Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trên chính trường của Mỹ, thú vị nhất trước bàn dân thiên hạ
khi các ứng cử viên tranh luận (debate) “tả xung hữu đột” phải nhạy bén, nhanh,
nếu “uốn lưỡi bảy làn trước khi nói” như trong thành ngữ Pháp “Il faut tourner
sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler” thì sẽ hết giờ. Ở đây không
bàn về chính trị mà đề cập đến các nhân vật ngày xưa đã sửa lưng như thế nào?.
Chuyện bên Tàu, gia đình Tô gia phụ tử, cụ Tô Lão Toàn (Tô
Tuân) có ba người con lỗi lạc: Tô Thức và hai người em là Tô Triệt, Tô Tiểu Muội;
cả ba người đều đỗ Tiến sĩ và được nổi danh “Tam Tô khoa bảng” trong thời BắcTống.
Tô Thức (1037-1101), tự là Tử Chiêm, hiệu là Đông Pha cư sĩ.
Năm 21 tuổi Tô Thức đỗ tiến sĩ và thời đó, em gái của ông cũng đỗ tiến sĩ, vua
Tống Nhân Tông đã ban lời khen cho cả gia đình và cá nhân ông, vì vậy ông mới
huênh hoang: “Trong thiên hạ có bốn bồ chữ, ông chiếm hai bồ, hai người em của
ông chiếm một bồ, còn một bồ phân phối cho thiên hạ”.
Tô Thức là một trong những nhà thơ tài hoa, lỗi lạc nhất của
Trung Hoa, chữ viết như rồng bay phượng múa, văn tài độc đáo, có tài kinh bang
tế thế, tuy nhiên với chức quan trong sử quán đời Tống Thần Tông không làm ông
vừa lòng với tài ba của mình với “Nhất đại văn gia chi tông” và cùng cha và em
là ba nhân vật được liệt kê “Đường Tống bát đại gia”. Cùng thời với ông có
Vương An Thạch (1021-1086) là một văn nhân và nhà chính trị có khuynh hướng cải
cách táo bạo. Tô Thức làm thơ châm biếm triều đình và bất đồng chính kiến với Tể
Tướng Vương An Thạch, cho rằng Vương là con người độc đoán, tự mãn. Tô Thức
không ngần ngại chỉ trích mạnh mẽ tân pháp của Tân Đảng do Vương An Thạch cầm đầu
vì vậy ông là cái gai của vị Tể Tướng nầy.
Năm 1071, Tô Đông Pha bị cách chức, lưu đày làm tri huyện ở
Hàng Châu, Triết Giang. Trong buổi tiễn biệt, thị nữ Xuân Nương muốn theo ông đến
tận chân trời góc bể nhưng ông khước từ, nàng tự vận. Chứng kiến hình ảnh đau
thương đó, ông lại càng ngông, càng khinh miệt thế nhân. Phong cảnh Hàng Châu rất
đẹp, sông nước hữu tình, ông cất nhà ở phía Đông, mang hiệu Đông Pha cư sĩ, vì
vậy gọi ông là Tô Đông Pha.
Đến đời vua Tống Tiết Tông, Tô Đông Pha được triệu về
kinh làm Binh Bộ Thượng Thư (Quốc Phòng) kiêm Hàn Lâm học sĩ, được 3 năm, cũng
vì tính ngang của ông làm cho bọn quan thần ghen tỵ, sàm tấu nên ông bị giáng
chức làm tri huyện ở Hàng Châu, tỉnh Triết Giang. Tại đây, Tô Đông Pha có dịp
làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật.
Trong tác phẩm Cái Cười Của Thánh Nhân của Thu Giang đã
trích đăng từ “Thiền Truyện” ghi lại câu chuyện làm bài học cho đời.
“Tô Đông Pha, một thi hào Trung Hoa đời Tống có một người bạn
chí thân, sư Pháp Diễn.
