạy qua địa điểm nơi có người con gái vẫn
thường đứngđón mấy đêm trước. Tôi cảm thấy hụt hẫng, cảm thấy buồn như vừa bị mất
một vật rất quý. Tôi quay nhìn ông xà ích nhưng gương mặt của ông vẫn bình thản
như những ngày qua. Ông cầm dây cương và mặt nhìn thẳng về phía trước như không
cần phải thắc mắc làm gì đến việc thiếu vắng một người khách quen đêm nay.
Đêm hôm nay khi tôi vừa ra đến chiếc xe thổ mộ thì trời cũng vừa bắt đầu rơi những
giọt mưa nhỏ xuống trần gian; những giọt mưa đầu mùa. Tôi uể oải bước lên xe và
ngồi co chân trong lòng xe vì tôi không muốn đôi giày bị ướt. Tôi dựa đầu vào
thành xe và nhắm mắt lại. Tiếng vó ngựa vẫn nhịp đều trên mặt đường và cái âm
thanh ‘lộp cộp lộp cộp’ nghe quen tai mà mọi khi tôi rất thích. Nhưng, đêm nay
tôi cảm thấy cái âm thanh đó nó làm phiền tôi vô cùng.Tôi nhắm mắt lại nhưng
trong cái đầu của tôi lại cứ nghĩ về cô gái. Chiếc xe ngựa bỗng từ từ giảm tốc
độ làm cho tôi giựt mình và ngồi thẳng người lại. Tôi ngoái cổ nhìn về phía lề
đường vì biết chắc người xà ích cho con ngựa giảm tốc độ để đón người khách mà
tôi đang mong đợi. Tôi vui mừng quá đỗi. Vui như lúc còn bé đón mẹ đi chợ về vì
biết chắc sẽ được mẹ mua cho cái bánh hoặc cái kẹo. Người con gái kia sẽ không
cho tôi bánh hay kẹo, nhưng, đích thật sẽ cho tôi niềm vui và hy vọng.
Cô nàng có vẻ
lúng túng vì không biết phải ngồi như thế nào vì trời đang mưa thì, tôi đã lẹ
làng ngồi ra phía ngoài như tôi vẫn thường ngồi để chỗ cho cô nàng ngồi được rộng
rãi. Khi người xà ích chuẩn bị cho con ngựa cất vó chạy thì cô nàng lên tiếng
nói khơi khơi, nhưng chắc chắn là nói cho người xà ích và tôi cùng nghe: “Cả tuần
nay... bị cảm mà bây giờ lại gặp mưa nữa... Xui xẻo quá!” Ôi chao, giọng nói của
cô nàng nghe sao mà nhẹ nhàng nghe sao mà vi vút giống như cơn gió nhẹ thoảng
qua tai. Giọng nói sao mà ngọt còn hơn cả mật ong, ngọt hơn cả mía hấp nữa; tuy
cô nàng đang bị cảm như cô nàng vừa cho biết. Tôi quay nhìn qua phía cô nàng
nhưng cô nàng đang hướng mặt nhìn về phía trước. Cơ hội đang có. Dịp may sẽ
không đến... hai lần nếu như tôi không lên tiếng về những gì đã ấp ủ trong lòng
cả tuần qua thì sợ sẽ không còn dịp nữa. Và, thế là tôi hít một hơi cho không
khí vào đầy 2 cái lá phổi rồi... rụt rè lên tiếng nói:
“Cô...
