Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Tôi cố gắng trả lời cô gái trẻ: “Đôi khi, những ký ức kinh
hoàng quá sức chịu đựng, và bạn không thể tìm được từ ngữ nào để diễn tả. Nhưng
ngay cả khi không bao giờ được nói ra hoặc chia sẻ, chấn thương ấy vẫn có cách
để truyền đi. Đây là lý do tại sao tất cả chúng ta cần tìm cách đối mặt và xử
trí nỗi buồn đó. Đối với tôi, đó là thông qua hành động viết.”
Cô gái trẻ gật đầu, đoạn cô gục mặt xuống, khóc. Bạn bè cô vội
vã chạy đến an ủi cô. Căn phòng lúc đó im lặng ngoại trừ tiếng khóc của cô.
Hình như trong khoảnh khắc đó, cô cuối cùng cũng nhận ra rằng cô là một phần của
một điều gì đó to lớn hơn nhiều so với chính cô, rằng cá thể con người và lịch
sử gắn kết chặt chẽ với nhau – rằng những quả bom tàn phá một vùng đất xa xôi
nhiều năm trước, bằng cách nào đó, vẫn tiếp tục ầm vang trong trái tim của một
cô gái sinh ra nhiều năm sau ở vùng Trung Tây nước Mỹ.
Nhưng chiến tranh là như vậy.
Tôi nhìn cô gái khóc và điều đó khiến tôi nhớ đến câu nói nổi
tiếng của nhà văn James Baldwin: “Bạn nghĩ rằng nỗi đau và sự tan vỡ của bạn là
chưa từng có trong lịch sử thế giới ư? Nhưng rồi bạn đọc sách...”
Sau bài nói chuyện của tôi, cô gái đến nói với tôi rằng cô
luôn muốn viết văn. Và khi nhìn thấy tôi, một nhà văn Việt Nam đầu tiên mà cô từng
gặp, cô cảm thấy rằng cô có thể làm được.
Trong một buổi thuyết trình khác vài năm sau đó, một thanh
niên, cũng là người Mỹ gốc Việt, đã đến cảm ơn tôi sau đó. Khi còn là sinh viên
đại học, anh đã từng tham dự một trong những buổi đọc sách của tôi và đã mua một
cuốn sách của tôi, cuốn “Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese
Diaspora” [1].
Hiển nhiên, cuốn sách đó đã tạo được tác động – đến mức anh
đã bắt cha mẹ mình cùng đọc. Tôi đã rất cảm động khi một người Mỹ gốc Việt thế
hệ thứ hai không nói tiếng Việt và hầu như không biết chút gì về những trải
nghiệm của những người vượt biên, cuộc di cư hàng loạt của người Việt Nam sau
chiến tranh, trong đó hàng trăm ngàn người đã phải chịu đựng cảnh giết người,
hãm hiếp, bão tố và bỏ mình ngoài biển cả, đã nói với tôi rằng những gì tôi viết
trong cuốn sách đã mở toang cánh cửa quá khứ của cha mẹ anh.
“Tôi hỏi bố mẹ tôi, ‘Tại sao bố mẹ không bao giờ kể cho con
nghe về chuyện vượt biên hoặc cuộc sống trong các trại tị nạn, cuộc sống trong
chiến tranh của bố mẹ như thế nào?’ thì bố mẹ tôi trả lời, ‘Ồ, tại vì bố mẹ
không muốn con bị ám ảnh bởi những câu chuyện kinh hoàng đó của bố mẹ.’”
Nhưng chàng trai trẻ muốn tìm hiểu sự thật. Anh muốn biết điều
gì ám ảnh cha mẹ mình. “Cuốn sách của ông đã khơi gợi bố mẹ tôi kể lại câu chuyện
của hai người. Vì vậy, họ hứa từ bây giờ trở đi họ sẽ kể cho tôi nghe mọi thứ
tôi muốn biết.”