Am của Pháp Diễn ở bên tả ngạn sông Dương tử, còn nhà của Tô
Đông Pha ở bên hữu ngạn.
Ngày kia Tô Đông Pha đến thăm bạn, nhưng bạn đi vắng.
Không có gì làm khi ngồi không, ông lấy giấy viết lên mấy câu: “Tô Đông Pha,
con nhà Phật vĩ đại mà cả thiên long bát bộ cũng không làm gì lay
chuyển được một gang tay”. Viết xong, bỏ đó ra về.
Khi Pháp Diễn về, đọc mấy hàng chữ trên đây, bèn lấy bút ghi
thêm: “Nói bậy! những gì anh viết trên đây, chỉ không bằng một cái rắm
của ta!” Rồi cho gửi tờ giấy ấy cho Tô Đông Pha.
Giận quá, Tô bèn xuống thuyền, vượt qua sông to, tìm đến
Pháp Diễn. Gặp mặt, Tô vừa chụp tay, vừa quát to:
- Anh là hạng người gì mà dám ăn nói với tôi như thế, tôi
không phải là một Phật tử trung thành với đạo pháp sao? Anh biết tôi lâu rồi
mà! Tại sao anh lại có thể mù quáng đến thế!
Pháp Diễn nhìn bạn, mỉm cười, bình tĩnh đáp:
- À! thì ra nhà đại thi hào Tô Đông Pha, người Phật tử vĩ
đại đã thách cả thiên long bát bộ không sao lay chuyển được một gang tay, vậy
mà chỉ bị có một tiếng rắm nhẹ kia đã phải từ bên kia đại trường giang bay tuốt
đến đây, sao lại có chuyện lạ nhỉ!”.
Giai thoại khác vẫn tương tự như trên nhưng có vẻ thâm thúy
hơn. Tô Đông Pha thân quen với Pháp Diễn đạo sư, còn gọi là đại sư Phật Ấn. Tô
cho mình là nhà Phật học uyên bác, thơ của mình siêu thoát chốn phàm trần. Một
hôm, Tô đến thăm đại sư, vắng chủ. Tô lấy giấy viết “Bát phong suy bất
động...” tự cho mình con người “vĩ đại”, cả thiên long bát bộ cũng
không làm gì lay chuyển được gang tay.
Khi đại sư về thấy lời thơ trịch thượng của Tô, bèn viết
ngay chữ “thí”, cho đồ đệ mang sang đưa cho Tô. Thấy chữ “thí” - nghĩa: tiếng
địt, đánh rắm - Tô giận quá, xuống thuyền, vượt sông sang “vấn tội” đại
sư. Nhìn nét mặt hằm hằm của Tô, đại sư mỉm cười, thản nhiên đáp:
- Nhà thơ vĩ đại, cả thiên long bát bộ không sao lay chuyển
được gang tay, chỉ có tiếng địt, đã vượt trường giang, bay sang đây, sao lại có
chuyện lạ nhỉ?. Rồi đọc tiếp câu thơ: Bát phong suy bất động -
Nhứt thí mã quá giang (Gió tám phương thổi tâm không động - Một
chữ rắm xì đã vội vã vượt sông).
Nhà thơ vô cùng kiêu ngạo, ngạo nghễ, chiếm hết hai bồ chữ
trong thiên hạ. Khi về miền sơn cước mới vỡ lẽ chưa biết tường tận đã sửa lưng
người khác và bị nhà sư sửa lưng một cú rất thấm thía.
Đơn cử trường hợp khác về nhà thơ tài hoa Tô Đông Pha với sự
trả đũa vô cùng thâm thúy của Vương An Thạch cũng đang nổi tiếng nhà thơ, nhà
văn, uyên bác, thông suốt kinh sử, đại quan của triều đình.
Một hôm, Tô Đông Pha vào yết quan Tể Tướng, nhân lúc Vương
An Thạch nghỉ trưa, ngồi đợi bên án thư, nhà thơ họ Tô thấy bản thảo tập thơ của
Vương nên cầm lấy xem. Khi đọc đến bài ngũ ngôn tứ tuyệt, có hai câu thơ:
“Minh nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm”.
