Nếu buộc phải chọn hai gương mặt tiểu biểu nhất cho
thơ văn chiến tranh của nền Văn học miền Nam, thì có lẽ, tôi nghĩ ngay
đến nhà thơ Tô Thùy Yên và nhà văn Phan Nhật Nam. Tuy khác nhau về
hoàn cảnh, xuất thân, song hai bác này có những nét khá tương đồng,
kể từ khi mặc áo lính, cho đến những năm tháng tù đày (dài lê thê)
sau chiến tranh.
Nhìn lại văn học sử Việt Nam có ba người lính cầm bút tài năng: Cao Xuân Huy, Nguyễn Bắc Sơn, và Phan Nhật Nam đều có người cha ở bên kia của chiến tuyến. Tuy nhiên, cũng như Cao Xuân Huy, nhà văn Phan Nhật Nam đã phân định trách nhiệm rạch ròi của người lính, không hề có sự mâu thuẫn nội tâm, do dự trên đầu súng và cây viết như Nguyễn Bắc Sơn. Có thể nói, nếu không có cuộc chiến này, thì chưa chắc chúng ta đã có một Phan Nhật Nam nhà văn của ngày hôm nay. Thật vậy, chính chiến trường đạn bom, khói lửa, chết chóc và tù đày đã đưa ông đến với những trang văn. Và chỉ có đối diện với những trang giấy, Phan Nhật Nam mới giải tỏa được tâm lý cũng như cứu rỗi linh hồn người lính trận. Món nợ với đồng đội với đất nước, cùng cái trớ trêu của cuộc chiến này, ngay từ những ngày đầu cầm bút cho đến nay luôn ám ảnh và xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Phan Nhật Nam. Do vậy, nếu đọc một cách có hệ thống, ta có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật trong văn thơ, cũng như con người Phan Nhật Nam: Chiến tranh đưa đến tan vỡ tâm hồn, và lẽ sống của người lính. Sự tàn khốc của cuộc chiến ấy dưới ngòi bút sắc sảo của Phan Nhật Nam hiện lên một cách trung thực, sinh động. Và không chỉ trên chiến trường, mà trong tăm tối ngục tù cũng vậy, ta luôn thấy sự giải thoát. Thật vậy, lời dự báo, hay sự phản kháng là con đường giải thoát của ông đôi khi có tính tiêu cực, nhưng nó bật lên cái chí khí, tính nhân đạo cao cả. Chính bởi những đặc điểm này, đã làm nên tên tuổi nhà văn thật vạm vỡ Phan Nhật Nam.
Phan Nhật Nam sinh năm 1943, tại Thừa Thiên - Huế. Sau
khi đậu tú tài, ông vào lính và tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt năm
1963. Với mười bốn năm khoác áo lính, và 14 năm tù cải tạo sau 1975.
Hiện ông sống và viết văn tại California - Hoa kỳ.
Tuy gian nan với khói lửa binh đao như vậy, nhưng có
thể nói, Phan Nhật Nam viết đều, và khỏe, tập truyện nào của ông
cũng hừng hực mang không khí, hơi thở của thời cuộc. Dấu Binh Lửa, Dọc
Đường Số 1, Ải Trần Gian, Dựa Lưng Nỗi Chết, Mùa Hè Đỏ Lửa, Tù Binh và Hoà Bình
được viết trước 1975 là những tác phẩm toàn bích, được nhiều người
đọc, và yêu mến nhất. Với tôi, ở thể ký sự chiến trường này, không
chỉ ở thời điểm đó, mà cả đến ngày nay, có lẽ chưa có tác giả,
tác phẩm nào (kể cả hai phía) vượt qua được Phan Nhật Nam. Sau 1975
dù trong hoàn cảnh tù đày, hay khi đã định cư ở nước ngoài, bút lực
của ông còn dồi dào và mãnh liệt lắm. Vẫn dòng chảy của mạch bút
ký hàng loạt các tác phẩm mới được ra đời có tính chiêm nghiệm sâu
sắc: Chuyện Cần Được Kể Lại, Đường Trường Xa Xăm, Đêm Tận Thất Thanh, Những
Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương, Mùa Đông Giữ Lửa, Chuyện Dọc Đường, Phận Người Vận
Nước...