cô nên cầm theo cái áo mưa...” Rõ ràng là tôi vừa thốt ra một câu thật
hết sức vô duyên. Chính tôi cũng không ngờ có cơn mưa bất chợt đến như đêm nay
để đem theo áo mưa thì làm sao cô nàng biết trước được mà đem theo chứ. Nhưng,
thật may mắn là cô nàng lại nở nụ cười và nói: “Em... em cũng không ngờ đêm nay
lại có mưa.”Tôi nhìn cô nàng và muốn mở miệng ra nói, nói bất cứ chuyện gì
nhưng, cái “hột thị” quái ác nó cứ nằm ngay cổ họng làm cho tôi cứ trơ hai con
mắt ra nhìn cô nàng mà trong lòng xao xuyến... mà vẫn không thốt ra được lời
nào. Cô nàng có nụ cười quá xinh với hai hàm răng trắng muốt và thật đều. Dưới
ánh sáng của những ngọn đèn đường hắt vào trong xe làm cho gương mặt của cô
nàng thoáng ẩn thoáng hiện trông thật thanh tú và thật huyền ảo. Hai hàm răng của
cô nàng trắng tinh. Tôi không biết cách nào để bắt chuyện nên hai bàn tay cứ hết
chắp vô với nhau rồi lại xoa xoa vô với nhau như thể là đang bị lạnh vậy.Sự im
lặng thật dài, thật lâu, chỉ nghe tiếng vó ngựa gõ đều đều trên mặt đường giữa
đêm khuya vang lên. Phút chốc chiếc xe thổ mộ đã lên đỉnh cầu và đang đổ dốc.
Người xà ích đang ghìm cương để chiếc xe từ từ dừng lại. Tự nhiên tôi buột miệng:
“Cô hãy đi mau về nhà kẻo ướt. Tôi xin được trả tiền xe đêm nay giúp cô.” Một lần
nữa, cô nàng nhìn tôi và nở nụ cười thật tươi đồng thời cô nàng cũng lí nhí nói
3 tiếng cám ơn anh, rồi bước nhanh xuống những bực thềm dẫn vô khu nhà tối tăm
không có đến một chút ánh sáng chiếu rọi đến....
Từ phía xa tôi đã nhìn thấy cô nàng đứng ngay chỗ đón xe mỗi đêm. Tự nhiên trái
tim của tôi cứ đập liên hồi và đập thật mạnh. Cô nàng nhìn tôi gật đầu chào và
đồng thời cũng ban phát cho tôi nụ cười. Mãi một lúc sau tôi mới mở được miệng
ra nói: “Có lẽ... cô cũng đi dạy ở gần chỗ cô đứng đón xe?” “Dạ, đúng vậy anh
à. Sao... anh biết hay vậy?” “Tôi chỉ đoán...mò vậy thôi. Tôi... Tôi cũng đang
dạy kèm cho mấy em ở khu ngã tư Phú Nhuận nên... Tôi xin tự giới thiệu, tôi
tên Ngọc.” “Ô, vậy ra anh Ngọc và em có cùng một công việc giống
nhau. Mình là đồng nghiệp anh Ngọc há.” Tôi liền đổi cách xưng hô: “Nhà... em ở...
ở dưới đó hả?” “Dạ, đúng rồi anh. Đi xuống hết mấy bậc thềm rồi quẹo phải sau
đó quẹo trái đi theo mé sông đến căn nhà cuối cùng là nhà của em. Em sống với
ba vì mẹ em mất lâu rồi. Em tên Thơm. Ban ngày em đi may tới chiều mới về. Ăn
cơm xong nghỉ một chút là em lại đi đến gần chỗ mà em thường đứng đón xe. Em dạy
kèm cho hai em bé gái.”
“Còn bến tắm ngựa...”
“Qua khỏi nhà của em một đoạn ngắn là đến “bến tắm ngựa”… anh à.”
Xe đã đến chỗ
mà Thơm phải xuống. Thơm nhoẻn miệng cười và nói lời từ giã:
“Hẹn anh Ngọc đêm mai… mình gặp lại. Cám ơn anh Ngọc đã trả tiền xe cho em hôm
qua. Hôm nay anh Ngọc để em được tự trả nghe anh.” “Không đáng bao nhiêu mà...
Thơm. Em cứ đi về đi. Chúc em ngủ ngon... em nhé.” “Cám ơn anh Ngọc nhiều lắm.