Tô Đông Pha buồn cười cho rằng Vương An Thạch làm thơ lẩm cẩm,
trăng sáng mà “kêu” đầu núi, chó vàng mà “nằm” nhụy hoa! chẳng ra thể thống gì
cả. Tô bèn lấy bút chữa hai chữ “khiếu” thành “chiếu”, “tâm” thành “âm” - sửa
lưng nhà thơ Tể tướng chơi.
“Minh nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng khuyển ngọa hoa âm”.
(Trăng sáng chiếu đầu núi
Chó vàng núp bóng hoa).
Vương An Thạch nhận thấy Tô Đông Pha chưa hiểu rộng biết xa
mà ngang nhiên sửa lưng nhưng vẫn thản nhiên, đợi lúc nào đó cho chàng mở mắt
nhận thức.
Khi Tô Đông Pha mang tội làm thơ châm biếm triều đình, bị đại
quan Vương An Thạch đày ra Hàng Châu. Nơi miền sơn lâm nầy Tô Thức cư sĩ có dịp
ngao du mới biết có loài chim gọi là Minh Nguyệt và loài sâu gọi là Hoàng Khuyển.
“Chim Minh Nguyệt hót ở đầu núi
Sâu Hoàng Khuyển nằm giữa đóa hoa”
Vương An Thạch đã tả cảnh chốn núi rừng nầy chim Minh Nguyệt
kêu đầu núi, sâu Hoàng Khuyển nằm giữa nhụy hoa. Tuyệt.
Hình ảnh Tô Đông Pha, sau thời gian bị lưu đày đi xa, được học
học sàng khôn, tâm tính khoáng đạt. Sau khi Vương An Thạch qua đời, Tô Đông Pha
đã ngợi ca: “Vương An Thạch thuở nhỏ học Khổng Mạnh, cuối đời theo Mặc Địch,
Lão Đam, thu thập di văn lục nghe, lấy ý mình quyết đoán, trở thành một kỳ nhân
mới mẻ”.
Chuyện bên Tây, hai nhà tư tưởng nổi tiếng, Voltaire
(1694-1778) & Jean-Jacques Rousseau (1712-1778). Voltaire nổi tiếng trước,
lúc đầu J.J Rousseau ngưỡng mộ Voltaire nhưng sau đó hai ông có nhiều tranh cãi
tư tưởng và sau này ghét nhau. Tác phẩm Candide, viết theo lối châm biếm, nhạo
báng và phê bình các tổ chức và tầng lớp lớn lao trong xã hội thời đó…
“Jean-Jacques làm triết gia” Voltaire từng nói, “giống như
khỉ làm người”: hao hao nhưng không bao giờ bằng. Voltaire chửi rất đau.
Đúng vậy, một lý do khác giữa hai ông là Rousseau hai nghiêm
trọng, nhưng Voltaire là vua châm biếm. Vì châm biếm mà ông vào tù
Bastille một thời gian. Vì châm biếm mà ông phải bỏ Pháp qua nước khác
vài lần. Voltaire sáng tác rất nhiều tác phẩm: kịch; thơ; luận về xã hội, chính
trị, văn hóa; và nhất là quyển Từ Điển Triết Học (Dictionnaire Philosophique) dầy
cộm và quan trọng nhất thời đó. Nhưng tác phẩm phổ thông nhất của ông là
quyển tiểu thuyết mỏng có tựa đề tên nhân vật chính Candide. Tiểu thuyết
viết theo lối châm biếm, tức là hài hước loại phê bình nặng nề làm độc giả vừa
cười vừa khóc như không phải tếu lâm đơn thường.