Thế nhưng, có một điều làm cho người quan tâm, nghiên
cứu đến văn học nước nhà luôn phải trăn trở. Bởi, thời gian này,
những tác phẩm trước đây của Phan Nhật Nam đã bị khai tử, và những
tác phẩm mới này của ông cũng bị cấm (tiệt) ở trong nước. Người
đọc ở nước ngoài rất ít, dẫn đến nhiều hạn chế và thiệt thòi cho
độc giả, cũng như cho nền Văn học Việt Nam. Tuy vậy, nếu phải đưa ra
một tác phẩm tiêu biểu nhất của Phan Nhật Nam, thì với tôi chắc chắn
là bút ký: Dấu binh lửa. Một tác phẩm đầu tay, được in ấn và
phát hành năm 1969. Có thể nói, ngoài tính chân thực, giá trị nghệ
thuật, và nhân đạo, Dấu binh lửa (còn) như một liều thuốc làm
thức tỉnh người đọc đang gà gật trước cuộc chiến tang thương nhất
của dân tộc.
Nói bút ký, hồi ký là thể loại văn học mang tính
chân thực. Song nếu không có sự sáng tạo mang tính nghệ thuật cao,
với sự quan sát tỉ mỉ, cùng tài năng miêu tả cảnh vật, tâm lý nhân
vật, sự kiện được thông qua lăng kính, tư tưởng của tác giả, thì tác
phẩm đó sẽ khô và rời như cơm nguội vậy. Điều này đã được minh
chứng qua những tác phẩm tuyên truyền nhạt phèo: Bất Khuất về
Nguyễn Đức Thuận của Trần Đĩnh trước đây, và Hồi ký của Võ
Nguyên Giáp do Hữu Mai chấp bút gần đây. Tuy nhiên, đọc tùy bút,
hồi ký của Phan Nhật Nam, ta thấy khác hoàn toàn. Bởi, người đọc
không chỉ thấy tài năng, sự sáng tạo, mà dường như thể loại văn học
này đã được ông nâng lên một nấc cao mới về cả giá trị nội dung lẫn
hình thức nghệ thuật.
Chiến tranh-sự đổ vỡ tâm hồn, và lẽ sống
Cùng lớn lên vào giai đoạn (đầu) khốc liệt của cuộc
chiến, không như nhà văn Trần Hoài Thư cầm súng mặc áo lính là nghĩa
vụ bắt buộc, với Phan Nhật Nam đó là sự tự nguyện, trách nhiệm của
tuổi trẻ. Sự vô tư trong sáng đã mở cho người lính Phan Nhật Nam
những ước mơ với chân lý, hiện thực. Tôi không dám nghĩ đây là lý
tưởng, song chắc chắn đó là tâm lý chung, không chỉ riêng của Phan
Nhật Nam ở cái buổi đầu đời ấy: "Tôi đi lính năm mười tám tuổi...