Tôi phải thú nhận rằng hai trường hợp nêu trên là những trải
nghiệm để lại dấu ấn mạnh mẽ nhất mà tôi từng có trong hơn ba thập kỷ làm nhà
văn. Nỗi buồn của riêng tôi, được thể hiện qua câu chữ viết ra, bằng cách nào
đó đã kết nối thế hệ này với thế hệ khác, và thu ngắn khoảng cách mênh mông thường
được tạo nên bởi sự im lặng và nỗi đau ẩn giấu.
Là một cậu bé tị nạn lớn lên trong phẫn nộ và lúng túng trên
đất Mỹ, bên trong tôi đã bị phân mảnh. Hệ lụy đè nặng bởi những ký ức về một cuộc
chiến mà tôi chứng kiến khi còn là đứa trẻ trong gia đình quân đội, tôi đặt
chân đến Mỹ khi còn là một cậu trai vị thành niên, và đã trở thành một người Mỹ
nhanh đến nỗi, sau một vài năm, tôi cảm thấy như thể có hai phiên bản của chính
mình đang tranh giành sự chú ý của tôi, đó là hai nhịp tim tách biệt, mỗi nhịp
đập một kiểu khác nhau.
Sau khi tốt nghiệp đại học, thay vì học Y khoa như cha mẹ
mong đợi, tôi quyết định trở thành một nhà văn. Tôi làm điều đó trái với mong
muốn của cha mẹ mình và cũng vì tuyệt vọng, không lối thoát. Tôi không bao giờ
nghĩ là tác động của những điều mình viết ra có thể ảnh hưởng đến các thế hệ
tương lai. Tôi chỉ muốn kết nối quá khứ Việt Nam với tương lai Mỹ của chính
tôi. Tôi mong muốn được trở nên trọn vẹn một lần nữa.
Vậy, tại sao tôi lại kể cho bạn nghe tất cả những điều này?
Bởi vì đã năm mươi năm trôi qua kể từ khi cuộc chiến đó kết thúc, và cậu bé tị
nạn giờ đây đã là một người đàn ông Mỹ bước vào tuổi già. Và điều hay ho nhất
tôi có thể nói về chiến tranh, nếu bạn từng trải qua và sống sót, là sự kinh
hoàng và nỗi đau sẽ phai nhạt dần theo thời gian, đặc biệt nếu bạn cố sức vượt
qua. Nhưng cùng một cách suy diễn ấy, đối với những kẻ trong chúng ta bị chiến
tranh tác động sâu sắc, nó sẽ không bao giờ thực sự kết thúc, cho dù chúng ta
viết về nó bao nhiêu chăng nữa để xua đuổi những bóng ma vẫn bám sâu trong lòng
mình.
Sau hàng trăm bài tiểu luận, bài viết và bốn cuốn sách ra đời,
sau khi tham gia một vài bộ phim tài liệu về Việt Nam, sau nhiều năm làm bình
luận viên trên đài phát thanh, nhiều năm đi diễn thuyết và đọc sách trước công
chúng – tôi vẫn thức giấc vào một buổi sáng sớm nào đó với đôi mắt giàn giụa nước
mắt, bàng hoàng sau giấc mơ linh động như thật về một thế giới đã mất từ lâu.
Năm mươi năm trôi qua nhưng vẫn hiện hữu một phần trong tôi đứa trẻ 11 tuổi đứng
một mình trong trại tị nạn ở Guam, lắng nghe đài BBC thông báo về sự sụp đổ của
Sài Gòn, vẫn thương tiếc một đất nước đã mất, một tuổi thơ bị cướp đi.
Những bóng ma cũ, tôi xin thưa với bạn là chúng vẫn lảng vảng
đâu đây, chưa hoàn toàn bị xua đuổi, chưa hoàn toàn được xoa dịu bởi những câu
chữ viết ra, bất kể những câu chữ đó được viết một cách hay ho, trau chuốt đến
đâu.