Về quan điểm, với Voltaire tư tưởng tự do tiến bộ (liberal):
Con người phải chế ngự tự nhiên qua lý trí. Ca ngợi văn minh, khoa học, nghệ
thuật. Châm biếm thần quyền, hoài nghi Thượng Đế. Ủng hộ tự do cá nhân. Văn
minh làm con người tha hóa. Tin vào Thượng đế tự nhiên (Deism), đạo đức nội
tâm. Voltaire muốn cải cách ôn hòa hơn vì tin vào lý trí con người. Rousseau tư
tưởng cách mạng cấp tiến (radical), ca ngợi trực giác, bản năng và thiên tính
con người. Ông đặt con tim trên trí óc, tinh thần cách mạng, cải cách xã hội vì
xã hội lúc giờ tổn thương quá nặng bình đẳng và tự do con người.
Với quan niệm mỗi người mỗi ý nhưng “Hai hổ không thể nhốt
chung một chuồng” và Voltaire tự coi bản thân như bậc đàn anh mà Roussaeau đâu
phải vừa nên nên không chấp nhận lời phê bình của nhà tư tưởng “đàn anh”.
Voltaire chửi
“Jean-Jacques làm triết gia”… “giống như khỉ làm người”: hao hao nhưng không
bao giờ bằng.
Bức thư của
Rousseau gửi Voltaire ngày 18/8/1756: “Ông Voltaire giống như con chó già trong
chuồng: nó gặm xương một cách khôn ngoan, nhưng sủa vào mọi thứ nó không thể
ăn”.
Với hai nhân vật
tên tuổi mà khi xung khắc dùng lời lẽ thiếu tế nhị, thật đau lòng. Đến khi cả
hai đều nhắm mắt xuôi tay, cùng nằm gần nhau, mộ phần tại điện Panthéon là niềm
hãnh diện, ai là cao nhơn (?), tùy suy ngẫm của mỗi người.
Câu nói bất hủ của
Voltaie: “Những tư tưởng lớn thường gặp nhau” (Les beaux esprits se
rencontrent) những giữa ông và J.J. Rousseau thì nghịch nhau! Đời là thế “Nói một
đằng, làm một nẻo” nhan nhản trong cuộc sống, nhất là các “ông thần” làm chính
trị!
Chuyện nước ta,
vào thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn (1726-1784), học giả uyên bác, thuở còn trai trẻ nổi
danh thần đồng, thông minh lanh lẹ. Năm 18 tuổi, Lê Quý Đôn thi Hương đỗ Giải
nguyên, 27 tuổi đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng Nhãn vào bậc lỗi lạc,
văn hay chữ tốt, kiến thức đầy mình khó ai sánh kịp.
Với tuổi trẻ mang
mặc cảm tự tôn nên kiêu ngạo, tự cao tự đại, cho treo tấm biển “Thiên hạ
nghĩ nhất tự lai vấn” (Thiên hạ có chữ gì không biết, cứ lại mà hỏi), giống
như lời Tô Đông Pha. Thế rồi một hôm vị Sa Di nhà chùa ghé ngang, gặp ông đố giải
chữ “nhất” ông bị lúng túng và khi thân phụ ông qua đời, vị túc nho
tới phúng điếu, nhờ ông viết hộ, nhà nho chẩm rải đọc chữ “chi, chi,
chi”, ông không biết viết chữ “chi” nào... Ông cứ chần
chừ không hạ bút chữ chi nào. Ông nhìn lên thấy vị Sa Di vẫn thản nhiên đợi ông
hạ bút! Phải chăng cái thâm của nhà nho làm cho ông sực tỉnh và gỡ tấm biển
đi?. Nhắc lại câu chuyện của bậc tiền nhân lúc trẻ không có dụng ý bôi bác mà
làm bài học tuổi trẻ cao ngạo cho hậu thế. Giai thoại nói vậy nhưng cũng oan
cho ông bởi khi đọc “chi, chi, chi” không lẽ viết ra một số chữ
chi.
