08 April 2025

32 NĂM NHÌN LẠI BẾN BỜ - Phạm Ngũ Yên

1.

Trong giấc mơ màu buồn, chiếc lá mới chớm vàng ngoài sân vừa rụng xuống giữa cơn say. Em mang tình yêu của tôi đi qua những góc đường mưa bão. Tia nhìn lặng câm không thể làm hồi sinh một màu lá. Tôi đứng chôn chân nghe chiều khóc không thành lời.

Tôi chỉ là một người đàn ông vừa đi qua tuổi 70. Vừa ôm công việc trong nhà và bên ngoài, vừa tập tành viết lách. Bỗng tiếng chân ai qua thềm nghe khẽ khàng như tiếng côn trùng cựa mình luyến tiếc ngày bình an. Đến nỗi mùa thu cũng giật mình. Tôi vừa biết làm một nhà văn không dễ dàng chút nào. Vì trái tim trót nghe quen những lời nũng nịu.

Có những người đàn bà đi qua đời một người đàn ông hồn nhiên như chim trong vườn. Vừa nhỏ bé mảnh mai nhưng sao vội vàng như một tia nắng. Bỏ lại sau lưng quá khứ chật chội gió mùa và tiếng bánh xe mơn trớn mặt đường.

Có những người đàn bà đi qua đời một người đàn ông lóng lánh mắt cười nhưng sao hồn mình nghe dao cứa? Vì những cánh buồm ra khơi nhưng vẫn làm nặng lòng bao bến đợi. Mùa thu này tôi vừa viết xuống những lời thơ bao dung với người nhưng với mình thì đau điếng.

Ai đó, đã muốn tôi viết về những kỷ niệm của 32 năm cầm bút nơi xứ người. Coi như những hồi tưởng trùng điệp mà bất cứ người viết văn nào cũng đều cảm thấy hứng thú. Nhưng với tôi, không phải vậy. Tôi vừa chợt nhận ra tôi đã chọn lầm cái nghiệp. Tôi đã gõ lầm cánh cửa mở ra một khu vườn phủ che những điều dụ hoặc. Khi biết cây nhánh không còn xanh, cũng là lúc trái tim không còn vang lên những lời kiêu hãnh.

Ngay chỗ tôi ngồi chiều nay, có vệt son nào vừa sót đọng trên miệng tách cà phê. Màu trắng của sành sứ và màu đỏ của son môi chập chờn như một chiếc lá thu bị thương tích. Lát nữa đây, tôi sẽ trở về căn phòng nhỏ của riêng tôi. Trên khung tường, chân dung ai nhìn xuống, có nụ cười rạng rỡ mầu nhiệm vừa cứu vớt đời tôi mà cũng vừa làm tôi sa bại. Thành phố của em. Ngôi nhà của em. Nhưng trái tim em đã muốn dành cho người khác?

2.

Những nhà văn giống như những đạo diễn trên sân khấu đời. Họ hiểu từng hạnh phúc, từng khổ đau. Họ hiểu từng chặng đường nhấp nhô gai nhọn và hiểu luôn những bình nguyên. Họ để nhân vật thổn thức bất an trên những bối cảnh êm đềm hay để đôi tình nhân suông sẻ nắm tay qua những nghịch cảnh. Họ có quyền phóng tay viết nên những điều hư cấu phủ lên một cuộc đời thật. Có người còn ví von nhà văn là Thượng Đế!!!

Tôi không từng nắm bắt được kinh nghiệm đó. Tôi hiểu, nhà văn, là viết xuống giùm khổ đau và hạnh phúc của người khác, cho người khác.

Còn riêng khổ đau của chính mình thì sao?

32 năm sinh hoạt trong Văn Bút, tôi chưa từng biết hết những khúc nôi, những ngọn nguồn, như một nhánh rong bất ngờ rơi trên một suối đời nhân quả.

Những luồng xe vụt qua những ngã tư đèn, bên dòng người xuôi ngược.

32 năm theo đòi nghiệp viết, tôi vượt qua những hiu hắt đèn vàng, nhưng lại va đụng những rào cản phiền muộn. Có những điều phân vân sao cứ ủ chặt trong lòng như màu mực đọng hoài trên trang giấy ngày thơ dại?

Năm 1992, bài viết đầu tiên tôi viết xuống trong căn phòng chung cư mang tên một Thánh Nữ—Santa Maria—Mùa xuân sắp từ giã chúng tôi để nhường chỗ cho một mùa hè oi bức. Những cơn gió từ hoang mạc thổi về, vuốt ve trên mặt vách đá hai bên đường North Capital of Texas và ngọn đồi mang dấu chân của người da đỏ. Trước đó là thời gian của Tháng Ba còn những đóa hoa màu tím than mọc dài trên xa lộ. Màu hoa gợi hứng cho một chuyện tình đồng thời khởi đầu cho một định mệnh. Truyện ngắn “Hoa Bluebonnets Cho Hai Người” tôi hoàn thành trong một tuần lễ trong đó có hai ngày cuối tuần viết ngoài quán cà phê Dunkin Donuts. Tôi hoàn chỉnh và đánh máy lại bằng chiếc máy đánh chữ mượn từ một người bạn tốt bụng. Đêm mênh mông những cánh gió bên kia cầu 183, những dòng chữ cũng mênh mông trì kéo một hạnh phúc. Tôi không biết tôi có thể viết được nhiều hay ít sau này, nhưng tôi biết tôi không thể không viết vì đời sống này cho tôi nhiều thứ hơn tôi tưởng. Tôi viết, vừa để tiếp nối những mạch viết bị tắt nghẽn sau ngày 30 Tháng Tư, 1975. Và cũng vì một lý do khác.