tôi tự động hăng hái, hãnh diện để trở thành một sinh viên sĩ quan với ý nghĩ
đã chọn đúng cho mình hướng đi, một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Tôi có những
rung động thật thành thực khi đi trong rừng thông, hương nhựa thông toả đặc cả
một vùng đồi, sung sướng vì thấy đã đưa tuổi trẻ vào trong một thế giới có đủ
mơ mộng và cứng rắn, một thế giới pha trộn những ước mơ lãng mạn hào hùng" (Dấu
binh lửa). Tuy nhiên, những ước mơ lãng mạng và hào hùng ấy của
người sĩ quan trẻ Phan Nhật Nam đã bị dập tắt ngay từ những trận
chiến đầu. Chiến tranh không những giết chết thể xác, mà còn giết
chết nhân phẩm, lòng tin của con người. Với thi pháp tự sự, nỗi thất
vọng ấy đã được Phan Nhật Nam trải lên trang sách. Đọc lên ai cũng
phải chạnh lòng, chua xót. Truyện Người chết dưới chân Chúa (Dấu
binh lửa) có những đoạn văn miêu tả cảm động, diễn biến tâm lý
sâu sắc, và thấm đẫm tình người như vậy của ông. Và cái tính chân
thực, hồn nhiên của người lính, khi đọc Dấu binh lửa cứ làm
cho tôi vẩn vơ suy nghĩ đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh và tác phẩm Vô đề của Dương Thu Hương. Có lẽ, khi
viết những tác phẩm này, Bảo Ninh cũng như Dương Thu Hương chưa được
đọc Dấu binh lửa. Nếu đã đọc, tôi nghĩ hành động của những
người lính thám kích đối với các nữ bộ đội có lẽ, sẽ khác đi
nhiều lắm trên những trang văn của họ. Dù là tiểu thuyết, một thể
loại được phép hư cấu. Và đoạn trích dưới đây gợi lên nỗi buồn thất
vọng (ban đầu) của nhà văn, nhưng phần nào nó cũng làm sáng tỏ thêm
nhân cách, và sự cảm thông của người lính:
“... Chị không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt
Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm!
Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có
thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này. Tôi đi lính chỉ với
một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt.
Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này. Tôi muốn đưa tay lên
gài những chiếc nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị, nhưng chân tay
cứng ngắc, hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp. Cảnh sống nào
đã đưa chị vào cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt những ngón tay cởi tung hàng nút
áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước
mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu tràn kinh hãi.” (Dấu Binh Lửa)
Không chỉ giật mình, trước cái chết phơi thây giữa
đồng của những du kích quân tuổi mới mười bốn, mười lăm, mà người
lính trẻ Phan Nhật Nam còn đau xót, thẫn thờ và thất vọng trước cái
chết quá bi thảm cô gái trẻ vô tội. Những cái chết này như ngọn roi
quất vào hồn nhà văn, người lính vậy. Đi sâu vào đọc ta có thể
thấy, Phan Nhật Nam là một trong những nhà văn có tài miêu tả, mượn
cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ tư tưởng, giãi bày cảm xúc của mình.
Ta hãy đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ tâm trạng của nhà văn
trước cái chết bi thảm của đồng loại, cũng như tài năng sử dụng
hình ảnh so sánh ẩn dụ của Phan Nhật Nam:
"Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà ở của
những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô gái còn phơi phới bay trong
gió... Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng rọi lên rực
rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn. Tôi loay hoay
đốt một điếu thuốc. Cái chết qủa bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết
khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang nơi trí não tôi như một tiếng kêu thê
thảm không dứt âm" (Dấu binh lửa)
Bom đạn, khói lửa chiến trường chưa phải là điều
đáng sợ, và nó không thể giết chết niềm tin, và lẽ sống của người
lính trận. Nhưng chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương kia mới
giết chết linh hồn, và khát vọng của họ. Thật ra, vào thời điểm
đó, không phải riêng Phan Nhật Nam đã nhận ra điều này, mà trên những
trang văn của mình, Trần Hoài Thư cũng chọc thẳng vào cái khối ung
nhọt này. Khi ông đã nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ
cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và hơn thế
nữa, gần đây nhất bút ký Sau Cơn Binh Lửa của Trung tá, nhà văn
Song Vũ cũng chỉ ra, những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay
những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của
chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Thật vậy, đây cũng là một trong những
nguyên nhân chính làm sụp đổ tâm hồn, phá vỡ niềm tin dẫn đến sự
chán chường cho người lính Phan Nhật Nam:
"Chúng tôi rời Sài Gòn trong thở dài nhẹ nhõm, một
tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong lòng, đủ thấy rõ sự phản
bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính.
Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những
anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy
thù hận và dục vọng... Một tháng "vỡ mặt" lính non cũng như lính già.
Chúng tôi bây giờ biết rõ: Máu và đời sống của mình đã đổ ra cho một xã hội lừa
lọc." (Dấu binh lửa)
Tôi không dám nói, sự đổ vỡ tâm hồn, lẽ sống của
nhà văn Phan Nhật Nam là tâm trạng chung của những người lính trẻ lúc
đó. Tuy nhiên, chiến tranh đã biến sự trong sáng, nhiệt huyết của một
bộ phận giới trẻ trở nên hoài nghi và chán nản. Dù miền Nam khá
cởi mở về suy nghĩ, và tư tưởng, nhưng trong lúc nước sôi lửa bỏng
đó, viết thẳng tưng ra những điều này, quả thực phải nói đến dũng
khí của nhà văn Phan Nhật Nam vậy.
Sự tàn khốc của chiến tranh, với nỗi ám ảnh
của con người
Nếu ta đã đọc truyện ngắn, bút ký chiến trường của
Trần Hoài Thư, hay Số Phận Con Người của nhà văn Nga Mikhail
Sholokhov, thì có lẽ giảm đi được nỗi ám ảnh, khi đọc bút ký, văn
xuôi của Phan Nhật Nam. Bởi, sự chết chóc về thể xác, và linh hồn
ấy qua bút pháp hiện thực, với những hình ảnh so sánh sinh động,
sắc như lưỡi dao cứa vào lòng người đọc vậy. Phải nói, Phan Nhật Nam
có cái nhìn, quan sát rất sâu sắc và tỉ mỉ, khi miêu tả, hay trần
thuật. Và Những Ngày Gãy Vụn là một trong những bút ký như
vậy của ông. Đây là những trang văn rùng rợn nhất mà tôi đã được
đọc. Đoạn trích dưới đây một lần nữa chứng minh nghệ thuật, tài năng
lồng tâm trạng của mình vào cảnh vật, thiên nhiên của Phan Nhật Nam.
Và thi pháp, thủ thuật này đã xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của
ông:
"Thoạt đầu còn e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp
thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở
vào rừng, tôi không dám nhìn vào hai bàn tay của mình, thịt da người chết đã phết
một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đã nhặt được hết, tôi chà tay
xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa
bàn tay lên môi... trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến
nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than
khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất,
hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng
váng..."
Nếu ta thấy cái tĩnh khi đọc truyện ngắn, bút ký
của Phạm Tín Anh Ninh, thì ta sẽ tìm được cái động trong bút ký của
Phan Nhật Nam. Thật vậy, với lối hành văn phóng khoáng, dứt khoát
nhưng truyền cảm, cùng khẩu ngữ trong sáng đơn giản, đọc lên tưởng
chừng như có lửa vậy. Nó không chỉ sáng rực lên trên trang sách Phan
Nhật Nam, mà còn cháy trong lòng người đọc. Cho nên, đã cầm sách của
ông lên, thì thật khó mà bỏ xuống, khi chưa đọc đến trang cuối cùng.
Và đến với Mùa hè đỏ lửa thì chiến tranh, nỗi đau, sự tàn
nhẫn đã đến tận cùng, vượt qua sức tưởng tượng của con người. Vẫn
với thủ pháp hình ảnh so sánh, Phan Nhật Nam cho ta thấy rõ, chiến
trận với những cái chết, xác người ở Quảng trị dài dằng dặc, rùng
rợn, tàn nhẫn gấp bội so với lò sát sinh, giết người tập thể của
phát xít ở Auschwitz. Thật vậy, đọc mùa hè đỏ lửa, tôi không rõ đây
là nỗi kinh hãi hay bản cáo trạng của Phan Nhật Nam:
"Làm được gì bây giờ? Bịt mũi, che mồm, nhưng tất cả
vô ích, hơi chết đọng trên da, chui vào mũi, bám trên áo, hơi chết hít vào phổi
trôi theo máu. Tôi đang đứng trong lòng của sự chết. Tránh làm sao được, ai có
thể ra khỏi khối không khí của nơi sống? Những cảnh chết tập thể của người Do
Thái ở các trại tập trung gây nên niềm bàng hoàng xúc động vì người chứng kiến
thấy được “xác người,” xác chồng chồng lớp lớp có thứ tự, gọn ghẽ nguyên vẹn...