Theo Tự Điển Việt
Hán Nôm, chữ chi đơn giản nhất có 2 nét (làm chi, hèn chi), với các bộ thì ý
nghĩa khác nhau: bộ chỉ là chi ly, bộ tiết, bộ kỷ chi là bình rươu ngày xưa, bộ
khẩu chỉ tiếng cửa kẹt mở, bộ khẩu là tiếng chim non kêu, bộ chi là chi ly, bộ
mộc là nhánh cây, bộ nhục là tứ chi,bộ điểu, bộ thảo, bộ thủ…
Theo Tự Điển Thiều
Chửu thì chữ chi có nhiều cách viết nào là trưởng chi, con thứ. Tránh, nhánh:
(dòng tránh). Nếu có một dòng mà chia thành nhiều dòng ngang thì được gọi là
chi cả. Giữ, cầm, cố sức ứng phó: (chi trì). Tính: (tính toán). Chia rẽ: (chi
li, vụn vặt). Địa chi: chỉ 12 chi (Tí, Sửu, Dần, mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất, Hợi). Chân tay (tứ chi). Cành, nhánh)… Tôi dốt chữ Hán, Nôm nên
không lạm bàn và không muốc lạc nội dung.
Thành ngữ ta có
câu “Đi một đàng học một sàng khôn” vì vậy sau cụ Lê Quý Đôn
làm quan, các đợt đi công cán ở các vùng Sơn Nam, Tuyên Quang, Lạng Sơn những
năm 1772, 1774, làm nhiệm vụ điều tra nỗi khổ của người dân cùng tệ tham nhũng,
ăn hối lộ của quan lại, khám đạc ruộng đất các vùng ven biển bị địa chủ, cường
hào địa phương man khai, trốn thuế…
Chính nhờ quãng
thời gian đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời như vậy nên cụ
viết trong lời tựa sách Kiến Văn Tiểu Lục: “Tôi vốn là người nông cạn, lúc còn
bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ,
vâng theo lời dạy của cha, lại được giao du nhiều với các bậc hiền sĩ đại phu.
Thêm vào đấy phụng mệnh làm việc công, bốn phương rong ruổi: mặt bắc sang sứ
Trung Hoa, mặt tây bình định Trấn Ninh, mặt nam trấn thủ Thuận Quảng (Thuận
Hóa, Quảng Nam). Đi tới đâu cũng để ý tìm tòi, làm việc gì mắt thấy tai nghe đều
dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình luận sơ qua, giao cho tiểu đồng đựng
vào túi sách”.
Cụ Lê Quý Đôn
đúng là bậc thức giả chân chính, tấm gương sáng cho hậu thế, từ tuổi trẻ kiêu
ngạo đến khi tiếp xúc với các bậc hiền sĩ đại phu đã tự cho tuổi trẻ là “người
nông cạn”. Tuổi trẻ cao ngạo nên bị sửa lưng, khi về già đã “học được sàng
khôn” nên tự bộc bạch sửa lưng bản thân, đúng là bậc thức giả chân chính. Tuổi
trẻ cao ngạo nên bị sửa lưng, khi về già đã “học được sàng khôn” nên tự bộc bạch
sửa lưng bản thân, đúng là bậc tri thức đáng kính.
Vài tác phẩm của
cụ Lê Quý Đôn đã lưu lại hậu thế rất giá trị như: Vân Đài Loại Ngữ, Đại Việt
Thông Sử và Kiến Văn Tiểu Lục, tập bút ký nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ
đời Trần đến đời Lê…
Ngôi trường trung
học cổ nhất Sài Gòn là Collège Indigène thành lập năm 1874, sau đó được đổi
thành Collège Chasseloup Laubat, theo tên Bộ Trưởng Hải Quân Pháp. Sau năm 1954
trường được đổi tên là Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường trở thành trung
tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Ở Nha Trang cũng có trường trung học Lê Quý Đôn nằm
trên đường cùng mang tên.