Trong một vài số báo mà tôi tìm mua tại chợ Liên Hương, nơi tôi ở—tôi đọc thấy một Thông báo của Văn Bút Vùng Nam Hoa Kỳ—Nội dung kêu gọi mọi người viết bài dự thi nhân dịp kỷ niệm ngày mất nước. Thời hạn nhận bài (tôi không nhớ rõ) nhưng hạn cuối là ngày 30 Tháng Tư năm 1992. Lúc tôi đọc thông báo và viết bài gởi đi thì thời gian chỉ còn hai tuần. Tôi gởi truyện ngắn “Hoa Bluebonnets Cho Hai Người” về cho Ban Tổ Chức. Sau một tuần, tôi gọi phone cho nhà văn Nguyễn Văn Sâm—vừa là Chủ Tịch Văn Bút, vừa là một thành viên trong Ban Tuyển Chọn—để hỏi xem bài đã đến chưa. Ông nói chưa nhận được bài và nghĩ chắc bưu điện làm thất lạc, khuyên tôi nên gởi “over night”, vì thời gian nhận bài chỉ còn vài ngày. Tôi vừa nguyền rủa Bưu điện, vừa bóp bụng tìm ra chỗ gởi thư. Cước phí khoảng gần 15 dollars trong thời điểm đó, cho một cái thơ đi suốt đêm—một số tiền không nhỏ đối với một người mới vừa định cư như tôi.

Đêm sau, tôi gọi cho nhà văn Nguyễn Văn Sâm và được ông trả lời là bài của tôi đang nằm trên bàn viết.

3.

Cái định mệnh mà tôi nói ở trên, là Giải Nhứt Truyện Ngắn Văn Bút Nam Hoa Kỳ năm 1992.

Ngày về nhận giải ở thành phố Houston, tôi được một người bạn trẻ là Michael Nguyen chở đi. Anh làm chung hãng, vừa là Supervisor, vừa là một người Thầy dạy tôi công việc.

Lần đầu tiên tôi gặp nhà văn Nguyễn Văn Sâm, ông đang ngồi giữa hàng ghế chủ tọa. Có nhà văn Xuân Vũ của “Đường Đi Không Đến…” Có nhà văn—nhà báo Nguyễn Đình Phùng, vừa viết văn vừa điều hành tờ bán nguyệt san Tự Do… Và một vài người khác…

Giải thưởng 500 dollars như thông báo, không ngờ sụt xuống còn 300. Tôi không kịp hỏi lý do, chỉ đoán hình như có vài điều không vui nằm phía sau giải thưởng.

(Sau này, gặp lại nhà văn Nguyễn Văn Sâm tại Round Rock, Austin, ông có nhắc tôi về chuyện ngày đó và nghe ông nói thêm về một biến cố trước thời gian phát giải, nhà văn Lê Thao Chuyên, một cây viết nữ trong vùng, cũng có gởi bài dự thi, cũng được giải thưởng, mới vừa gặp tai nạn, và qua đời ngay lúc đó. Lê Thao Chuyên cũng là chị ruột của nữ danh ca Ngọc Lan.)

Tôi nhìn quanh căn phòng dùng làm nơi phát giải. Chỉ khoảng gần 30 người, tính cả Ban Tổ Chức, cùng các tác giả gởi bài và quan khách tham dự. Cạnh đó có thêm những người trong ban văn nghệ “cây nhà lá vườn…”

Tôi trở về Austin ngay buổi chiều hôm đó vì hôm sau chúng tôi còn phải đi làm. Ánh sáng nhá nhem và không bao lâu đêm sẽ mịt mùng trên đoạn đường mang dáng thu. Người bạn vừa lái xe vừa nói chuyện bên cạnh, nhưng hình như anh không giấu được sự muộn phiền. Còn tôi, số tiền 300 dollars còn mới nguyên trong phong bì, dù sao cũng làm tôi ấm lòng đôi chút. Vì tôi biết nhờ vậy mà tôi có thể thu về những giá trị tinh thần khác—Cái giá trị mà vật chất không thể san sẻ.