Và họ bị ám ảnh như thế nào? Cha tôi đã chiến đấu trong cuộc
chiến đó từ đầu đến cuối, và với một ý chí và kỷ luật hiếm có, ông đã lấy
bằng MBA, trở thành một giám đốc điều hành ngân hàng tại Mỹ khi ông đã quá tuổi
trung niên. Nhờ ông, chúng tôi thoát khỏi cảnh nghèo đói. Nhìn từ góc độ nào
thì chúng tôi cũng đang sống giấc mơ Mỹ, nhưng tối tối tại bàn ăn chúng tôi
luôn quay trở lại cuộc nói chuyện về đề tài Việt Nam. Bên cốc vang hoặc rượu
whisky và soda, ông sống lại với những trận đánh mà ông từng chiến đấu và chiến
thắng. Hoặc chúng tôi nói về những người chúng tôi quen biết, những người mà mạng
sống họ bị cướp ra khỏi chúng tôi, về những món chúng tôi ăn, về thanh âm những
người bán hàng rong rao hàng trong buổi chiều nóng nực. Cuối tuần, có khi ông
ngồi uống rượu với những người bạn lính, họ kể cho nhau nghe những trận chiến họ
tham dự, khung cảnh chiến tranh sống lại – bom rơi, trực thăng lơ lửng trên bãi
chiến trường mù mịt khói súng và đạn cối nổ tung. Đôi khi có tiếng cười lớn về
những kỷ niệm đẹp. Những lần khác, giọng nói của họ trở nên buồn bã, nhất là
khi nói về những người bạn đồng đội đã hy sinh và những người bị giam giữ trong
các trại cải tạo – những giọng nói khiến tôi tuyệt vọng.
Cuộc sống của chúng tôi ở Mỹ vì thế trở nên mâu thuẫn. Đám
cưới, lễ tốt nghiệp đại học, một căn nhà mới, kỳ nghỉ hè ở châu Âu, em bé chào
đời – giấc mơ Mỹ thành hiện thực – bị những thảm kịch Việt Nam xen vào, một quá
khứ vẫn tiếp tục rỉ máu vào hiện tại. Câu chuyện về sự thăng tiến của chúng tôi
ở Mỹ liên tục bị kéo ngược trở lại một nơi bị cướp, một đất nước đã mất, một cuộc
sống không còn.
Chiến tranh nổ ra khi mẹ tôi không cầm được nước mắt trong
lúc đọc những lá thư mỏng manh được gửi từ người thân và bạn bè ở Việt Nam
trong những năm tháng chiến tranh lạnh – những câu chuyện về sự nghèo đói và
cái chết, sự mất mát của họ khiến bầu không khí buổi tối của chúng tôi rơi vào
sự trầm tư im lặng. Và ngay cả khi chúng tôi không muốn dính líu gì đến nó, Việt
Nam vẫn liên tục xuất hiện trên TV và báo chí trong những năm đầu đó. Trong bản
tin buổi tối với Walter Cronkite, chúng tôi thấy hình ảnh mờ nhạt những thuyền
nhân nhấp nhô trên những chiếc thuyền ọp ẹp, họ vẫy cờ khi thấy một con tàu đi
ngang qua, cầu xin được cứu vớt. Rồi điện thoại reo: Chú đã chết vì trụy tim
sau khi bị thẩm vấn. Rồi điện thoại lại reo: Bà này, bà nọ cùng gia đình bà đã
mất xác trên biển.
Cuối cùng, tôi đành chấp nhận rằng sự lạc quan theo kiểu Mỹ
của tôi sẽ luôn bị đè nặng bởi những ký ức về một đất nước đã mất. Chiến tranh
đã kết thúc. Chiến tranh không bao giờ kết thúc.
Tuy nhiên, nếu không viết, nếu không có những nỗ lực để mang
lại ý nghĩa cho tất cả những chuyện ấy, tôi không thể tưởng tượng nổi mình sẽ
xoay xở như thế nào sau ngần ấy năm.
Vì vậy, tôi viết. Để kiềm chế sự hỗn loạn. Tôi viết vì lịch
sử – như Baldwin đã cảnh báo – bị mắc kẹt trong con người và con người bị mắc kẹt
trong lịch sử, nhưng tôi viết vì biết rằng đối với mỗi lời cảnh báo của
Baldwin, luôn có lời khuyên khôn ngoan của M. Scott Momaday: “Bất cứ điều gì
cũng có thể chịu đựng được miễn là bạn có thể tạo ra một câu chuyện từ
nó...”