Nhân sinh, không
biết mà thưa thốt thì hằng hà sa số. Thời nào, ở đâu cũng vậy. Có vậy mới vui,
mới bát nháo, có chuyện để bù khú với nhau. Thiếu nó, chán bỏ bu. Ngậm miệng
như mấy tên nghị gật, như đại biểu nhân dân nhà nước chỉ biết “nhất trí” để bị
giống nòi khinh khi, phỉ nhổ.
Nói đến cái ngông
là nói đến cái vô tận của người cầm bút từ xưa đến nay đã để lại không biết bao
giai thoại, hình ảnh được lưu truyền. Chọn cuộc sống bằng cái nhìn khuynh
khoát, thái độ khinh bạc thế nhân và tự nó cũng rước lấy lắm điều chua cay!. Một
trong những khuôn mặt tiêu biểu trong văn học Việt Nam cho cái ngông được ghi lại:
nhà thơ Cao Bá Quát.
Cao Bá Quát
(1808-1855) hiệu Chu Thần, cùng anh là Cao Bá Đạt, khoa thi Tân Mão 1831 (Thiệu
Trị thứ 12) trong kỳ thi hương, ông đổ Thủ khoa, còn anh là Cao Bá Đạt đậu Á
khoa.
Tuy nhiên, ông lại
trượt cả 2 kỳ thi Hội vì không chịu theo khuôn phép trường thi; từ đó ông có
thái độ bất mãn, ngao du đó đây, bầu bạn với thơ túi rượu bầu, lấy văn chương
làm thú vui tiêu khiển. Ông là người văn hay chữ tốt, có thái độ ngạo mạn. Khi
nhà vua ra câu đối “Nhất bào song sinh...”, ông đáp lại “Thiên tải
nhất ngộ...” đủ thấy cái “lối” của Chu Thần. Ông được vua Tự Đức ngợi
ca “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”. Được thể, ông càng ngạo nghễ,
khi dễ cả vua vì vậy sau nầy ông tự chuốc lấy bao điều bất hạnh cho mình.
Trong cái ngông
nghênh, kiêu ngạo, cho mình quán thông nên đã “show off” câu nói để đời: “Trong
thiên hạ có bốn bồ chữ, ông chiếm hai bồ, anh ông chiếm một bồ, còn một bồ phân
phối cho thiên hạ”.
Thật ra, câu nói ấy,
Cao Chu Thần đã bắt chước cái ngạo mạn của Tô Đông Pha đời Tống ở Trung
Hoa.
Theo Đại Nam Thực
Lục, tháng 8/1841, Cao Bá Quát được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy
một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với đồng sự là Phan Thời
Nhạ lấy son hòa với muội đèn chữa lại 24 bài. Khi sự việc bại lộ, Cao Bá Quát
nhận tất cả lỗi về mình. Sau khi án được dâng lên vua Thiệu Trị, tất cả các
thành viên đều bị xử tội với những mức phạt khác nhau. Cao Bá Quát và Phan Thời
Nhạ bị tội tử hình. Vua Thiệu Trị thấu hiểu nỗi lòng của cao Bá Quát nên ra lệnh
tha tội chết cho ông với lời phán rằng “Chọn người tài giỏi là một điển lễ long
trọng, bọn Quát dám làm trái phép như thế, khép vào tội nặng cũng đáng. Song ta
nghĩ do sự khờ dại mà làm ra, chứ không có tình tiết gì khác, còn có thể khoan
tha cho tội xử tử…". Nhờ đó, ông bị tống ngục.
Sau gần 3 năm bị
giam, vì có công trạng nên được vào Viện Hàn Lâm để lo việc sưu tầm và xếp đặt
văn thư. Bởi khí phách không được lòng một số quan lớn trong Triều, năm 1850,
Cao Bá Quát bị đày đi làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ). Đến cuối năm
1850, đời vua Tự Đức, ông lấy cớ về quê chịu tang cha, sau đó xin ở lại nuôi mẹ
già để thôi chức.