Em... muốn mời anh Ngọc đến nhà em cho biết nhưng... em ngại vô cùng vì nhà em
nghèo quá.”
“Được em mời đến nhà là quý lắm rồi. Gia đình anh cũng đâu phải thuộc loại
giàu có sang trọng gì mà dám chê ai.” “Vậy anh cứ hỏi trước... ông xe ngựa xem
có chịu chờ để đưa anh về không thì đêm mai em mời anh đến nhà cho biết nhà.
Thôi bây giờ em về nghen. Chúc anh Ngọc ngủ ngon.”.....
Tôi lẽo đẽo đi theo sau Thơm như cái bóng. Tôi đi theo phía sau
Thơm là vì đường đi nhỏ mà lại quá tối. Đoạn đường bằng đất nên có nhiều chỗ “gồ
ghề”. Thơm vừa vấp vào 1 vật gì đó nằm trên đường và như muốn ngã chúi về phía
trước. Nhưng, tôi đã kịp thời đưa tay ra đỡ lấy người của Thơm. Cánh tay của
tôi chạm đến thân thể của người con gái rồi chuyền qua tôi một cảm giác.. lạnh
buốt. Tôi thấy thật ái ngại cho Thơm. Vì sao đêm hôm khuya khoắt như thế này mà
Thơm lại không cầm hờ theo cái áo lạnh khi mà cô vừa trải qua 1 cơn bệnh kéo
dài cũng cả tuần lễ. Tôi vừa nhớ lại là mấy đêm vừa qua, Thơm thường hay ngồi
co ro và ôm sát chồng sách vô lòng như để cho hơi ấm không thoát được ra khỏi
thân thể của Thơm. Tôi nghĩ và thấy thương Thơm nhiều hơn.
Tôi nghĩ là tôi sẽ
tặng Thơm cái áo thật ấm và thật đẹp vào đêm mai.Đi hết 1 dãy nhà khoảng 8 căn
mà mỗi căn cách nhau cũng có đến...năm mười thước, Thơm dừng lại trước 1 căn
nhà ở cuối dãy. Căn nhà khá nhỏ được che chắn chung quanh bằng ván cây mỏng và
nóc nhà được lợp lá.Thơm đẩy nhẹ cánh cửa rồi gật đầu với tôi ra hiệu bước theo
nàng vô bên trong. Gần ngay cửa ra vô có đặt 1 cái bàn nhỏ, trên bàn đặt 1 cây
đèn dầu cũng nhỏ đang cháy leo lét. Kế bên cái đèn là bình nước được đựng trong
cái vỏ của trái dừa đã khô; với 4 cái ly nhỏ và được đựng chung trong một cái
dĩa bằng nhôm. Sau cái bàn là cái giường được che chắn bởi một tấm màn màu trắng.
Phía bên trái là nhà bếp.
Cạnh cái bếp có
treo 1 cái võng và trên đó có người đàn ông đang nằm mà tôi đoán là ba của
Thơm. Thơm lên tiếng khi người đàn ông bỏ chân xuống khỏi võng. “Con có mời anh
Ngọc ghé nhà mình cho biết. Anh Ngọc là người đã trả tiền xe cho con mà con đã
có kể cho ba nghe rồi đó.” Tôi không thấy rõ được mặt ba của Thơm vì ánh đèn dầu
không đủ soi sáng khắp căn nhà. Tôi khoanh tay lại và gật đầu chào đại: “Chào
bác ạ.” Thơm nói: “Anh ngồi xuống đó đi. Em pha trà anh uống cho ấm nhé. Em bị
lạnh quá. Em sợ bị bịnh quá anh Ngọc ơi.” Trong lúc Thơm nấu nước tôi nói như
lo lắng cho Thơm: “Người của em... lạnh lắm. Lạnh cứ như là... vừa trong hầm chứa
nước đá đi ra vậy. Em đi làm đêm mà ăn mặc như vậy dễ bị bịnh lắm.” “Em định tới
đầu tháng khi lãnh lương, em sẽ mua 1 cái áo lạnh thật dầy chứ mỗi đêm cứ như vầy
thì sợ sẽ không kéo dài được lâu.” Niềm cảm xúc trổi dậy trong lòng tôi. Thơm
nghèo nhưng thật thà quá. Thơm nói chuyện thật tự nhiên và rất thân tình. Thơm
cầm bình nước sôi đến châm vô ấm trà. Thơm rót nước từ trong cái ấm trà ra và mời
tôi: “Mời anh Ngọc uống ly nước trà cho ấm. Trời... lạnh quá anh há.” Tôi đón
ly nước từ tay Thơm.