9 cây số đường chết của Quảng Trị không còn được quyền dùng danh từ “xác chết”
nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe, chết vỡ bùng..." (Mùa
hè đỏ lửa).
Đọc Những Ngày Gãy Vụn được Phan Nhật Nam
được viết sau thất bại đau đớn ở Đồng Xoài (1965), buộc tôi phải liên
tưởng đến truyện ký Thế Hệ Chiến Tranh của Trần Hoài Thư. Ở
cùng thời điểm, với hai mặt trận khác nhau, nhưng những người lính
ấy có cùng chung một số phận. Bởi, họ phải thi hành mệnh lệnh của
những người lãnh đạo quan liêu, và dốt nát. Cũng như Thế Hệ Chiến
Tranh, đọc Những Ngày Gãy Vụn ngoài tính bi hài, ta còn
thấy được tính cái tính quân kỷ của người lính giữa sự sống và
cái chết, dù trong lòng tràn đầy mâu thuẫn, uất hận. Ta hãy đọc lại
đoạn trích với ngôn ngữ, lời thoại mang đậm chất điện ảnh dưới đây
để thấy rõ điều đó. Và đây cũng là một trong những đặc điểm tạo
nên những câu văn sinh động trong văn xuôi Phan Nhật Nam:
"Riêng chúng tôi ở đầu hàng quân đều nhận thấy rõ rằng:
Địch đang dụ chúng tôi vào bẫy. Nhưng nhà binh là tuân lệnh, nguyên lý cứng nhắc
đó không đủ để dẹp hết e ngại.
- Báo cáo không thể tiến thêm được nữa, địch quá đông,
xin pháo binh. Tôi gọi về đại đội nói như hét.
- Không bắn pháo binh được, khu đồn điền có dân và có nhà
thờ.
- Dân con mẹ gì! Tôi la muốn vỡ phổi để phản đối: Không
phải dân đâu, toàn là Việt cộng thôi...
- Bộ chỉ huy hành quân quyết định không cho bắn, anh về
đó mà kiện..."
Và may mắn người lính ấy còn sống sót trở về, và
nỗi ám ảnh, hoảng loạn chìm trong những cơn say. Và rượu là liều
thuốc an thần tốt nhất cho người lính trận. Chập chờn ký ức hiện
về, cùng những tình tiết hiện thực đan xen, buộc người lính Phan
Nhật Nam phải độc thoại nội tâm, tự thú trên trang giấy trước mặt.
Sự ám ảnh đó tạo nên những hình ảnh so sánh có tính kịch trường
sân khấu, làm cho người đọc phải chờn chờn, rợn rợn.