Cuộc khởi nghĩa
Cao Bá Quát (1854-1856) ở Hà Tây bị thất bại, khi lên pháp trường ông ứng
khẩu hai câu:
“Ba hồi trống
dục đù cha kiếp
Một nhát gươm
đưa đéo mẹ đời”
Tuổi trẻ Cao Bá
Quát cao ngạo nhưng sau nầy ông trở thành con người cương trực, dám làm dám chịu
và coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Trong cuộc chiến
xảy ra giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn với hai nhân vật qua hai câu đối đã
lưu lại hậu thế trải hơn hai thế kỷ. Tôi đã viết khá lâu, nay nhắc lại.
Ngô Thì Nhậm, Ngô
Thời Nhiệm (1746-1803) là danh sĩ nổi tiếng ở Bắc hà vốn là quan dưới thời vua
Lê - chúa Trịnh. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc cầu hiền, ông cùng nhiều quan lại
cũ phục vụ cho Tây Sơn, được thăng đến Thượng Thư Bộ Lại. Trong thời gian này,
có nho sĩ là Đặng Trần Thường (1759-1816) đến gặp mặt xin làm quan. Tuy nhiên
nhìn điệu bộ khúm núm, Ngô Thì Nhậm coi thường mà nói rằng:
- Ở đây cần dùng
người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi
thì đi nơi khác.
Đặng Trần Thường
hổ thẹn nên bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh bại quân Tây
Sơn, lên ngôi vua Gia Long. Đặng Trần Thường gặp lại Ngô Thì Nhậm đang bị chịu
tội tại Văn Miếu, bèn ra câu đối:
- Ai công hầu, ai
khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Ngô Thì Nhậm khẳng
khái đáp:
- Thế Chiến Quốc,
thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
“Ai tai Đặng
Trần Thường
Chân như yến xử
đường
Vị Ương cung cố
sự
Diệc nhĩ thị
thu trường”.
(Thương thay Đặng
Trần Thường, quyền thế lắm đấy nhưng như chim yến làm tổ trong nhà sắp cháy rồi
tai ương sẽ đến. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang rồi bị Cao Tổ giết ở
Vị Ương. Kết cục của ngươi cũng thế).
Quả nhiên sau này
bài thơ ứng nghiệm, Đặng Trần Thường bị vua Gia Long xử tử. Cả hai nhân vật có
tài lỗi lạc với cái chết bi thảm nhưng hình ảnh sĩ phu Ngô Thì Nhiệm lưu lại
trang sử còn Đặng Trần Thường vì trả thù thành kẻ tiểu nhân. Và hai câu đối đó
cho thấy lúc cụ Ngô Thì Nhậm sắp chết đã ứng xử cao tay hơn kẻ thù.
Vào hậu bán thế kỷ
XIX, Phan Văn Trị (1830-1910) & Tôn Thọ Tường (1825-1877), lúc đầu cả hai ở
trong nhóm Bạch Mai Thi Xã nhưng sau đó vì thời cuộc trở thành chiến tuyến đã
bút chiến qua thơ trong giai đoạn thăng trầm của lịch sử.
Cụ Phan Văn Trị
là nhà thơ, chí sĩ yêu nước, tiêu biểu sĩ khí của người dân Nam Bộ như các cụ
Nguyễn Hữu Huân, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt. Năm Kỷ Dậu
(1849) thi Hương tại trường thi Gia Định và đỗ cử nhân. Tuy đỗ đạt cao nhưng cụ
không ra làm quan, mà về mở trường dạy học. Trong thời kỳ Pháp thuộc cụ Nguyễn
Đình Chiểu và cụ bất mãn với triều đình Huế, dùng ngòi bút chiến đấu chống thực
dân Pháp.
Trong khi đó Tôn
Thọ Tường lại đi ngược lại quan điểm nên hợp tác và xảy ra cuộc bút chiến với
nhau qua mười bài Tự Thuật.