Bàn tay của Thơm
tuy đang cầm ly nước nóng, vậy mà cũng lạnh ngắt. Hớp nước vừa trôi qua cuống họng,
tôi liền cảm thấy trong người nóng ran lên như có cả ngàn ngọn lửa đốt bên
trong và lòng tôi bỗng rạo rực khi thấy Thơm nhìn tôi với ánh mắt như của người
yêu nhìn người tình vậy. Bỗng Thơm đưa cả hai bàn tay... lạnh ngắt về phía tôi
mà không nói gì cả. Tôi liền nắm chặt lấy hai bàn tay lạnh như ướp nước đá của
Thơm, tôi muốn ôm Thơm vì tôi muốn truyền hơi ấm từ người tôi qua cho nàng.
Thơm chỉ tay đến cái giường. Trên giường có một cái gối và cái mền, Thơm nói
như mời gọi: “Anh Ngọc lên giường nằm một lúc cho ấm... rồi hãy về.” Tôi làm một
cách máy móc mà không một chút nghĩ ngợi nào. Tôi đi đến giường rồi nằm xuống.
Thơm bước theo sau tôi và đồng thời Thơm cởi cái áo dài ra. Sau khi treo cái
áo, Thơm đứng lên giường.Thơm bước một chân qua người tôi rồi đứng im nhìn tôi.
Tôi đang nằm giữa hai chân của Thơm. Hai con mắt của tôi nhìn ngay ngực của
Thơm vì Thơm đang cởi cái nịt vú ra. Tôi nhìn thấy rất rõ dưới bên vú trái của
Thơm có một cái thẹo. Thơm nhìn tôi với ánh mắt như mời gọi. Liền ngay
đó Thơm cởi luôn cái quần ngoài và quần lót ra. Thơm nằm xuống bên cạnh tôi.
Thơm ôm tôi. Tấm thân trắng nõn nà không còn một mảnh vải che thân và lạnh như
tảng nước đá mà giờ đây tôi không còn thấy lạnh nữa, bởi vì toàn thân tôi đang
nóng bừng bừng. Tôi hồi hộp đến tim đánh thình thịch và thở dồn dập. Tôi liền
ôm chặt lấy Thơm. Tôi hôn lên khắp mặt của Thơm. Tôi hôn lên cái ngực săn chắc
của Thơm. Tôi hôn vô vết thẹo dưới vú.. Thơm ghì chặt đầu tôi vô ngực của nàng
hơn. Thơm đón nhận những cái hôn của tôi bằng cách hôn lại tôi. Thơm và tôi hôn
nhau thật nồng cháy, đồng thời bàn tay của nàng cũng thoăn thoắt cởi bỏ tất cả
những gì trên người tôi ra.Trong cơn ngây ngất đê mê tôi đã nói vô tai Thơm những
lời xuất phát tự con tim đang yêu say đắm: “Thơm ơi... anh yêu em. Anh muốn
chúng mình chung sống với nhau. Anh muốn em và anh chung sống suốt đời... với
nhau.”