Con đường có lúc chìm trong khu rừng sồi đang oằn oại cành nhánh cùng ánh trăng xanh trên đầu—cái màu trăng chạy đuổi theo xe đẹp và buồn như một khúc tình đau rát mặt. Mọi thứ dường như có khả năng kéo tôi bay lên những nghịch cảnh cùng vinh quang của đời. Trong đó thấp thoáng những thủy chung và bạc tình. Những tháng năm trùng điệp những cơn mưa. Những đời sông chảy xuôi về biển cả.

4.

Tôi thành danh và đứng vững trên đôi chân của mình, từ mùa thu 1992.

Có cần để viết xuống hay không, khi ý nghĩa của hai chữ đó ẩn giấu đằng sau là một lời nguyền lạc vận?

Những dòng mực có miệt mài cùng tháng năm, như cơn mưa thấm sâu vào lòng đất? Những mầm hạt trong vườn tưởng trở thành bông hoa nhưng cuối cùng tản lạc trong mùa màng. Những trang văn hổn hển ước vọng không qua hết cuộc buồn vui. Những tình yêu óng chuốt một thời. Nơi có môi hôn cùng nước mắt rưng rưng giữa màu đêm phơi phới. Nơi những người đàn bà khụy chân níu kéo một tương phùng. Tất cả lần lượt trở về, sau những bước chân kiếm tìm tuyệt vọng.

Có nghĩa gì đâu những giây phút phù hư nhưng là cuộc say sóng kéo dài ba mươi mấy năm? Tôi đang ngồi đếm “Thành Bại—Mất Còn…”

Trong suốt thời gian sinh hoạt cùng Văn Bút, biết bao nhiêu bằng hữu đi qua đời nhau, hay cùng ngồi xuống viết lách. Biết bao nhiêu vì sao băng qua một thiên hà khô lạnh. Từ cột mốc buổi chiều mùa thu cách đây 32 năm, tôi bước qua một chặng dài mưa nguồn chớp biển. Những dấu chân ướt mèm như giẫm đạp lên một cơn say tiền kiếp.

Nói sao cho đủ khi đêm dường như không kịp trở mình thành sáng mai? Cùng những mơ ước như lá khô bị dán chặt xuống giường chiếu… Những người bạn, những nụ cười thân quen đuổi theo nhau về đâu? Những nhân vật mang tình yêu trên vai và trái tim tràn đầy nhân ái?

Có những người bạn văn rất thân—cả nam lẫn nữ—đã quay lưng lại với tôi không một lời thuyết minh. Có những điều nghịch lý đến nỗi trở thành không tưởng nhưng được họ dựng lên làm bảng chỉ đường cho đám đông xông lên và hành quyết. Họ quên rằng mới ngày hôm qua, hay mới đây thôi, họ đã nhấp môi uống cùng tôi những chén đắng chờ qua hết một đêm dài nhiễu nhương?

Có những người bạn say đắm văn tôi và uống từng lời văn tôi như cửa sổ phòng đêm mở ra uống no từng ngụm gió đêm khoáng đạt. Nhưng bây giờ, họ xa lạ cùng tôi trong một thành phố tưởng chừng xa lạ không kém. Lý do rất mơ hồ…

Những đôi chân đang mỏi vì đường dài, trong đó không phải chỉ mình tôi. Những ký ức không tên nay trở thành lời trăn trối. Rằng không có hạnh phúc hay khổ đau trong một khu vườn mà hoa hồng ít hơn gai nhọn.

Mùa thu sinh ra và sẽ chết đi. Dòng sông không bao giờ chảy ngược.

Đừng chờ đợi tôi viết về Văn Bút Nam Hoa Kỳ. Nơi tôi trưởng thành và già nua vì ảo tưởng một bến bờ hạnh phúc. Nơi tôi khát cháy một tình yêu đích thực giữa đám đông và mình. Chưa vội nói đến giữa những người cầm viết.

5.

Có những điều dù rất quen nhưng cuối cùng lại lạ lùng làm sao. Có những lúc tôi tưởng chừng chạm tay vào một cánh cửa đã khép.

Tôi yêu những đêm mưa về sáng gồng mình đi qua những hành lang loang loáng ánh đèn để đến nhà nàng. Những cơn mưa quen thuộc và dấu ái như vậy sao hôm nay dội vào lòng tôi nhiều nhức nhối. Như tiếng lòng lặng thinh gõ nhịp lên quá khứ muộn phiền.

Tôi gối đầu lên những đợi chờ. Và mơ ước giản đơn một màu lá. Có những giọt mưa làm mát những thăng trầm đồng thời có những giọt mưa làm rệu rã đất đai.

32 mùa thu đi qua tôi đứng trong mảnh vườn chữ nghĩa, nhưng đôi lần, chân dợm bước ra ngoài.

Tôi chỉ muốn những con chữ tôi viết xuống trở thành những bông cúc chiều nay mọc bên đường. Không biết rằng bão giông đang thổi tốc lòng người. Những nhánh lá đã mỏng mềm mà lời văn còn mỏng mềm hơn. Nên cuối cùng bất lực.

Phạm Ngũ Yên