Tôn Thọ Tường với
bài Từ Thứ Quy Tào theo tích Từ Thứ bỏ Lưu Bị về hàng Tào Tháo. Mượn chuyện Từ
Thứ, Tôn Thọ Tường muốn thanh minh rằng mình theo Pháp chẳng qua cũng chỉ là
chuyện chẳng đặng đừng chớ cái tình đối với bè bạn cũ, cái nghĩa đối với sơn hà
xã tắc. Tôn Thọ Tường cho rằng, mất nước là định mệnh của dân tộc, có hy sinh
bao nhiêu xương máu cũng chỉ uổng công vô ích nên ca ngợi sức mạnh quân sự của
Pháp.
Cụ Phan Văn Trị
cho rằng cuộc chiến đấu của dân tộc không phải vô vọng như chuyện như chuyện lấy
thước đo trời hay bắc cầu qua biển, tuy những tổn thất của phong trào yêu nước,
song sự tổn thất ấy cũng như chim hồng không may rụng mất mấy cái lông,
mà “Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ” và kết luận:
“Đứa dại trót
già đời cũng dại,
Lựa là tuổi mới
một đôi mươi”.
Hai cụ dùng thơ với
tích xưa bên Tàu để đối đáp nhau nhưng cho tháy thế thượng phong của cụ Phan
Văn Trị. Những bài thơ yêu nước và sĩ khí của cụ Phan Văn Trị được giảng dạy
trong chương trình và sách giáo khoa môn Quốc văn (Việt văn) bậc trung học ở miền
Nam Việt Nam trước 1975.
Năm 1871, Tôn Thọ
Tường được thăng Đốc Phủ Sứ. Năm 1877, trong lần theo viên lãnh sự Pháp đi quan
sát miền thượng du Bắc Kỳ, mắc bệnh sốt rét ác tính rồi mất.
Thời Việt Nam Cộng
Hòa có tên đường hai cụ nhưng (hình như) chỉ có tên trường trung học Phan Văn
Trị.
“Ôn cố tri
tân”, xin nhắc lại
chuyện xưa đã đi vào văn học. Cứ gọi nôm na chuyện sửa lưng cho tiện sổ sách.
Cái thâm của nhà
nho ngày xưa trị nhau khi bị sửa lưng. Nó nhẹ nhàng, từ tốn, lịch sự, không ồn
ào với đao to búa lớn, không hùng hổ với ngôn ngữ hàng tôm hàng cá, cái hay của
nó ở chỗ thâm thúy và sự cảm hóa.
Người xưa thường
nói “Cao nhơn tắc hữu, cao nhơn trị”. Dù có tài ba lỗi lạc đến đâu
mà huênh hoang tự đắc có ngày cũng bị tổ trác... Khiêm nhường là đức tính cao đẹp
nhất trong việc xử thế, trong đạo làm người.
Thuở còn đi học,
thầy giáo đã dạy cho sự khiêm nhường, nhắc lại câu nói của Rivarol làm bài học
để nhớ: “Có điều gì cao hơn kiêu căng và sang hơn háo danh, đó là sự
khiêm nhường” nhưng biết khiêm nhường để tự đề cao khó hơn khiêm nhường
để bị hiểu lầm khờ khạo?.
Nói chuyện sửa
lưng, không ai bằng ta với ta!. Càng hiểu rộng, càng có ý tứ thâm trầm và tế nhị,
vấn đề sửa lưng càng độc đáo. Trong cuộc sống của chúng ta, có lẽ nhiều lần vấp
phải bị sửa lưng, cũng là chuyện bình thường. Tốt, xấu tùy theo tinh thần xây dựng
hay đố kỵ ganh ghét. Hình như quý cụ ông, tính thẳng như ruột ngựa nên bị quý cụ
bà, thâm thúy, tế nhị sửa lưng? Sửa gì thì sửa nhưng lưng không còng (khom
lưng) là quý rồi. Quý vị nghĩ sao?.
Little Saigon, July 2025