Với nghệ thuật độc thoại nội tâm mang tính tự thú
này, đã được Bảo Ninh làm xương sống dựng nên tiểu thuyết Nỗi
Buồn Chiến Tranh của mình. Thật vậy, sự ám ảnh, la hét đập phá
của người lính Phan Nhật Nam trong Dấu binh lửa, mấy chục năm
sau ta bắt gặp lại hình ảnh đó từ Kiên (Bảo Ninh) trong Nỗi Buồn
Chiến Tranh. Có lẽ, cũng như khoa học tự nhiên, bằng cách này hay
cách khác có sự kế thừa của văn học ở đây chăng (?):
"Đưa quan tài của Dũng lên máy bay, chào trước mộ của
Kỳ và Đỗ lần cuối, sau một tuần lăn lộn với người chết, người tôi tan đi trong
một cơn mê nồng nặc đầy hơi chết và lòng tràn giông bão. Những xác chết ám ảnh
tôi đến kỳ quái, ngay trong giấc ngủ, sự yên lành cũng không có, tôi la hét,
khóc lóc đập phá trong cơn mê. Và nỗi tỉnh thì không còn nữa, rượu uống vào
hoài hoài, chưa bao giờ thấy rượu ngon và cần thiết đến thế - Một khỏang đời đã
đổi tôi thành kẻ lạ rồi... Một tên hung bạo, trí não căm hờn và thù hận. Tôi chết
một phần người trong tôi." (Dấu binh lửa)
Có thể nói, cuộc chiến tàn khốc vừa qua sản sinh ra
nhiều nhà văn tài năng, ở cả hai phía. Số phận, cây viết của họ gắn
liền với những tang thương, và vận mệnh của đất nước. Bỏ qua định
kiến tư tưởng, chính trị, ta có thể thấy những người lính phía Bắc
viết ký sự chiến trường tài năng như: Chu Cẩm Phong, hay Dương Thị Xuân
Qúy..., nhưng rất tiếc, họ đã tử trận khi còn quá trẻ. Những người
lính phương Nam: Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… may mắn còn sống sót.
Tù đày và nỗi ám ảnh sẽ đi đến hết cuộc đời họ. Tuy nhiên, các
tác phẩm xương máu của họ vẫn còn đó trong lòng người. Âu cũng còn
một chút may mắn cho nền Văn học Việt vậy.
Ngục tù- sự phản kháng, hay giải thoát bế tắc
Cũng như những người lính, nhà văn khác, sau 1975 Phan
Nhật Nam buộc phải vào tù cải tạo. Tôi có tìm đọc được một số
truyện ngắn của ông về thời gian này. Vẫn bút pháp hiện thực, với
khẩu ngữ dân dã góc cạnh, do vậy những trang viết của ông được mọi
tầng lớp đón nhận, và đi sâu vào lòng người đọc. Do hoàn cảnh tù
đày, với độ lùi của thời gian, Phan Nhật Nam đi sâu vào thi ca có tính
chiêm nghiệm: “Bóng tối cóc ngồi gục./ Ừ thì Tâm có Phật!/ Sao trong ta cuồng
lưu,/ Chẳng lẽ trời sinh người,/ Ðể chịu đời khốn khổ?/ Không thể dựng Ngôi Lời,/
Trần thế ngập gian dối./ Tôi đây! Chúa trông đây!/ Tận đáy sâu khổ nhục/ Trần
trụi ngỡ ma trơi/ Hỡi nào ra nhân dạng?!"(Vào một buổi nào đó).
Hay những câu thơ giãi bày tâm trạng u uất của kẻ trên đường bị đi lưu
đày: "Chen chúc lũ tù ngồi lăn lóc… /Ðầu gối đầu/ Xe lắc từng cơn/ Nhướng
cao mắt, mở trợn trừng,/ Chung quanh núi đá, mịt mù đồng hoang./ Ðây là đâu?
Mênh mang đất dữ,/ Trên quê hương chịu chữ đi đầy..." (Nhập Lam
Sơn). Tuy nhiên, với tôi Chuyện Công Cắn là truyện ngắn hay, và
đặc trưng nhất của Phan Nhật Nam viết về những năm tháng tù tội, lưu
đày. Đọc nó, ta thấy được tận cùng của sự khốn nạn. Nhân phẩm con
người không bằng loài súc vật. Những hình ảnh dưới đây, cho ta thấy
thân phận tủi nhục của người tù trốn trại, bị bắt nhốt vào cùm
biệt giam sáu tháng:
"Sáu tháng sau, Công được tháo cùm cho về buồng. Nó
bò với hai tay, hai gối, nhích tới từng khoảng ngắn, xong nằm bẹp lên đất.. Quản
giáo Chuyên đi theo, dùng chân đè lên lưng, đầu, đá vào hai chân lê lết, cong
queo của nó nói lời khinh bỉ.. Mầy có thành con dòi cũng không trốn khỏi đây được.