Thơm vẫn siết chặt
tôi và thì thầm bên tai tôi những lời mà suốt cả cuộc đời còn lại của tôi, tôi
luôn bị ám ảnh đến không bao giờ quên được: “Anh Ngọc à. Hôm nay là ngày 13
tháng 9 năm 1947. Bây giờ là 12 giờ 18 phút. Ngay bây giờ em sẽ trao cho anh
cái quý nhất của đời em. Em cũng sẽ trao tặng anh 1 món quà mà không một người
nào trên thế gian này có được. Khi thời điểm đến ngày.. anh sẽ phải từ giã tất
cả để đi về một nơi hoàn toàn xa lạ, em sẽ đến trước đúng 1 tháng để báo cho
anh biết. Khi anh nhìn thấy em và nhìn thấy chiếc xe thổ mộ được thu nhỏ, chiếc
xe mà mỗi đêm ba của em vẫn đưa anh về nhà. Anh sẽ hiểu là, thời gian của anh
chỉ còn đúng 30 ngày để giải quyết mọi việc. Anh sẽ được em đến đón anh đi cũng
đúng giờ này.” Tôi nghe rõ những lời Thơm nói, nhưng, cái đầu của tôi đang như
có ngọn lửa đốt cháy bừng bừng nên tôi không hiểu kịp. Tôi muốn hỏi, tôi muốn
nói, nhưng tôi lại không thể há miệng ra được. Tôi chưa hiểu tại sao lại có cái
hiện tượng lạ lùng như vậy, thì, Thơm kéo tôi nằm hẳn lên người của nàng. Tôi
quên hết mọi chuyện khi tôi ôm chặt lấy tấm thân săn chắc của cô gái mới lớn.
Chúng tôi ôm chặt lấy nhau như hai con Sam... Tôi tận hưởng thân xác của Thơm với
các cảm giác vô cùng đê mê ngây ngất. Thơm và tôi buông nhau ra. Tôi chìm ngay
vô giấc ngủ thật sâu....3 ngày sau tôi mới trở lại khu đất có căn nhà của Thơm.
Khu đất không có căn nhà nào cả. Nhưng... có 2 ngôi mộ nằm cách ‘bãi tắm ngựa’
của lính Pháp khoảng 1 trăm thước. Những người đi làm ruộng buổi sớm mai đã
nhìn thấy tôi nằm cạnh bên một ngôi mộ và đã đưa tôi đến bệnh viện.Hỏi thăm rất
nhiều người, cuối cùng tôi cũng gặp được 1 gia đình khi xưa sống ngay khu đất
đó rất lâu năm, và, nay gia đình đó đã dọn ra ngoài mặt lộ và mở tiệm bán xe đạp.
Ông chủ tiệm kể cho tôi nghe về 2 ngôi mộ như sau: “Cô tên Thơm thì tôi... tôi
có gặp cô nhiều lần lắm. Ngay chỗ có hai ngôi mộ đó, khi xưa chỉ có 1 gia đình
có 2 cha con sinh sống với nhau. Người cha làm nghề chạy xe thổ mộ. Cô Thơm còn
đi học. Cô Thơm hiền và rất đẹp.
Người dân sống
gần đó kể lại rằng, vào một đêm tối... đâu giữa năm 1945, họ nhìn thấy có mấy
người lính Nhật Bản đã đến khu đất đó. Mấy người lính Nhật Bản đến ‘bãi tắm ngựa’
của quân đội Pháp lúc đó cũng đã khuya lắm. Đám lính Nhật thấy cô Thơm còn ngồi
may vá gì đó nên đã định hãm hiếp cô rồi đổ cho lính Pháp. Nhưng, cô Thơm đã chống
cự và rồi cô lấy cây kéo cắt vải tự đâm vô ngực. Vừa lúc đó người cha đi làm về
và có lẽ bọn Nhật Bản sợ chuyện đổ bể nên họ giết luôn người cha. Sau khi giết
người xong, bọn chúng đốt căn nhà với 2 cái xác bên trong rồi bắn nhiều phát
súng như là đang đụng với lính Pháp. Căn nhà đang cháy dở dang thì bất ngờ một
cơn mưa lớn đổ xuống và làm tắt đám cháy. Sáng ngày hôm sau, những người đi làm
ruộng nhìn thấy xác của hai cha con nhưng chưa bị cháy hết nên họ đã chôn ngay
tại nền của căn nhà đó. Ngày đó loạn lạc và người dân còn nghèo khó lắm nên đâu
có phương tiện để chôn cất hai cha con cho đàng hoàng được.” Từ ngày đó, tôi đã
hiểu vết thẹo dưới vú trái của Thơm từ đâu mà có.