Ngày nay, tôi vẫn cố gắng viết, mặc dù năng lực tôi đã sút
giảm và ý chí cũng suy yếu đi nhiều. Nhưng tôi vẫn viết bởi với thời gian tôi
biết rằng có sức mạnh chuyển hóa trong một câu chuyện hay được kể.
Hãy ôn lại phân cảnh nhỏ này, nó tiếp tục tiếp lực cho
tôi.
Một người bạn dạy học dùng truyện ngắn “Show and Tell/
Trình bày và kể chuyện” trích từ tập truyện Birds of Paradise
Lost [2] của tôi làm đề tài trong lớp học tại Đại học New
Orleans cho một nhóm học sinh trung học có ước vọng trở thành giáo viên. Trong
truyện, một đứa trẻ tị nạn vào trường học lớp 7 và một thằng bé quê mùa trong lớp
kết bạn với cậu. Cả hai cậu bé phải đối đầu với một đứa có thói quen bắt nạt
các đứa khác ở trường tên là Billy, cha Billy đi lính và bị thương ở Việt Nam.
Billy đi theo chọc phá hai đứa trẻ. Cậu bé người Việt không nói được tiếng Anh
nhưng cậu biết vẽ, cậu vẽ về chuyện khổ của mình trong giờ Show & Tell
trong lớp học. Trực thăng, quân lính, súng đạn, một chiếc thuyền lênh đênh trên
biển động hiện trên bảng đen và sau đó cậu bé tị nạn nhờ người bạn mới kể lại
câu chuyện của mình cho cả lớp nghe. Cùng nhau, hai cậu bé đã kể một câu chuyện
đau buồn và gian khổ khiến cả lớp vỡ òa trong tiếng vỗ tay và reo hò.
Và đây là khoảnh khắc tuyệt vời: Người bạn dạy lớp học đó đã
chia sẻ với tôi một email được gửi từ một trong những học sinh. Sau khi đọc câu
chuyện của tôi, một cậu học sinh đã ra ngoài ngồi ở sân sau, khóc. Cậu nhận ra
chính mình trong câu chuyện: Cậu chính là Billy. Gia đình nghèo túng và đầy đau
buồn, cậu đã trút sự phẫn nộ trong lòng mình lên đứa trẻ Việt Nam hôi hám đáng
thương bước vào lớp học, một đứa trẻ thậm chí còn thấp hơn cậu trong nấc thang
xã hội [3]. Nhưng bây giờ, sau khi đọc câu chuyện của tôi, có điều gì đó đã vỡ
ra, giờ đây cậu ta quyết tâm đi tìm đứa trẻ đó để nói câu “Tôi xin lỗi bạn”.
“Xin chúc mừng bạn,” người bạn giáo sư viết. “Câu chuyện của
bạn đã khiến kẻ chuyên đi bắt nạt phải khóc”.
Khi tôi bắt đầu đặt bút viết văn cách đây nhiều năm, tôi chỉ
muốn định hình nỗi đau. Nhưng trải qua nhiều năm, tôi thấy rằng có những món
quà bất ngờ của văn chương đem lại. Nó kết nối và chuyển hóa cuộc sống của người
khác vượt xa trí tưởng tượng của tôi. Nếu chấn thương có thể kế thừa, thì hãy để
những câu chữ viết ra, câu chuyện hay được kể, trở thành liều thuốc, liều thuốc
tiên chữa lành vết thương, thành cây cầu bắc qua nhiều thế hệ, là hướng đi đến
hòa bình.
Andrew Lam*
(Trịnh Y Thư dịch từ nguyên tác tiếng Anh “How to Write an
Ending to a Never-Ending War”).
Chú thích của người dịch:
[1] Những giấc mơ hương: Những suy nghĩ về cộng
đồng lưu vong Việt Nam, một tựa sách của tác giả Andrew Lam.
[2] Bầy chim trong thiên đàng đánh mất, một
tựa sách khác của tác giả Andrew Lam.