Tao có thể bắn chết mầy ngay bây giờ nhưng cho mầy sống để ăn cứt! Thằng Công lết
chậm im lặng, mắt ráo hoảnh, không cảm giác, tròng đen khô như hòn than."
14 năm tù đày, cùm biệt giam trên đất Bắc chưa hẳn
bởi can tội mặc áo lính, viết văn, hay Phan Nhật Nam từng là sĩ quan
ở Ban liên hợp quân sự bốn bên, và đã ra nghị đàm ở Hà Nội, mà có
lẽ còn do cái tính khí khái, thẳng tưng của ông. Có lẽ, ông đã đưa
những đặc điểm, tính khí này vào những trang viết của mình. Do vậy,
ta có thể thấy tính phản kháng luôn đậm nét trong truyện ngắn, văn
xuôi của Phan Nhật Nam. Có thể nói, tôi đã đọc khá nhiều trang sách
viết về cải tạo tù đày, nhưng ít thấy có sự phản kháng trực diện
như Chuyện Công Cắn của Phan Nhật Nam. Có thể nói, ông luôn mở
ra một lối thoát, và giải quyết bế tắc dù có mang tính tiêu cực.
Đoạn trích rùng rợn dưới đây, vẫn trong truyện ngắn: Chuyện Công
Cắn, sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó:
"Gã tù lê ống tre bươm trên sân cỏ, lúc lắc thân người
rề rà hướng về phía hầm chứa phân khu kỹ luật... Đổ vào đây... Địt mẹ đổ vào
đây!! Nhiền hét lớn chỉ vào hố chứa... Mầy làm rơi vải tao bắt mầy phải ăn cho
hết! Địt mẹ... đồ ăn cứt!! Gã tù đã đến bên hố chứa phân, gã lóng cóng với ống
bươm.. Phân, nước giải rơi vải tung toé.. Đổ xuống hố.. Địt mẹ thằng chó.. Nhiền
xoay xoay chùm chìa khoá buồng giam tiến gần chực đánh.. Gã tù với một phản ứng
nhanh nhẹn bất ngờ tạt ống bươm vào mặt Nhiền.. Tên nầy hét lớn hốt hoảng đưa
tay vuốt những mảng phân thối, dòng nước dơ. Gã tù nhảy thoắt đến viên đá chận
nắp hố phân. Nó nâng lên... Đập mạnh xuống khuôn mặt lầy nhầy chất bẩn. Nhiền
ngã quay quắt trên đất.
Thằng Công nhảy lên ngồi trên ngực Nhiền, thọc tay vào ổ
mắt... Móc ra!! Nó nuốt khối nhầy ươn ướt máu và cứt. Súng trên chòi canh nổ sắc,
gọn, chính xác từng phát một. Lưng thằng Công ưỡn lên, nẫy nẫy..."
Nếu nói giá trị cơ bản của văn học bao gồm giá trị
hiện thực, và giá trị nhân đạo, thì tôi cho rằng, những tác phẩm
của Phan Nhật Nam không những hội đủ những đặc tính này, mà còn hơn
thế nữa. Ngoài giá trị về văn học, những tác phẩm của ông còn ghi
lại dấu ấn lịch sử thật rõ ràng. Cả cuộc đời Phan Nhật Nam lặn
ngụp trong chiến tranh, kể cả thể xác lẫn tâm hồn. Có thể nói, chưa
khi nào ông bước được ra khỏi cuộc chiến này. Thân phận, và linh hồn
ông dường như cũng uống trọn nỗi khổ đau, oan trái của dân tộc vậy.
Do đó, dù sức cùng lực kiệt Phan Nhật Nam vẫn cần mẫn đi tìm một
lời giải, một lối thoát cho cuộc chiến, và con người...
Vâng! Và 45 năm hậu chiến, hè vẫn còn đỏ lửa trong ông là như vậy.
Leipzig ngày 15-7-2020
Đỗ Trường