Và, cũng từ đó...
tự nhiên tôi thích cuộc sống độc thân. Tôi đã sống độc thân cho đến tận ngày
hôm nay.Tôi biết thời gian của tôi chỉ còn.. dăm ngày nữa là tôi sẽ từ giã cuộc
sống ở cõi tạm này. Lúc mới nhìn thấy lại Thơm và chiếc xe thổ mộ được thu nhỏ
trong quán café, tôi đã quá sợ hãi. Nhưng, bây giờ tôi đã hoàn toàn bình tâm rồi.
Tôi đã sắp xếp mọi chuyện đâu vào đó cả rồi. Tôi bình thản chờ đón điều sẽ phải
xảy đến với tôi. Đã là con người thì ai ai rồi cũng phải một lần chết. Tôi chết
trong tâm thái bình an, vì tôi luôn nói và làm những điều phải. Trong khi chờ
đón điều sẽ đến, mỗi ngày tôi vẫn đều đặn đến quán này uống café một lần.
Nhưng, tôi đã không còn gặp lại Thơm lần nào nữa. Có 1 điều chắc chắn là, chỉ
có một mình tôi trên thế gian này là người biết trước đúng tháng đúng ngày và
đúng giờ mình từ giã cõi đời... là món quà mà Thơm đã tặng cho riêng tôi. Như vậy,
chỉ còn vài ngày nữa là tôi sẽ phải từ giã tất cả để ra đi như Thơm đã nói như
vậy với tôi vào cái đêm.. thần tiên của ngày xa xưa lắm. Tôi chắc chắn sẽ được
gặp lại Thơm ở bên kia thế giới. Tôi mong và tin tưởng chắc như vậy, cô Miên Thụy
à”.
Bất chợt ông hỏi
tôi:
- Cô Miên Thụy
khi nào về lại bên kia?
- Dạ, thứ hai 15
tháng 10 cháu sẽ rời Việt Nam.
- Hôm nay là ngày
chúa nhật 7 tháng 10, tôi còn 5 ngày đến quán café này. Thứ bảy tới là ngày 13
tháng 10 năm 2012. Cô Miên Thụy nhớ đến nhà tôi để... chia buồn
với vợ chồng người em út của tôi nhé. Vì, vào lúc 12 giờ 18 phút sáng sớm ngày
hôm đó, là đúng ngày giờ tôi từ giã cõi tạm này rồi. Giờ đó là giờ tôi sẽ đi gặp
em Thơm yêu quý của tôi.
Ông ngưng kể và lấy
cây viết cùng tờ giấy ra và viết địa chỉ nhà của ông lên đó. Ông đưa tờ giấy đó
cho tôi và nói:
- Đây là địa chỉ
nhà của người em út tôi. Cô Miên Thụy phải đến để được chứng kiến cái chết của
tôi... ứng với câu chuyện tôi kể hôm nay là sự thật.Và, rất xứng đáng để cho cô
Miên Thụy viết thành truyện ngắn về thế giới tâm linh... có một không hai trên
cõi đời này. Tôi tin độc giả người Việt Nam tại Hà... tại Hòa Lan sẽ rất hài
lòng và đón nhận “tác phẩm đầu tay’ của cô”.
Topa (Hòa Lan)